Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong các nghị quyết của đảng về cải cách tư pháp thể hiện trong BlLTTHS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.92 KB, 10 trang )

Đề bài: "Anh (chị) hãy nêu những chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong
các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp thể hiện trong Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015".
BÀI LÀM
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương
cải cách tư pháp được ghi nhận trong các văn bản quan trọng như: Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49 – NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020; Nghị quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược xây dựng pháp luật đến năm 2020… Những văn bản trên thể hiện khá
đầy đủ chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong các Nghị quyết của Đảng
về cải cách tư pháp thể hiện trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sau đây
viết tắt là BLTTHS).
I. Khái quát chung về chính sách pháp luật tố tụng hình sự ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Chính sách pháp luật TTHS được hiểu là những đường định hướng,
phương châm cho việc đấu tranh phòng tội phạm, thông qua đó góp phần
phòng ngừa tội phạm, góp phần khôi phục và bảo vệ công lý; bảo vệ quyền
con người, lợi ích xã hội, trật tự pháp luật và phòng ngừa tội phạm thông qua
việc xây dựng, thực thi và giáo dục ý thức pháp luật tố tụng hình sự. Như
vậy, chính sách pháp luật tố tụng hình sự có các đặc điểm: là một bộ phận
của chính sách hình sự; chính sách pháp luật tố tụng hình sự xác định những
thông tin cơ bản về tổ chức đấu tranh, xử lý tội phạm trong hoạt động xây
dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự hướng tới làm rõ sự thật khách
quan vụ án, bảo đảm công bằng, dân chủ trong quá trình giải quyết vụ án và
chính sách pháp luật tố tụng hình sự hướng tới bảo vệ con người.
Ở nước ta, chính sách pháp luật tố tụng hình sự được thể hiện trong
đường lối, Nghị quyết của Đảng; trong Hiến pháp; trong các chương trình,
dự án của Nhà nước… Trong giai đoạn hiện nay thì chính sách tố tụng hình


sự được ghi nhận rõ rệt nhất trong các Nghị quyết của Đảng như: Nghị
quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
08); Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49); Nghị
quyết số 48 – NQ/TW ngày 24/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây
dựng pháp luật đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 48)… Đây là
1


công cuộc cải cách tư pháp bên cạnh cải cách kinh tế với cải cách hành
chính, cải cách lập pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng
mà một bộ phận quan trọng của nó là cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự.
Những chính sách này lại được thể chế hóa, cụ thể hóa trong BLTTHS 2015.
BLTTHS 2015 ra đời là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu
hiệu với mọi loại tội phạm, tháo gỡ được những vướng mắc, bất cập trong
thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến
định; góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu
lực cao” (Nghị quyết 49).
II. Những nội dung của chính sách pháp luật tố tụng hình sự
trong các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp thể hiện trong
BLTTHS 2015.
1. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan tố tụng hình sự.
Nhằm thực hiện các mục tiêu cải cách tư pháp, BLTTHS 2015 đã thể
chế hóa các chủ trương, chính sách cải cách tư pháp của Đảng, bảo đảm mọi
hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác,

kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội. Mà trước tiên
là việc định hướng về các cơ quan, thiết chế trong tổ chức đấu tranh xử lý tội
phạm. Nghị quyết 49 đã chỉ ra “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định
bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện,
phương tiện làm việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử
là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp”.
Trong quá trình tổ chức, sắp xếp các cơ quan tư pháp cần “xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền” của từng cơ quan, tránh chồng chéo, mâu
thuẫn trên cơ sở xác định hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án là
trọng tâm.
Đối với Viện kiểm sát, Nghị quyết 49 định hướng “Trước mắt, Viện
kiểm sát vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hiện quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp” và “nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành
Viện Công tố”. Như vậy, trước mắt, Viện kiểm sát vẫn có hai chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong TTHS, sau
năm 2020 nghiên cứu chuẩn bị để Viện kiểm sát chỉ giữ lại chức năng thực
hiện quyền công tố. Thực hiện chủ trương này, chức năng thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát được BLTTHS năm 2015 quy định sớm hơn so
2


với thể được tiến hành từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm mà
không phải từ khi khởi tố vụ án như hiện nay với nhiều thẩm quyền như: (1)
Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia
hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác hạn chế quyền
con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo
quy định của Bộ luật này; (2) Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh
và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực
hiện; (3) Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự; (4) Yêu cầu Cơ quan

điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
khởi tố vụ án; (5) Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố trong những trường hợp theo quy định của Bộ luật này; (6) Hủy bỏ
quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ
án, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết
định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (7) Thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn khác để thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật này
nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Đối với các cơ quan điều “trong mối quan hệ với các cơ quan khác
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra
chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành
một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số hoạt động điều tra theo
yêu cầu của cơ quan chuyên trách”. BLTTHS 2015 dành chương X để quy
định chung về điều tra vụ án hình sự, theo đó Cơ quan điều tra của Công an
nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân
sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về
tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ
luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ,
công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
2. Về thủ tục tố tụng.
a, Tranh tụng trong xét xử:
Về thủ tục tố tụng, Nghị quyết định hướng “Hoàn thiện các thủ tục tố
tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người”. Tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh

3


bạch được xác định trước hết và trọng tâm ở thủ tục phiên tòa, Nghị quyết
49 nêu rõ “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp”. Để đảm bảo tranh tụng trong xét xử, Nghị quyết 08 đưa
ra những điều kiện đảm bảo sau: “nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát
viên tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác”; “việc phán quyết của Tòa án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị
cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp
pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn luật quy định” và cuối cùng là “các cơ quan tư pháp có trách
nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia tham gia vào quá trình tố tụng: tham
gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên
tòa”.
Nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và quyền của người
bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng, LTTHS năm 2015 quy định:
Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay, bổ sung
người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ
(các điều 58, 59, 60, 61, 73); Quy định người bị buộc tội, người bào chữa có
quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Bổ sung quy định
về trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa như: yêu cầu
cung cấp, bổ sung chứng cứ; yêu cầu triệu tập người làm chứng và những

người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa (Điều 279); Bổ sung quy định khi
phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố không bảo đảm quyền bào chữa
của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa án không mở phiên tòa, trả hồ sơ
để Viện kiểm sát khắc phục vi phạm (Điều 280); Quy định chặt chẽ sự có mặt
của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290, 291); Đổi mới trình tự và
trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước tiên phải thuộc về chủ tòa
phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai hỏi sau mà không tuân
theo trình tự xét hỏi như Bộ luật TTHS 2003 (Điều 307); bị cáo có quyền trực
tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có
quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều 309); Khẳng định rõ nguyên
tắc bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm
vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa (Điều 26).

4


Nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng,
BLTTHS năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa
bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Và bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm
người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định (Điều 73, các điều 79-82):
- Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội, BLTTHS
năm 2015 bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có
mặt khi lấy lời khai của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của
người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị
tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý
như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước
về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành
hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) Thu thập chứng
cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

(4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ,
giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi,
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
- BLTTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện
tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải
thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt
động tố tụng mà họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị
buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục
đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án. Nhằm tăng cường trách
nhiệm của người bào chữa, BLTTHS năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người
bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát;
không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động
tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho
những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.
Đồng thời quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75):
bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là người bị buộc tội đang bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, BLTTHS năm 2015 quy định: (1) Bổ sung người thân
thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2) Quy định cụ thể
thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan
quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào
từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào
chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên
hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
b. Áp dụng biện pháp ngăn chặn:
5


Nghị quyết 08 yêu cầu “Tăng cường công tác kiểm sát bắt, giam, giữ
bảo đảm đúng pháp luật”, đồng thời cần xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn
chế việc áp dụng tạm giam đối với một số loại tội phạm. Theo đó, BLTTHS

năm 2015 sửa theo hướng thu hút toàn bộ các biện pháp có tính cưỡng chế
quy định trong các chương, các phần của BLTTHS để điều chỉnh chung
trong chương VII nhằm bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ khi quy định về
các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Theo đó, bố cục
thành hai mục (Mục I: Biện pháp ngăn chặn và Mục II: Biện pháp cưỡng
chế). Từng biện pháp được điều chỉnh bởi năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm
quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành.
- Về biện pháp bắt (Điều 109): Nhằm bảo đảm tính cụ thể trong cách
thức quy định về biện pháp bắt người, BLTTHS quy định về các trường hợp
bắt, bao gồm: (1) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (2) Bắt người
phạm tội quả tang; (3) Bắt người đang bị truy nã; (4) Bắt bị can, bị cáo để
tạm giam; (5) Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
- Về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110): Hiến
pháp quy định “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”, BLTTHS sửa thành “Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp” và có một số điều chỉnh so với hiện nay. Cụ thể
là, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc
nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành 03
hoạt động: (1) lấy lời khai ngay người bị giữ; (2) ra quyết định tạm giữ; (3)
ra lệnh bắt người bị giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát kèm theo tài liệu liên
quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn hoặc trả tự do cho người bị giữ.
- Bổ sung và quy định chặt chẽ những người có thẩm quyền bắt khẩn
cấp, tạm giữ (các điều 110, 117): để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm, BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền bắt khẩn cấp, tạm
giữ cho một số chủ thể thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư
gắn với tiêu chí “thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn biên giới, hải đảo, xa cơ quan
điều tra chuyên trách”, cụ thể gồm: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập
cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy
trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh,

thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát Bộ đội biên
phòng, Cục trưởng Cục phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng,
Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng; Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật
Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy
Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng.
6


- Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam ( điều 119): Thể chế hóa chủ
trương của Đảng về hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam, BLTTHS quy
định chặt chẽ căn cứ tạm giam, theo đó, đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm thì cụ thể hóa căn cứ cản trở
điều tra, truy tố, xét xử bằng các căn cứ cụ thể như: Có hành vi mua chuộc,
cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự
thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản
liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức
phạt tù đến 02 năm nhưng bỏ trốn, BLTTHS năm 2015 quy định chỉ có thể
tạm giam đối tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo
lệnh truy nã.
Và rút ngắn thời hạn tạm giam theo hướng: trong giai đoạn điều tra,
đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng: chỉ cho phép gia hạn một lần
thay vì gia hạn hai lần như hiện nay; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ
cho phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba lần như hiện nay. Theo đó, rút
ngắn thời hạn tạm giam 01 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 02 tháng đối
với tội rất nghiêm trọng; 04 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Đồng
thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia

hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, BLTTHS 2015 cho phép gia hạn tạm
giam đến khi kết thúc điều tra đối với các tội này nhưng để bảo đảm chặt
chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam chỉ thuộc Viện trưởng
VKSNDTC.
c. Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: “theo hướng quy định
chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra
quyết định kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu
lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”.
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, BLTTHS năm 2015 quy định
chặt chẽ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó, chỉ kháng nghị giám
đốc thẩm khi thuộc một trong ba trường hợp sau đây: (1) Kết luận trong bản
án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của
vụ án; (2) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố
hoặc xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; (3) Có
sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
- BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm làm rõ
trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc, kiểm sát
7


việc xét xử, theo đó khi Tòa án thực hiện công tác giám đốc việc xét xử,
Viện kiểm sát kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà
phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
c. Về phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách
nhiệm, quyền hạn tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán trong thủ tục tố tụng:
Nghị quyết 49 đã định hướng trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án cần
“phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn tư

pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách
nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong
thực thi nhiêm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình”.
Quan điểm này đã được BLTTHS 2015 thể chế hóa bằng các quy định
tại Điều 36, 37, 41, 42, 44, 45. Theo đó, trong lĩnh vực được phân công phụ
trách, cấp phó không chỉ được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng như
BLTTHS 2003, mà còn được giao thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp.
Phân định thẩm quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với người
trực tiếp tiến hành tố tụng theo hướng những thẩm quyền có tính chất quyết
định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan
đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; hầu hết những thẩm
quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra
viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định. Tăng cơ bản thẩm quyền cho Thẩm
phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Cụ thể việc tăng thẩm quyền cho
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được quy định cụ thể như sau:
- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: (1) Yêu cầu hoặc đề nghị cử,
thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch
thuật; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người
bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân;
(3) Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
bị tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,
bị hại; (4) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm giám sát; (5) Quyết định thay đổi người giám sát người dưới
18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh phong tỏa tài khoản.
- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: (1) Trực tiếp giải quyết và
lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Triệu tập và lấy lời khai
8



người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị
cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch,
người dịch thuật; (4) Bắt buộc có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối
chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; (5)
Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can; (6) Quyết định áp giải
người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác,
bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát
người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: (1) Quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; (2) Quyết định trưng cầu giám
định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi
hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay
đổi người định giá tài sản; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào
chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (4) Yêu cầu cử,
thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (5) Quyết định việc thu thập, bổ
sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
3. Đảm bảo quyền con người trong TTHS.
Chính sách pháp luật TTHS của nước ta hiện nay dành sự quan tâm
đặc biệt trong đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Các Nghị quyết
định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân. Bởi quyền con người là giá trị của nhân
loại, cộng đồng quốc tế cũng như mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm tôn
trọng và bảo đảm quyền con người. Một trong những mục tiêu của cải cách
tư pháp xác định là nền tư pháp phải hướng tới “phục vụ nhân dân”, Nghị
quyết 48 và Nghị quyết 49 đều đưa ra định hướng xây dựng và hoàn thiện
pháp luật, thực hiện công cuộc cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con
người.

Ngoài các nguyên tắc đã được ghi nhận trong BLTTHS 2003 như:
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự; Tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Bảo đảm quyền
bình đẳng trước pháp luật; Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
chỗ, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, gia đình…; Bảo hộ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản…; Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự… thì BLTTHS
2015 đã bổ sung 05 nguyên tắc mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người,
quyền công dân theo định hướng các chính sách hình sự trong các Nghị quyết
của Đảng và theo quy định của Hiến pháp năm 2013, gồm: Công dân Việt
9


Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 11); suy đoán
vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); bảo đảm sự kiểm tra, giám sát
trong hệ thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng (Điều 33);
Bảo vệ quyền con người thông qua quy định của BLTTHS về các biện
pháp ngăn chặn: nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan THTT và người
THTT khi áp dụng biện pháp ngăn chặn xâm hại đến quyền con người,
BLTTHS 2015 quy định phần này tập trung, thống nhất, chặt chẽ trong
chương VII, mục I; từng biện pháp được điều chỉnh bởi năm yếu tố: căn cứ
áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành: Về
biện pháp bắt (Điều 109); Về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp (Điều 110); Bổ sung và quy định chặt chẽ những người có thẩm quyền
bắt khẩn cấp, tạm giữ (các điều 110, 117); Quy định cụ thể những việc cần
làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt (Điều 114); Quy định
chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (các điều 119,
173):

Trên đây là những chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong các Nghị
quyết của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế hóa, thể hiện trong Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015, các chính sách này góp phần quan trọng thực hiện
mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

10



×