Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các phường vùng ven thành phố huế, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.08 KB, 101 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Huế là một thành phố của tỉnh Thừa Thiên Huế, nổi tiếng với các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp như: nghề đúc, chằm nón, dệt may, kim hoàn...đây là một tiềm
năng lớn để phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành nghề nói riêng. Những
sản phẩm này mang đậm nét văn hóa Huế mà ai đã từng đến Huế thì không thể
không nhắc đến.

U

Ế

Căn cứ quyết định số 1445/QĐ-UBND ngày 23 tháng 6 năm 2008 phê duyệt

́H

Đề án quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 “Phát triển tiểu thủ công nghiệp phải gắn liền với phát triển



kinh tế- xã hội của từng địa bàn, trên cơ sở thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công

H

nghiệp với quan điểm xuyên suốt: bền vững, thân thiện với môi trường; bảo tồn tinh

IN

hoa và phát huy giá trị bản sắc văn hóa của quê hương, dân tộc, gắn với đảm bảo an


ninh và quốc phòng”. Những năm qua các ngành nghề, làng nghề truyền thống trên

K

địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung, thành phố Huế nói riêng đã và đang được

̣C

khôi phục và phát triển. Từ thành thị đến nông thôn đã xuất hiện nhiều ngành nghề

O

mới, có quy mô và hình thức tổ chức khác nhau, đã góp phần chuyển dịch cơ cấu

̣I H

kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tiến bộ và hiệu quả. Các làng nghề
truyền thống, làng nghề mới đã từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nhất là

Đ
A

đối với những vùng ven thành phố, vùng thuần nông trước đây. Phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp là một vấn đề quan trọng để giảm bớt sức ép về lao động
nông nhàn trong nông thôn, đóng góp một tỷ lệ lớn trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp của tỉnh nhà.
Tuy nhiên, việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp còn nhiều bất cập,
các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống có nguy cơ mai một, hàng hoá
chất lượng kém, tiêu thụ khó khăn, giá cả thấp... Đặc biệt là sự phát triển của tiểu
thủ công nghiệp tính theo các chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối đều chưa tương xứng

với tiềm năng kinh tế- xã hội hiện có.

1


Thực trạng trên đã và đang đòi hỏi các cấp, các ngành, các nhà khoa học cần
phải đánh giá đúng nguyên nhân, đề xuất phương hướng và giải pháp đồng bộ, khả
thi nhằm thúc đẩy các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tại địa phương phát triển
đúng hướng và hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị trường.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi lựa chọn đề tài “Phát triển ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp ở các phường vùng ven thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm
để tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Ế

Phát triển các ngành nghề TTCN và làng nghề truyền thống ở Việt Nam là

U

đề tài đã được các nhà kinh tế nghiên cứu trên nhiều phương diện, đem lại nhiều

́H

kết quả có giá trị thực tế. Có thể nêu ra các công trình sau đây:

- “Phát triển thị trường làng nghề tiểu thủ công nghiệp vùng Đồng Bằng




Sông Hồng”, Đề tài NCKH cấp bộ: do PGS. TS Trần Văn Chử, Học viện Chính trị
Quốc gia HCM làm Chủ nhiệm đề tài, năm 2004- 2005.

H

- “Về các giải pháp phát triển tiểu thủ công nghiệp theo hướng công nghiệp

IN

hóa, hiện đại hóa ở vùng ĐBSH”, Đề tài KH cấp bộ, do TS. Đặng Lễ Nghi, Học
viện Chính trị Quốc gia HCM, làm Chủ nhiệm đề tài, năm 1998.

K

- “Phát triển tiểu thủ công nghiệp trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

̣C

phần ở đô thị Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sỹ của Nguyễn Hữu Lục, năm 1996.

O

- "Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận án tiến sỹ của Trần Minh Yến, năm 2003.

̣I H

- Một số bài viết khác như: “Làng nghề thủ công truyền thống Bắc Ninh” của
tác giả Đỗ Thị Hảo; “Phát triển làng nghề truyền thống với sự nghiệp công nghiệp


Đ
A

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của PGS.TS Nguyễn Huy Oánh; “Làng
nghề trong quá trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn” của TS. Vũ thị Thoa…
Các công trình khoa học nghiên cứu trên đã đi vào đánh giá tình hình việc
bảo tồn, phát triển làng nghề; các giải pháp phát triển TTCN ở tầm vĩ mô; hoặc
nghiên cứu biện pháp tổ chức, quản lý sản xuất TTCN, hoặc mang tính chất tổng
kết một giai đoạn phát triển và định hướng hoạt động TTCN ở một địa phương nào
đó…Còn ít công trình khoa học đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống, đề cập tới
phương hướng chiến lược, các biện pháp đẩy mạnh sản xuất “tiểu, thủ công nghiệp”

2


trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đánh giá tác động môi trường của các
cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố Huế. Vì vậy, tôi hy vọng
luận văn này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề cấp bách
để thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong giai đoạn đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hướng đến sự phát triển bền vững ở
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Mục tiêu của đề tài
3.1. Mục tiêu chung

Ế

Đánh giá thực trạng phát triển và hiệu quả kinh tế của các ngành nghề TTCN

U


ở các phường vùng ven thành phố Huế, phát hiện được những vấn đề kinh tế - xã

́H

hội - môi trường cần phải giải quyết và đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy
phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tại địa bàn nghiên cứu.



3.2. Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hoá những cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển ngành nghề tiểu

H

thủ công nghiệp ở Việt Nam nói chung và thành phố Huế nói riêng.

IN

- Đánh giá thực trạng phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chủ yếu trên
địa bàn thành phố Huế.

K

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành nghề tiểu thủ công

̣C

nghiệp hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

O

4.1. Đối tượng nghiên cứu

̣I H

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp trong các cơ sở sản xuất, các hộ sản xuất TTCN ở các phường vùng ven

Đ
A

thành phố Huế.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về không gian:
Nghiên cứu tình hình phát triển các ngành nghề tiểu thủ công chủ yếu tại các

phường vùng ven thành phố Huế như: An Đông, An Tây, Hương Sơ, Hương Long,
Kim Long, Thủy Xuân, phường Đúc…
- Về thời gian:
+ Đánh giá thực trạng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp giai
đoạn 2005 - 2010.

3


+ Đề xuất các giải pháp phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các

phường vùng ven thành phố Huế đến năm 2020.
5. Phương Pháp nghiên cứu và cách thức tiến hành
5.1. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
+ Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp so sánh, khái quát hóa.

+ Thu thập số liệu để xử lý và đánh giá thực trạng

U

+ Tìm hiểu các tài liệu liên quan đến đề tài

Ế

5.2. Cách thức tiến hành

́H

+ Tìm giải pháp phù hợp nhằm phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn



TP Huế.
6. Những đóng góp mới của luận văn

- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển các ngành

H


nghề tiểu thủ công nghiệp ở các phường vùng ven thành phố Huế.

IN

- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công

K

nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thành
phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

̣C

- Đánh giá tác động đến môi trường của một số cơ sở sản xuất tiểu thủ công

O

nghiệp ở các phường vùng ven thành phố Huế, để từ đó đề xuất các giải pháp khắc

̣I H

phục nhằm hướng đến phát triển bền vững.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những lợi thế của địa

Đ
A

phương để phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế.
7. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp.

Chương 2: Thực trạng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các
phường vùng ven thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở các phường vùng ven thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
CÁC NGÀNH NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Khái niệm tiểu thủ công nghiệp
1.1.1.1 Quan niệm tiểu thủ công nghiệp của các nhà kinh tế trên thế giới

Ế

- Quan niệm tiểu thủ công nghiệp của V.I. Lênin

U

Trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, khi lực lượng sản xuất phát

́H

triển đến một trình độ nhất định, dẫn đến năng suất lao động tăng lên, đặc biệt khi
có công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện cùng với những kinh nghiệm đã tích




luỹ được đã tạo nên bước phát triển nhảy vọt trong trồng trọt và nghề thủ công. Từ
đó xuất hiện sự phân công lao động lần thứ nhất, trồng trọt tách khỏi chăn nuôi. Sau

H

đó, các nghề thủ công cũng phát triển mạnh tạo ra sự phân công lao động lần thứ

IN

hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp [12, tr.250- 253]. Thủ công nghiệp là

K

nền sản xuất trung gian giữa nông nghiệp và công nghiệp, là một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân. Trong xã hội phong kiến mặc dù kinh tế thủ công ghiệp chưa tách

̣C

khỏi nông nghiệp song nó vẫn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Vì nền sản

O

xuất bị tách ra làm hai ngành chính là nông nghiệp và thủ công nghiệp nên đã ra đời

̣I H

nền sản xuất hàng hoá, sự trao đổi giữa những người sản xuất riêng biệt đã trở thành
tất yếu của xã hội.


Đ
A

“Thủ công nghiệp” là một nghề thủ công, hình thức sản xuất công nghiệp

dựa trên quy mô nhỏ, công cụ lao động đơn giản và chủ yếu dựa vào sự khéo léo
của bàn tay người thợ thủ công. Nguyên liệu của các nghề thủ công thường lấy trực
tiếp từ thiên nhiên; công cụ sản xuất thường là công cụ cầm tay đơn giản. Khi khoa
học- kỹ thuật phát triển, khái niệm “thủ công nghiệp” có những nội dung khác so
với trước đây. Người thợ thủ công hiện đại có thể sử dụng máy móc để phát lực,
truyền lực và kết hợp với đôi bàn tay khéo léo để tạo ra những sản phẩm độc đáo,
có giá trị thẩm mỹ cao.

5


V.I Lê- nin khi phê phán sai lầm của những nhà kinh tế học dân tuý đưa ra khái
niệm về tiểu công nghiệp. Để phân biệt “thủ công nghiệp" với "tiểu công nghiệp" Lênin đã viện dẫn ba giai đoạn phát triển của Chủ nghĩa tư bản công nghiệp Nga: “đặc
điểm của tiểu sản xuất hàng hoá là kỹ thuật thủ công hoàn toàn nguyên thuỷ, từ xưa
đến nay kỹ thuật ấy vẫn không thay đổi. Người làm nghề thủ công vẫn là nông dân, họ
chế biến nguyên liệu theo phương pháp truyền thống. Công trường thủ công (CTTC)
dựa trên phân công lao động, do đó kỹ thuật được cải biến căn bản, nông dân biến

Ế

thành công nhân bộ phận [17, tr.685-687]. Đặc trưng của tiểu sản xuất hàng hoá và

U

CTTC là các xí nghiệp nhỏ chiếm ưu thế. Tính chất của sản xuất cũng khác nhau trong


́H

các giai đoạn phát triển. Trong các nghề thủ công nhỏ, thị trường và quy mô sản xuất
nhỏ hẹp dễ thích hợp với nhu cầu địa phương; sản xuất ở giai đoạn này ổn định cao



nhất, nhưng tình trạng kỹ thuật bị đình đốn. CTTC sản xuất cho thị trường lớn nên
sản xuất của nó có tính ổn định, tính chất này thể hiện cao nhất trong sản xuất công

H

xưởng tư bản chủ nghĩa (TBCN). Như vậy, có thể thấy giai đoạn phát triển CTTC

IN

gần với khái niệm "tiểu công nghiệp", sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở trình độ

K

phân công lao động, tiến bộ kỹ thuật, thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguyên vật liệu,
quy mô tổ chức sản xuất phân tán hay tập trung. “Tiểu công nghiệp” là hình thức

O

̣C

công nghiệp sử dụng công cụ lao động nửa cơ khí để chế biến nguyên liệu. Cuộc


̣I H

cách mạng khoa học- kỹ thuật lần thứ nhất khởi đầu ở nước Anh thế kỷ 18, máy
móc thay thế công cụ thủ công, sự phát minh và ứng dụng máy hơi nước có tác

Đ
A

dụng then chốt trong sản xuất lớn TBCN.
- Quan niệm tiểu thủ công nghiệp của các nhà kinh tế học
Các nhà kinh tế học quan niệm tiểu thủ công nghiệp bao gồm tiểu công

nghiệp và thủ công nghiệp.
Về “tiểu công nghiệp”, mỗi quốc gia đều đề ra các quy định về "tiểu công
nghiệp" có tính chất hành chính, pháp lý, để phân biệt với “đại hay trung công
nghiệp”. Khái niệm này làm cơ sở cho việc thi hành các chính sách riêng khu vực
"tiểu công nghiệp". Mỗi quốc gia có quan niệm khác nhau về tiểu công nghiệp:

6


+ Ở Mỹ quy định: dưới 250 công nhân được xem là “tiểu công nghiệp”, và
"tiểu công nghiệp" còn được phân biệt theo bộ hoặc cơ quan quản lý nhà nước.
Trong ngành công nghiệp chế tạo vẫn lấy số lượng công nhân làm cơ sở, nhưng
ngành dịch vụ chủ yếu lấy số bán ra hay số thu hàng năm làm tiêu chuẩn.
+ Ở Nhật Bản, luật ban hành năm 1957 quy định: các xí nghiệp sử dụng dưới
300 công nhân, mức vốn dưới 10 triệu yên, được thừa nhận hợp pháp là "tiểu công
nghiệp", được hưởng những chính sách tài trợ của nhà nước.

Ế


+ Ở Ấn Độ, trước năm 1960 mức quy định “tiểu công nghiệp” là dưới 100

U

công nhân nếu không dùng năng lượng, hay dưới 50 công nhân nếu có sử dụng

́H

năng lượng; đến năm 1960 quy định chủ yếu căn cứ vào mức vốn “không quá



500.000 ru pi hay 1 triệu ru pi trong một số trường hợp đặc biệt”[15, tr.9-10].
Do có sự xác định khác nhau, nên năm 1952 Uỷ ban kinh tế của Liên hiệp

H

quốc đưa ra định nghĩa để chuẩn hoá các thuật ngữ trên. Theo đó, tiểu công nghiệp

IN

là loại xí nghiệp chủ yếu sử dụng nhân công được trả lương, số lượng không quá 50
người ở mọi cơ sở sản xuất, không dùng động lực hay dùng không quá 20 người

K

trong một xí nghiệp có dùng động lực.

̣C


Vì vậy, để có một khái niệm "tiểu công nghiệp" dùng chung cho các nước là

O

rất khó. Người ta dùng một loại “khái niệm phân tích” nêu bật các đặc điểm cơ bản

̣I H

về số lượng, chức năng, tính chất, cơ cấu…của doanh nghiệp, với 4 đặc trưng sau:

Đ
A

+ Sự chuyên môn hoá ở mức độ thấp về quản lý và lãnh đạo xí nghiệp;
+ Vai trò cá nhân chủ xí nghiệp về những mối liên hệ tiếp xúc chặt chẽ với

khách hàng, tính mềm dẻo trong sản xuất hoặc giao dịch, quan hệ chủ với thợ; tính
linh hoạt trong các chính sách đối với tiểu công nghiệp;
+ Những điểm mạnh, yếu về phương diện vốn và tín dụng như: khó vay vốn
ở ngân hàng hơn các xí nghiệp lớn, nhưng dễ huy động vốn từ bà con hay bạn bè để
thành lập, phát triển sản xuất;
+ Tính chất đa dạng của nền sản xuất TTCN, cần áp dụng mềm dẻo các biện
pháp, chính sách, một sự chỉ đạo, một chương trình phát triển chuyên biệt.
7


Về “thủ công nghiệp”, người ta vẫn coi thủ công nghiệp là một thành phần,
một dạng thức, một loại “tiểu công nghiệp”, là lĩnh vực sản xuất bao gồm tất cả các
nghề thủ công.

1.1.1.2. Quan niệm tiểu thủ công nghiệp ở Việt Nam
Trong Chính cương của Đảng lao động Việt Nam (1951) lần đầu tiên nói
đến thuật ngữ công nghiệp. Mặc dù các văn bản chính thức của Nhà nước chỉ
dùng chung một thuật ngữ “thủ công nghiệp” nhưng đều hiểu rằng nó bao hàm

Ế

cả công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Nhiều ngành nghề trước đây chủ yếu

U

làm bằng tay, sử dụng các công cụ thô sơ. Ngày nay với sự phát triển của khoa

́H

học kỹ thuật con người đã biết sử dụng máy móc thiết bị vào nhiều khâu, công



đoạn trong sản xuất thủ công nghiệp.

Thủ công nghiệp hay nghề thủ công được hiểu là một hình thức công nghiệp

H

sử dụng công cụ cầm tay, tác động vào đối tượng lao động để chế biến nguyên liệu

IN

ra sản phẩm thông qua công cụ lao động. Đặc trưng của thủ công nghiệp là công cụ


K

cầm tay hay cải tiến.

Tiểu công nghiệp có thể hiểu, bao gồm những đơn vị sản xuất công nghiệp

̣C

có trang bị kỹ thuật tương đối cao hơn thủ công nghiệp. Ở một số khâu, bộ phận chủ

O

yếu trong dây chuyền sản xuất có thể được trang bị máy móc hiện đại, được chuyên

̣I H

môn hoá để sản xuất ra các chi tiết, bộ phận, sản phẩm hoàn chỉnh. Sự khác nhau
căn bản giữa tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp là ở trình độ kỹ thuật của tư liệu

Đ
A

sản xuất. Giữa chúng có điểm giống nhau dựa trên quy mô sản xuất nhỏ, đã tồn tại
một nền đại công nghiệp (ĐCN), và chúng là bộ phận công nghiệp phụ trợ.
Để phân biệt với ĐCN, trong điều kiện khoa học- công nghệ phát triển như
hiện nay, khái niệm tiểu công nghiệp không chỉ dựa vào hai chỉ tiêu về vốn và lao
động mà còn cần phải bổ sung thêm hai chỉ tiêu: độ phức tạp của quản lý, hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
-Về độ phức tạp của quản lý có năm yếu tố: quy mô vốn sản xuất kinh

doanh, doanh thu và thu nhập khác, đầu mối quản lý, trình độ công nghệ sản xuất,

8


lao động sử dụng.
-Về hiệu quả sản xuất kinh doanh có ba yếu tố: số nộp ngân sách nhà nước,
lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận trên vốn.
Tóm lại, định nghĩa tiểu công nghiệp được đề cập ở trên và theo Nghị định số
90/2001/NĐ-CP, đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở sản xuất kinh doanh
độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người, và là doanh

Ế

nghiệp được xếp hạng III tuỳ theo ngành nghề.

U

Nghề thủ công truyền thống: Đó là những nghề thủ công nghiệp được truyền

́H

từ đời này sang đời khác, tồn tại đến ngày nay, trong đó có những nghề đã được cải



tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện đại để sản xuất, nhưng vẫn tuân thủ
công nghệ truyền thống, kết hợp với bàn tay tài hoa của người thợ tạo ra sản phẩm


H

thủ công mỹ nghệ có giá trị, tính văn hoá cao.

IN

Đặc trưng cơ bản của nghề "thủ công" truyền thống là sử dụng công cụ, kỹ

K

thuật và công nghệ sản xuất truyền thống độc đáo, với đội ngũ nghệ công nhân và
thợ lành nghề.

̣C

Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành

O

từ lâu đời, có nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển với một tỷ lệ số hộ và tỷ lệ thu

̣I H

nhập từ nghề TTCN nhất định, trở thành nguồn thu nhập quan trọng không thể thiếu

Đ
A

được của người dân trong làng. Nhiều nước trên thế giới lấy tỷ lệ 20% hay 30%, ở
Việt Nam đang có xu hướng lấy tỷ lệ 30% hay 50% số hộ dân làm nghề và thu nhập

của làng từ nghề thủ công. Tỷ lệ đó được duy trì và ổn định trong nhiều năm.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau: nghề đã
xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; nghề
tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc; và gắn với tên tuổi của một
hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Từ những điều trên, có thể hiểu khái niệm “thủ công nghiệp”, “tiểu công
nghiệp”, và “thủ công nghiệp truyền thống” như sau:

9


- Thủ công nghiệp là hình thức sản xuất công nghiệp ở trình độ thấp, sử dụng
chủ yếu các công cụ cầm tay. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, các nghề thủ công
có thể sử dụng máy móc, hóa chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong
một số công đoạn, phần việc nhất định nhưng phần quyết định chất lượng và hình
thức đặc trưng của sản phẩm vẫn làm bằng tay. Thủ công nghiệp có nhiều ngành,
nghề, từ sản xuất đến dịch vụ; gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất với tiêu dùng tại địa
phương; có quy mô nhỏ, linh hoạt và tiết kiệm chi phí quản lý; có khả năng huy

Ế

động vốn tự có và lao động của gia đình.

U

- Tiểu công nghiệp gồm những cơ sở sản xuất nhỏ, có trình độ trang bị kỹ

́H

thuật cơ khí, nửa cơ khí, hoặc kỹ thuật tinh xảo; đa dạng hình thức sở hữu, với đa số




quy mô nhỏ và trình độ khác nhau; xu hướng tồn tại và phát triển lâu dài trong nền
kinh tế hiện đại; với các đặc điểm: vốn ít, máy móc thiết bị và mặt bằng sản xuất

IN

chẽ sản xuất thủ công và cơ giới.

H

nhỏ; cơ cấu sản xuất đa dạng, linh hoạt cao; tổ chức quản lý gọn nhẹ, kết hợp chặt

-Thủ công nghiệp truyền thống là hình thức sản xuất công nghiệp ở trình độ

K

thấp, là những ngành nghề phi nông nghiệp phát triển tới mức trở thành nguồn sống

̣C

chính hoặc nguồn thu nhập quan trọng của người dân làm nghề là ngành nghề

O

TTCN có từ thời thuộc Pháp còn tồn tại đến nay, kể cả những nghề được cải tiến

̣I H


hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ những
công nghệ truyền thống.

Đ
A

- Tiểu thủ công nghiệp là ngành công nghiệp mà sản phẩm làm ra chủ yếu

bằng thủ công với quy mô nhỏ.
Tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn thường gắn liền với thời gian nông nhàn,

nhưng nó lại có thu nhập cao hơn sản xuất nông nghiệp vì vậy mà nhiều hộ đã rời
hẳn nông nghiệp sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Cho nên tiểu thủ công nghiệp
phát triển mạnh ở nông thôn thường gắn liền với các làng nghề truyền thống, mà
các làng nghề này phải là nơi có trên 50% hộ dân làm nghề đó với tổng thu nhập từ
nghề đó phải chiếm trên 50% tổng thu nhập cả làng.

10


1.1.2. Vai trò của tiểu thủ công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội
1.1.2.1. Tiểu thủ công nghiệp là cơ sở sản xuất quan trọng hàng đầu trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Khi "thủ công nghiệp" tách khỏi sản xuất nông nghiệp, hình thành nên các xí
nghiệp "công nghiệp", thì "thủ công nghiệp" được coi là hình thức tiền thân, là giai
đoạn trung gian giữa thủ công và công nghiệp hiện đại, thúc đẩy phân công lao

Ế


động xã hội ở nông thôn theo hướng CNH, HĐH.

U

CNH, HĐH không xoá bỏ thủ công nghiệp, mà ngược lại nó còn được cải

́H

tạo, theo hướng kết hợp hai yếu tố hiện đại với truyền thống. Mặt khác, trong giai
đoạn đầu của CNH, khi ĐCN chưa chiếm ưu thế, TTCN phát huy ưu thế, hỗ trợ, bổ



khuyết cho ĐCN. Đồng thời, khi TTCN phát triển, người ta sẽ áp dụng mạnh mẽ
các tiến bộ khoa học, công nghệ thế giới vào việc cải tạo nghề TCN truyền thống,

H

cải tiến chất lượng, mẫu mã của sản phẩm thủ công nhằm đáp ứng tốt như cầu thị

IN

trường. Xây dựng một nền thủ công hiện đại năng động, có khả năng cung ứng sản

K

phẩm thủ công mỹ nghệ cho những nhu cầu thị hiếu mới, kể cả xuất khẩu. Việc xuất
khẩu những sản phẩm thủ công mỹ nghệ sẽ phát huy lợi thế so sánh của nước ta với

O


̣C

những nước nhập khẩu góp phần phát huy khả năng tiềm tàng của Việt Nam.

̣I H

Tóm lại, TTCN tạo ra những tiền đề quan trọng về vốn, lao động, thị
trường…những yếu tố quan trọng cho CNH, HĐH nền kinh tế. Vì thế có thể nói

Đ
A

TTCN là điểm xuất phát của CNH, HĐH ở nông nghiệp, nông thôn nói riêng, và
nền kinh tế nói chung.
1.1.2.2. Tiểu thủ công nghiệp phát triển góp phần phát triển kinh tế địa

phương và xây dựng nông thôn mới
TTCN không chỉ là cơ sở cho ĐCN như đã phân tích trên mà nó còn là tiền
đề, là cơ sở cho sự phát triển của kinh tế ở nông thôn.
Một là, TTCN phát triển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Sự phát triển của các nghề TTCN truyền
thống, mở ra nghề mới làm cho tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng

11


dần trong GDP, tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư, góp phần xoá đói giảm
nghèo ở nông thôn.
TTCN cung cấp sản phẩm cho khu vực nông thôn, nông nghiệp, đồng thời

tạo vốn, phát triển ngành nghề. TTCN cung ứng nhiều sản phẩm cho thị trường và
thu được lợi nhuận cao. TTCN phát triển làm cho thu nhập từ các ngành phi nông
nghiệp trong dân cư tăng nhanh. Từ đó kích thích nông dân đầu tư vốn vào mở
xưởng để làm TTCN. Khi khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng nhanh,

Ế

thị trường mở rộng thì kinh tế dịch vụ phát triển thúc đẩy cơ cấu kinh tế ở nông

U

thôn chuyển dịch theo hướng tích cực [18].

́H

Hai là, hoạt động sản xuất kinh doanh của các nghề TTCN góp phần làm
tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế. Năng lực sản xuất, kinh doanh



của các làng nghề là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở nông
thôn. Phát triển nghề TTCN có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, xã

H

hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé, được phân bổ rộng khắp ở các vùng nông thôn,

IN

hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá khá


K

lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho nền
kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng. Thực tế cho thấy ở

O

̣C

địa phương nào có nhiều làng nghề thì ở đó kinh tế hàng hoá phát triển.

̣I H

Ba là, các nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển góp phần phát huy tiềm năng,
thế mạnh nội lực của nông thôn. Các nghề thủ công trong làng nghề cho phép khai

Đ
A

thác triệt để hơn các nguồn lực ở địa phương, cụ thể là nguồn lao động, nguyên vật
liệu, tiền vốn. Làng nghề truyền thống có thể làm được điều này vì nó có nhiều loại
quy mô, dễ dàng chuyển hướng kinh doanh v.v…Một khi các nghề TTCN ở nông
thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ
nhân mới. Chính thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá
thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như vậy các nghề TTCN càng
phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông
thôn. Hơn nữa khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo


12


điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng
cao tính tổ chức kỷ luật. Đồng thời trình độ văn hoá của người lao động ngày một
nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề.
1.1.2.3. Tiểu thủ công nghiệp phát triển sẽ góp phần tạo dựng thị trường
nông thôn sâu rộng cho phát triển công nghiệp
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất TTCN có những lợi thế nhất định so

Ế

với công nghiệp lớn. Người chủ doanh nghiệp TTCN có thể phản ứng linh hoạt với

U

thị trường, dễ chuyển hướng sản xuất, thay đổi mẫu mã sản phẩm, kỹ thuật, cách

́H

làm ăn hơn xí nghiệp lớn. Giá trị tổng sản lượng sản xuất TTCN hàng năm ở nước
ta tăng nhanh, chiếm tới 40% GDP. Quy mô thị trưòng được mở rộng trong quá



trình CNH, HĐH, hiện đại hoá TTCN. Đồng thời với hàng loạt chính sách hỗ trợ
mang tính dài hạn đối với phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn

H


thời gian qua, hoạt động khuyến công tại nhiều địa phương trên cả nước đã thu

IN

được nhiều kết quả tích cực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

K

nghiệp hóa, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân nông thôn.
Theo Cục Công nghiệp địa phương, Bộ Công Thương, từ khi triển khai thực

̣C

hiện Nghị định 134/2004/NĐ-CP của Chính phủ về Khuyến khích phát triển công

O

nghiệp nông thôn và thực hiện Quyết định số 136/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng

̣I H

Chính phủ phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012, các hoạt
động khuyến công, nhất là đào tạo nghề, truyền nghề và nâng cao tay nghề gắn với

Đ
A

nhu cầu doanh nghiệp; xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, hỗ trợ chuyển giao
công nghệ, phát triển sản phẩm tiêu biểu… đã có kết quả tích cực đối với nhiều cơ

sở sản xuất công nghiệp nông thôn trên phạm vi cả nước. Nếu giai đoạn 2001 –
2004, giá trị sản xuất khu vực công nghiệp nông thôn có mức tăng trưởng bình quân
là 15,75%, đến giai đoạn 2005 – 2010 đã đạt mức 17,6%. Số lao động làm việc
trong các cơ sở công nghiệp nông thôn tăng 8,9%/năm, chiếm gần 55% tổng số lao
động toàn ngành công nghiệp.
Như vậy, TTCN đã có sự tác động lớn tới thị trường nông thôn, biểu hiện ở
một số điểm sau:
13


Một là, thị trường nguyên liệu cho sản xuất TTCN hiện nay còn nhỏ bé, phân
tán, chất lượng thấp, dần cạn kiệt, ví dụ như nguyên liệu cho ngành chế biến đồ gỗ
mỹ nghệ đang phụ thuộc vào nguồn gỗ nhập khẩu từ Lào, Căm-pu-chia, ASEAN…
Muốn phát triển TTCN, phải đáp ứng mọi nhu cầu về nguyên liệu với số
lượng, chất lượng và giá cả hợp lý. Phải chủ động nguồn nguyên liệu trong nước.
Đối với ngành nông, lâm, thuỷ sản, cần có kế hoạch đầu tư nuôi trồng theo công
nghệ hiện đại, để tăng năng suất, cung ứng nguyên liệu tại chỗ có chất lượng cao

Ế

cho công nghiệp chế biến. Cần có kế hoạch nhập khẩu nguyên liệu đó, để ổn

U

định sản xuất. Do đó, thị trường nguyên liệu phục vụ cho TTCN sẽ được cải

́H

thiện đáng kể.


Hai là, Thị trường máy móc, công cụ sản xuất và công nghệ có quyết định



tới hiện đại hoá sản xuất TTCN. Quá trình chuyên môn hoá TTCN, xuất hiện những
nghề chuyên sản xuất công cụ cải tiến, nửa cơ khí và cơ khí nhỏ. Theo đà CNH,

H

HĐH, các nghề TTCN sẽ từng bước được hiện đại hoá. Nhu cầu trang bị máy móc

IN

hiện đại trong sản xuất tăng lên thì thị trường này sẽ phát triển mạnh.

K

Ba là, Nhu cầu vốn cho mở rộng sản xuất, phát triển nghề TTCN mới ở các
làng nghề khá lớn. Nhưng nguồn vốn tự có của cơ sở sản xuất rất nhỏ bé, vốn chiếm

O

̣C

dụng trong thanh toán lớn và nguồn vốn tín dụng lại khó tiếp cận do cơ chế chưa

̣I H

phù hợp, đang là trở ngại cho phát triển nghề TTCN. Hình thức tín dụng truyền
thống với lãi xuất cao, linh hoạt đang là hình thức phổ biến trong các làng nghề. Do


Đ
A

đó nhu cầu mở rộng thị trường vốn cho TTCN là nhu cầu cấp bách hiện nay.
Bốn là, Nghề TTCN phát triển, từ chỗ là nghề phụ lúc nông nhàn, thành một

nghề thường xuyên có thu nhập ổn định chiếm ưu thế ở nông thôn. Các xưởng thủ
công nghiệp không chỉ thu hút lao động tại chỗ, mà còn thu hút lực lượng lao động
của những vùng xung quanh, tạo nên mặt cầu về lao động công nghiệp ở địa
phương. Do đó, mở rộng thị trường lao động ở nông thôn.
Năm là, TTCN tạo ra lượng cung hàng hoá lớn cho thị trường nông thôn.
Đồng thời nó cũng tạo nên một lượng cầu hàng hoá ở các làng nghề, các khu công
nghiệp và đô thị nhỏ ở nông thôn. Thị trường này vẫn là thị trường tại chỗ, nên còn

14


nhỏ, hẹp, phụ thuộc vào quy mô thu nhập của dân cư. Khi kinh tế nông thôn phát
triển, thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng lên, doanh nghiệp mở rộng sản xuất,
cầu về sản phẩm TTCN sẽ tăng mạnh, kể cả những sản phẩm thủ công mỹ nghệ có
trình độ tay nghề cao.
Sự phát triển của TTCN mở rộng thị trường cho các ngành công nghiệp.
ĐCN cung ứng máy móc công cụ, nguyên liệu và công nghệ hiện đại để duy trì
nghề truyền thống, mở ra nghề mới. Việc đưa máy móc vào sản xuất hàng thủ công

Ế

mỹ nghệ, làm tăng năng suất lao động, hạ giá thành, cung nhiều sản phẩm cho thị


U

trường. Sự kết hợp giữa máy móc hiện đại với tay nghề khéo léo của người thợ thủ

́H

công, tạo ra sản phẩm có độ tinh xảo cao. "Tiểu công nghiệp" gắn bó chặt chẽ giữa
TCN và ĐCN. Phải quan tâm đến thị trường đầu ra, nhất là trong trao đổi quốc tế để



phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam. Như vậy, TTCN phát triển sẽ phát triển thị
trường hàng hoá: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.

H

1.1.2.4. Tiểu thủ công nghiệp phát triển góp phần tạo việc làm, nâng cao

IN

thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn.

K

Với diện tích đất canh tác bình quân vào loại thấp và tỷ lệ thất nghiệp, thiếu
việc làm ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao (hiện khoảng 30 - 35% lao động

O

̣C


nông thôn), do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn trở

̣I H

nên hết sức khó khăn. Việc mở mang, đầu tư phát triển ngành nghề ở các làng nghề
là biện pháp tốt nhất để huy động nguồn lao động này. Bởi vì, sản xuất TTCN chủ

Đ
A

yếu thực hiện bằng tay, không đòi hỏi cao về trình độ cũng như về chuyên môn, kỹ
thuật như đối với các lĩnh vực sản xuất khác. Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công tuy
có quy mô nhỏ, thậm chí chỉ là sản xuất của các hộ gia đình nhưng đã thu hút một
số lượng khá lớn lao động nông thôn. Nhiều làng nghề ở nước ta hiện thu hút trên
60% lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề. Sự phát triển của làng nghề
không những chỉ thu hút lao động ở gia đình làng xã mình mà còn thu hút được
nhiều lao động từ các địa phương khác. Ngoài ra, sự phát triển của các làng nghề
còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho
người lao động.

15


Muốn giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân cần phát triển toàn
diện TTCN ở nông thôn. Thủ công nghiệp (TCN) có thể sử dụng lao động nông
nhàn ở nông thôn, lao động trẻ em, người già, làm tăng thu nhập nông dân. Có thể
minh hoạ bằng nghề dệt lụa ở Vạn Phúc, thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây, một nghề có
cách đây 1200 năm. Lụa Vạn Phúc tham gia hội chợ quốc tế Mác-xây và Pa-ri
(Pháp) năm 1931, 1938, được thị trường Pháp, Thái Lan, Inđônêxia ưa chuộng. Vạn

Phúc hiện có 785 hộ làm nghề dệt, với gần 60% dân số. Vạn Phúc có trên 1.000

Ế

máy dệt, hơn 100 của hàng và hàng ngày thu hút 400 lao động. Hàng năm, nghề dệt

U

lụa sản xuất từ 2,5 đến 3 triệu m2 vải, doanh thu gần 27 tỷ đồng, chiếm trên 60% giá

́H

trị sản xuất toàn xã [4].

Mặt khác, cần chú ý đến ý nghĩa xã hội của những việc làm được tạo ra ở các



làng nghề. Sự phát triển của các làng nghề đã có vài trò tích cực trong việc hạn chế
di dân tự do. Người dân nông thôn luôn có tâm lý gắn bó với làng quê khi đã có

H

việc làm và thu nhập ổn định. Việc phát triển làng nghề theo phương châm “ly

IN

nông, bất ly hương” không chỉ có khả năng lớn giải quyết việc làm, nâng cao thu

K


nhập cho người lao động, mà còn có vai trò tích cực trong việc hạn chế dòng di dân
tự do từ nông thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác ở nước ta hiện nay.

O

̣C

Hoạt động sản xuất TTCN của làng nghề không chỉ tạo ra một số lượng lớn lao

̣I H

động mà còn giải quyết việc làm cho những lao động nông nghiệp nhàn rỗi sau mỗi
vụ mùa sản xuất. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất thủ công trong làng nghề còn thu

Đ
A

hút được một lực lượng đông đảo người già, trẻ em, người tàn tật tham gia sản xuất
ở những công đoạn đơn giản. Theo ước tính của Hiệp hội làng nghề Việt Nam,
những nhóm đối tượng này chiếm đến 30 - 35% lao động đang làm việc trong các
làng nghề.
Bên cạnh đó, tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng thu nhập của người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần giảm
bớt những tệ nạn xã hội ở nông thôn, bởi “nhàn cư vi bất thiện”. Đây cũng là một
trong những chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề quốc kế dân sinh. Vì
vậy, sự phục hồi và phát triển của các làng nghề đã có ý nghĩa rất to lớn đối với sự

16



phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Thu nhập của các hộ làm nghề thủ công ở các
làng nghề cao hơn từ 2 - 8 lần thu nhập của hộ thuần nông. Ở các làng có nghề, tỷ lệ
hộ khá và giàu thường rất cao, tỷ lệ hộ nghèo thường rất thấp và hầu như không có
hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại
cho người dân ở các làng nghề một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất
lẫn tinh thần.
1.1.2.5. Tiểu thủ công nghiệp phát triển góp phần tạo nguồn vốn và đào

Ế

tạo nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp

U

Phần trên đã nói, TTCN tạo ra những điều kiện ban đầu về nhân lực, vốn, thị

́H

trường cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Đi sâu hơn TTCN không
chỉ tạo ra những yếu ban đầu. Chúng ta biết rằng, tính chất đặc trưng của sản xuất



"tiểu, thủ công nghiệp" là quy mô nhỏ, công cụ lao động thủ công. Với mức đầu tư
không lớn, nên TTCN dễ dàng huy động các khoản vốn nhỏ nhàn rỗi trong dân, của

H

hộ gia đình, trong họ hàng, và đi vay từ các tổ chức tín dụng. Ở nước ta dân cư sống


IN

ở nông thôn rất đông trên 70% dân số, với gần 10/12 triệu hộ làm nông nghiệp.

K

TTCN với ưu thế của các xí nghiệp vừa và nhỏ rất hấp dẫn các nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Trong điều kiện nền kinh tế mở, các cơ sở sản xuất TCN tiềm năng có

O

̣C

thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất.

̣I H

Trong các nghề TTCN có sự truyền nghề với những quy định rất khắt khe.
Ông tổ nghề là người có công đầu đưa kỹ thuật mới, công nghệ tiên tiến hơn từ nơi

Đ
A

khác về địa phương, làm chấn hưng, phát triển nghề. Chế độ học việc cổ truyền ở
các làng nghề, đã đào tạo ra nhiều thợ thủ công lành nghề, chuẩn bị đội ngũ công
nhân dự bị cho nền ĐCN. Việc thờ tổ nghề, là truyền thống tôn sư trọng đạo để giữ
gìn, phát triển các nghề truyền thống ở nông thôn. Hiện nay, cách đào tạo nghề theo
kiểu cha truyền con nối, là nguyên nhân dẫn đến nhiều nghề bị thất truyền, trong đó
có các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống.

Qua hoạt động công xưởng, người thợ thủ công được rèn thói quen, kỷ luật
và phương pháp làm việc công xưởng. Theo đó từng bước hình thành thị trường lao
động có tổ chức, cung ứng đủ về số lượng và chất lượng nhân lực cho công nghiệp.

17


Đồng thời xây dựng và rèn luyện một đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất, chủ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự lớn mạnh của TTCN đồng nghĩa với việc tầng lớp
doanh nhân phát triển đủ sức đảm đương việc quản lý và điều hành những xí nghiệp
công nghiệp ở khu vực nông thôn. Các nghề thủ công ở nước ta chủ yếu phát triển
sau đổi mới, chỉ có 4% lao động có thâm niên trên 30 nǎm, nên yêu cầu đào tạo
nghề và kiến thức quản lý về TTCN cho các làng nghề là cấp thiết.
1.1.2.6. Phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sẽ góp phần bảo

Ế

tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc

U

Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử phát triển nền văn hoá Việt Nam

́H

luôn gắn liền với lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống. Văn hoá làng
nghề với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng giềng,




hôn nhân, nghề nghiệp với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang đậm
những sắc thái riêng, tạo nên bản sắc truyền thống văn hoá phong phú sâu đậm của

H

dân tộc ta. Vì vậy, để các làng nghề truyền thống mai một cũng tức là đánh mất đi

IN

một vốn quý của dân tộc. Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, xã hội và văn

K

hoá thu nhỏ. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật từ đời này sang đời
khác, hun đúc các thế hệ nghệ nhân tài ba. Những sản phẩm độc đáo mang bản sắc

O

̣C

riêng bởi đặc trưng của nghề thủ công là sự tích hợp các kiến thức về tự nhiên, xã

̣I H

hội, môi trường, văn hóa, khoa học kỹ thuật, tinh hoa văn hóa dân tộc và truyền
thống đẹp trong đời sống xã hội qua nhiều thời đại. Vì vậy, các làng nghề truyền

Đ
A


thống với những bàn tay vàng của người thợ thủ công cần được coi trọng, bảo tồn
và phát triển. Bảo tồn và phát triển các làng nghề là tăng thêm sức mạnh cội nguồn,
gieo vào lòng mỗi người Việt Nam tình cảm dân tộc, yêu quý, trân trọng, giữ gìn di
sản và bản sắc văn hoá Việt Nam. Điều đó không gì khác là giữ gìn và phát huy một
bộ phận của nền văn minh nhân loại, làm tăng những giá trị văn hoá truyền thống
trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động.
Với vai trò to lớn của làng nghề trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, để khôi phục và phát triển làng nghề đòi hỏi các cấp
chính quyền phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của làng nghề; kịp thời có

18


những biện pháp hỗ trợ các làng nghề phát triển phù hợp với đặc điểm từng địa
phương cũng như yêu cầu của thị trường.
1.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp
1.1.3.1. Nhu cầu thị trường
Chỉ có trên cơ sở trao đổi được sản phẩm TTCN, thì tái sản xuất mở rộng
mới có thể thực hiện được, và thực hiện tái sản xuất mở rộng trong sản xuất TTCN

Ế

là yêu cầu khách quan. Sản xuất TTCN ngày nay chịu sự chi phối của quy luật cung

U

cầu, của quy luật giá trị. Những làng nghề TTCN thích ứng với cơ chế thị trường thì

́H


sẽ phát triển nhanh và ngược lại. Động lực thúc đẩy TTCN phát triển chính là yếu tố



thị trường cho sản xuất.

Sự tồn tại và phát triển của các nghề TTCN phụ thuộc rất lớn vào khả năng

H

đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi của thị

IN

trường. Những nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị trường
thường có sự phát triển nhanh chóng. Sự thay đổi nhu cầu của thị trường tạo định

K

hướng cho sự phát triển của các nghề TTCN. Những nghề mà sản phẩm của nó phù

̣C

hợp với nhu cầu của xã hội, có khả năng tiêu thụ lớn thì vẫn phát triển bình thường.

O

Ngay cả trong mỗi một nghề, cũng có những làng nghề phát triển, trong khi một số


̣I H

làng nghề khác lại không phát triển được, do sản phẩm làm ra chỉ là những sản
phẩm truyền thống, ít chú ý đến sự thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng và giá

Đ
A

cả nhằm đáp ứng được sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường.
1.1.3.2. Cơ chế chính sách phát triển các ngành nghề TTCN
Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hay

suy vong của các nghề TTCN. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi các
hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong nông thôn, các
doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển chính thức, thì các nghề TTCN đã có
điều kiện phục hồi và phát triển mạnh. Chính sách mở cửa hội nhập nền kinh tế
nước ta với khu vực và thế giới cũng làm cho một số sản phẩm có điều kiện phát

19


triển vì mở rộng được thị trường, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có sản
phẩm thêu ren truyền thống, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng nước
ngoài tràn vào thị trường trong nước khá nhiều, làm cho sản phẩm của các làng
nghề khó có thể cạnh tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, làm hạn chế sự phát triển
của một số làng nghề.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nếu không có chính sách phát triển
hợp lý đối với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp thì các làng

Ế


nghề cũng khó có điều kiện phát triển.

U

Việc phát huy được các lợi thế của TTCN, phụ thuộc rất lớn vào thái độ của

́H

Đảng và Nhà nước thông qua ban hành, thực thi các chủ trương, chính sách và pháp



luật. Quá trình đề ra và thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật phát triển
TTCN ở nước ta là quá trình nhận thức các quy luật kinh tế khách quan về phát

H

triển TTCN.

IN

Từ năm 1988 đến nay, quan điểm của Đảng về phát triển TTCN rõ hơn và
trực tiếp nêu phương hướng phát triển TTCN, làng nghề, làng nghề truyền thống và

K

các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Trong đó phát triển đa

̣C


dạng công nghiệp chế biến và TTCN ở nông thôn, thị trấn, liên kết với công nghiệp

O

lớn ở đô thị lớn, khu công nghiệp tập trung, phát triển các làng nghề, nhất là làng

̣I H

nghề xuất khẩu, mở rộng xuất khẩu dịch vụ… Nhà nước công nhận về pháp lý sự
tồn tại, phát triển, vai trò tác dụng tích cực lâu dài của các thành phần kinh tế cá thể,

Đ
A

kinh tế tư doanh trong nền kinh tế quốc dân. Từ năm 1992 đến nay, các cơ sở sản
xuất TTCN trong các làng nghề truyền thống được khôi phục, đổi mới hoạt động,
phát triển. Các hợp tác xã được thành lập theo luật hợp tác xã mới, có bước phát
triển mới về chất [14, tr.29].
Có thể thấy rằng từ khi đổi mới, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần được cụ thể hoá bằng chính sách và pháp luật; nên TTCN phát huy vai
trò của mình trong CNH, HĐH kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là từ sau
Đại hội IX.

20


1.1.3.3. Vốn đầu tư
Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất kinh
doanh nào. Sự phát triển của các nghề TTCN cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng

của nhân tố này. Cùng với lao động, nguồn vốn đầu tư là hai nguồn lực tất yếu của
mỗi quá trình sản xuất. Karl Marx đã chỉ rõ: nền sản xuất hàng hoá TBCN giả định
phải có những khối lượng lớn tư bản và sức lao động trong tay những người sản
xuất hàng hoá [11, tr.255]. Vốn đầu tư được chủ doanh nghiệp sử dụng để thuê mặt

Ế

bằng, đầu tư xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, đầu tư cho công nghệ, đầu

U

tư cho kết cấu hạ tầng, thuê mướn nhân công…để tiến hành sản xuất kinh doanh

́H

theo ngành nghề đã đăng ký. Một thời gian dài ta coi nghề "thủ công nghiệp" như
một nghề phụ của ngành nông nghiệp, nguồn vốn tự có của các hộ rất nhỏ bé và khó



khăn, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay mượn của bà con họ hàng,
láng giềng, nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày nay, trong điều kiện

H

của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi

IN

hỏi các hộ sản xuất, kinh doanh phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư, cải tiến công


K

nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, công việc có thể
thay thế kỹ thuật lao động thủ công được, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất

O

̣C

lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do đó, Nhà nước đang có

̣I H

những chính sách phù hợp để thu hút, huy động nhiều nguồn vốn đầu tư, hoặc đầu
tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, để hỗ trợ tiểu, thủ công nghiệp nông thôn.

Đ
A

1.1.3.4. Nguyên vật liệu
Yếu tố nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất TTCN.

Khối lượng, chủng loại, phẩm cấp và khoảng cách từ cơ sở sản xuất tới nơi có
nguồn nguyên vật liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm của các
đơn vị sản xuất. Cho nên, các làng nghề thường chú ý nhiều đến yếu tố nguyên vật
liệu. Trước đây, phần lớn các làng nghề được hình thành do có nguồn nguyên vật
liệu tại chỗ và nghề nghiệp chủ yếu được gắn bó với nguồn nguyên liệu sẵn có tại
địa phương. Hiện nay, nguồn nguyên liệu tại chỗ của nhiều làng nghề truyền thống
đã cạn kiệt, phải vận chuyển từ những nơi khác về, điều kiện khai thác, vận chuyển


21


có ảnh hưởng tới việc đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các làng nghề. Trong điều
kiện khoa học và công nghệ phát triển như hiện nay, nguyên vật liệu cho các làng
nghề đã có sự phong phú, đa dạng. Một loại nguyên vật liệu có thể dùng cho nhiều
loại sản phẩm, ngược lại một loại sản phẩm có thể dùng nhiều loại nguyên vật liệu
thay thế. Vì vậy, vấn đề chọn lựa và sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế hợp
lý, theo hướng đa dạng hóa, giá rẻ, bảo đảm cho quy trình sản xuất nhanh, đảm bảo
sảm phẩm của các làng nghề có được chất lượng cao, giá thành hạ là điều cần được

Ế

quan tâm.

U

1.1.3.5. Trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất và môi trường sinh thái

́H

- Kỹ thuật cá nhân người thợ "thủ công" quyết định sự ra đời, tồn tại, phát
triển của nghề. Sản phẩm TCN chủ yếu phụ thuộc vào tài khéo léo, sáng tạo, nhạy



cảm của đôi mắt, đầu óc và bàn tay của người thợ, tức là tay nghề của người thợ thủ
công. “Nếu người công nhân có khi phụ thuộc vào máy móc, thì ở người thợ thủ


H

công, công cụ lệ thuộc vào bàn tay nghề thợ”, và do TCN có tính kỹ thuật rất

IN

chuyên nghiệp, gắn với thợ, rất khó truyền lại cho người khác”[14, tr.154].

K

Về công nghệ sản xuất, TTCN là tiền thân của công nghiệp hiện đại. Thủ
công nghiệp đã ra đời từ một nền kinh tế nông nghiệp tự nhiên. Người nông dân

O

̣C

tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp thành một người sản xuất độc lập. Thủ công là

̣I H

nền công nghiệp cổ xưa, và “sự phát triển của công nghiệp, thoạt đầu có tính chất
thủ công, rồi sau đó biến thành công trường thủ công” [10, tr.232]. TCN sẽ phát

Đ
A

triển cùng với sự đổi mới công nghệ.
Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng rất quan trọng đối với


bất kỳ ngành nghề nào, sản phẩm nào. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao
động, chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
hàng hóa trên thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại hay suy vong của
một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó.
Hiện nay, phần lớn các cơ sở sản xuất TTCN vẫn sử dụng thiết bị thủ công,
công nghệ cổ truyền chủ yếu dựa vào kinh nghiệm có tính chất cha truyền con nối
trong từng hộ gia đình là chính. Bởi vậy, sản phẩm sản xuất ra với năng suất, số

22


lượng và chất lượng sản phẩm thấp kém, không đồng bộ, giá thành cao, hạn chế khả
năng cạnh tranh của các sản phẩm làng nghề. Để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh không thể không đổi mới trang thiết bị, cải
tiến áp dụng một số tiến bộ khoa học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất.
- TTCN cũng có tác động không nhỏ đến môi trường. Hệ thống làng nghề
Việt Nam phát triển phần lớn theo tính tự phát, kiểu phong trào, công tác quy hoạch

Ế

nhiều năm qua đã bị bỏ lửng. Các nghề TTCN chủ yếu phát triển sau thời kỳ đổi

U

mới, có nhiều vấn đề khó khăn, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường. Môi trường

́H

lao động đáng lo ngại, nguy cơ tiếp xúc với bụi, nóng, tiếng ồn, hoá chất rất cao.

Các chất gây ô nhiễm môi trường xung quanh chủ yếu là nước thải độc hại, hơi khí



độc, hoá chất, bụi và tiếng ồn. Nếu để môi trường bị ô nhiễm đến một độ nào đó, sẽ
1.1.3.6. Yếu tố truyền thống

H

ảnh hưởng xấu đến sự phát triển TTCN.

IN

Đây là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của các nghề

K

TTCN, là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà chi phối
cả tiêu dùng và đời sống của cư dân nông thôn. Sự bình ổn của các nghề TTCN là

O

̣C

điều kiện tạo ra truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp nghề phát triển ổn

̣I H

định hơn, truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống có những tác động trái ngược
nhau tới sự phát triển của các nghề TTCN.


Đ
A

Trong các nghề truyền thống, bao giờ cũng có các thợ cả, nghệ nhân có trình
độ tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, có tâm huyết với nghề, là những hạt nhân
để duy trì và phát triển của nghề. Họ và cơ sở cho sự tồn tại bền vững của các nghề
TTCN trước mọi thăng trầm và đảm bảo duy trì những nét độc đáo truyền thống.
Yếu tố truyền thống có tác dụng bảo tồn những nét đặc trưng văn hóa của từng
nghề, của dân tộc, làm cho sản phẩm có tính độc đáo và có giá trị cao. Song, trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường, không thể chỉ có kinh nghiệm cổ truyền, mà
còn phải có khoa học và công nghệ hiện đại, phải có những con người có đầu óc
kinh doanh năng động, sáng tạo. Yếu tố truyền thống trong điều kiện hiện nay có

23


tác dụng hai mặt, vừa tích cực vừa tiêu cực, đối với sự phát triển của các làng nghề.
Việc khó là làm sao đưa được những tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại
vào nhưng vẫn giữ được những yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc và những sản phẩm của các làng nghề phải được tiếp nhận trong thị trường của
xã hội hiện đại.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Sơ lược về quá trình phát triển các ngành nghề tiểu thủ công

Ế

nghiệp ở Việt Nam

U


Các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của những cộng đồng cổ xưa nhất thuộc

́H

Văn hóa Sơn Vi (Phú Thọ) cách đây khoảng từ 23.000 đến 10.000 năm tiếp theo.
Văn hóa Sơn Vi là Văn hóa Hòa Bình – Bắc Sơn. Người ta đã tìm thấy những dấu



vết của loài người cách đây từ 10.000 đến 6.000 năm, sống trong môi trường khí
hậu như ngày nay, đã biết làm đồ gốm, biết trồng trọt. Sau đó, cách đây khoảng

H

6.000 đến 4.000 năm, cư dân trên đất Việt đã bước sang thời đại đồng thau, biết đúc

IN

các đồ trang sức, công cụ và vũ khí bằng đồng. Họ cũng biết trồng trọt và chăn nuôi

K

trên quy mô nhỏ. Như vậy, Cùng với sự phát triển của xã hội Việt Nam, nghề thủ
công vốn đã có truyền thống từ lâu đời. Theo nhiều nhà khảo cổ học, ở thời đồ đá

O

̣C


cũ (cách đây khoảng vài triệu năm đến 1 vạn năm), con người đã làm ra các sản

̣I H

phẩm thủ công với khoảng 12 loại nguyên liệu (đá, gỗ, tre, vỏ sò, vỏ ốc, đất, vỏ cây,
dây leo, xương, sừng, ngà, da...). Nhưng khi đó thủ công chưa phải là những nghề

Đ
A

chuyên nghiệp, nó chỉ phục vụ cho việc hái lượm, săn bắt của con người.
Từ thời đại đồ đá mới (10.000 – 6.000 năm về trước), tuy nghề nông ra đời

và thủ công nghiệp dần tách khỏi nông nghiệp và theo hướng chuyên môn hóa. Xã
hội loài người được phân hóa và dần hình thành bên cạnh nghề nông là các nghề thủ
công. Qua nhiều thời kỳ phát triển đến nay có rất nhiều nghề thủ công truyền thống
khác nhau, có thể kể tên các nghề như: nghề gốm sứ, nghề khảm trai, nghề chạm
khắc gỗ, nghề đan mây, tre, nứa, nghề dệt truyền thống, nghề đúc đồng...
Theo tài liệu khảo cổ học, cư dân Phùng Nguyên đã nâng kỹ thuật chế tác đá
lên trình độ cao với đủ các loại dụng cụ, cưa, khoan, tiện, mài. Nghề làm gốm phát

24


triển cao với các sản phẩm đa dạng. Họ đã biết trang trí nhiều đồ án hoa văn, hình
những đường cong uốn lượn phức tạp… làm cho các đồ đựng vừa tiện lợi, vừa đẹp
mắt, đã chứng tỏ óc thẩm mỹ của người Phùng Nguyên [2, tr.1217].
Thời kỳ văn minh Văn Lang, nghề luyện kim, đồng thau phát triển đến trình
độ cao, người thợ thủ công đã biết tính toán tỷ lệ các chất kim loại trong hợp kim
đồng thau để sử dụng vào nhiều mục đích. Kỹ thuật nung gốm đạt 8000c, ở lò luyện

kim đến 1200- 12500c. Trống đồng Ngọc Lũ là sản phẩm nổi tiếng về nghệ thuật

Ế

trang trí và nghệ thuật đúc đồng thời đó. Người Việt cổ đã sáng tạo ra nghề nấu sắt

U

bằng phương pháp hoàn nguyên, nghề nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa…[2, tr.1221- 1222].

́H

Đến thời kỳ nền văn minh Đại Việt, bên cạnh nền nông nghiệp phát triển,
kinh tế công, thương nghiệp cũng có bước phát triển đáng kể, các nghề thủ công cổ



truyền đều duy trì và phát triển hơn thời Bắc thuộc. Đã có những làng, phường thủ
công chuyên nghiệp, bên cạnh những nghề phụ của nông dân, ở ấp Mao Điền- Hải

H

Dương có nghề dệt vải nhỏ đẹp hơn lụa; ở phường Tầng Kiến, Kinh thành Thăng

IN

Long dệt võng, gấm trừu; ở phường Hàng Đào nhuộm vải điều, làng Huê Cầu

K


nhuộm vải thâm… Nghề làm gốm tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng tinh xảo
với một trình độ thẩm mỹ đặc sắc, được lái buôn nước ngoài ưa chuộng. Đến thế kỷ

O

̣C

thứ XVI- XVII nghề đồ gốm phát triển ra cả nước, nhiều làng gốm nổi tiếng như:

̣I H

Bát Tràng, Hương Canh, Thổ Hà, Phù Lãng…Với những sản phẩm đa dạng: ấm,
chén, gạch tráng men, bình hoa, chậu hoa… Bốn công trình lớn: chuông Quy Điều,

Đ
A

vạc Phổ Minh, tháp Báo Thiên, tượng chùa Quỳnh Lâm thể hiện sáng tạo của người
thợ thủ công Đại Việt đầu thế kỷ XI. Tiếp thu công nghệ làm giấy của Trung Quốc,
người Việt dùng nguyên liệu trong nước từ vỏ cây gió, các loài rêu biển, vỏ cây dâu,
vỏ cây thượng lục…làm ra nhiều loại giấy bản khác nhau: giấy nghè, giấy nhũ
tương, giấy đại phương, giấy trầm hương. Nghề in khắc gỗ phát triển, hình thành
làng nghề ở Hồng Lục và Liễu Tràng- Hải Dương [2, tr.1233-1235].
Trong thời Pháp thuộc nghề TCN trong nước, bị tư bản nước ngoài chèn ép.
Nhưng hàng tơ lụa của Việt Nam vẫn là nguồn lợi to lớn: trong khoảng các năm
1909- 1913, mỗi năm Việt Nam xuất sang Pháp 183,3 tấn tơ lụa các loại. Theo điều

25



×