Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ thơ đỗ thị tấc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.27 KB, 103 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu khảo sát, thống kê, nghiên cứu, kết luận trong luận văn là trung thực và
chưa từng công bố ở bất kì công trình nào khác.
Tác giả

Đặng Thị Hoàng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS. TS Phạm Hùng Việt,
thầy đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Luận văn là kết quả của quá trình học tập. Vì vậy, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn đến những thầy, cô đã giảng dạy các chuyên đề cho lớp cao học Ngôn
ngữ K2 (2013 – 2015) tại trường Đại học Tây Bắc.
Tôi xin trân trọng cám ơn tới tập thể cán bộ phòng sau đại học - Trường
Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời tri ân đến nhà thơ Đỗ Thị Tấc - người bạn đồng hành,
luôn tiếp thêm ngọn lửa thi ca cho tôi trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người thân đã luôn
ủng hộ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Sơn La, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Tác giả luận văn

Đặng Thị Hoàng


DANH MỤC CÁC BẢNG
TT



Tên bảng

Trang

1

Bảng thống kê các thể loại thơ

24

2

Bảng thống kê vần chính, vần thông, vần ép

49

3

Bảng thống kê độ dài các bài thơ

60

4

Bảng thống kê các kiểu từ láy

68

5


Bảng các loại từ xưng hô trong thơ Đỗ Thị Tấc

75

6

Bảng thống kê các kiểu so sánh

85

i


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 5
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 5
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 6
1.1. Ngôn ngữ thơ và đặc trưng ngôn ngữ thơ .................................................. 6
1.1.1. Ngôn ngữ thơ ........................................................................................... 6
1.1.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ .......................................................................... 7
1.2. Giới thiệu sơ lược về thơ Lai Châu đương đại và tác giả Đỗ Thị Tấc ............ 19

1.2.1. Giới thiệu sơ lược về thơ Lai Châu đương đại ..................................... 19
1.2.2. Giới thiệu sơ lược về tác giả Đỗ Thị Tấc .............................................. 21
1.3. Tiểu kết ..................................................................................................... 23
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM VỀ THỂ THƠ, VẦN, NHỊP VÀ CÁCH
TỔ CHỨC BÀI THƠ TRONG THƠ ĐỖ THỊ TẤC ................................. 24
2.1. Đặc điểm về thể thơ ................................................................................. 24
2.1.1. Thể thơ 4 chữ......................................................................................... 25
2.1.2. Thể thơ tự do ......................................................................................... 26
2.2. Vần trong thơ Đỗ Thị Tấc ........................................................................ 37
2.2.1. Vần và các chức năng hiệp vần trong thơ ........................................... 37
2.2.2. Vần trong thơ Đỗ Thị Tấc ................................................................... 40


2.3. Nhịp trong thơ Đỗ Thị Tấc....................................................................... 49
2.3.1. Nhịp điệu và cách tổ chức trong thơ ..................................................... 49
2.3.2. Nhịp trong thơ tự do Đỗ Thị Tấc .......................................................... 54
2.4. Đặc điểm về cách tổ chức bài thơ trong thơ Đỗ Thị Tấc ......................... 57
2.4.1. Đặc điểm về tiêu đề ............................................................................... 57
2.4.2. Đặc điểm về câu thơ, dòng thơ ............................................................ 60
2.4.3. Đặc điểm về khổ thơ, đoạn thơ ............................................................. 61
2.4.4. Một số kiểu mở đầu và kết thúc ............................................................ 63
2.5. Tiểu kết ..................................................................................................... 67
Chương 3. TỪ NGỮ VÀ CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ
THƯỜNG GẶP TRONG THƠ ĐỖ THỊ TẤC ........................................... 68
3.1. Các lớp từ vựng ngữ nghĩa tiêu biểu ....................................................... 68
3.1.1. Sử dụng từ láy ....................................................................................... 68
3.1.2. Lớp từ chỉ hình ảnh ............................................................................... 70
3.1.3. Lớp từ xưng hô ...................................................................................... 75
3.2. Một số biện pháp tu từ trong thơ Đỗ Thị Tấc .......................................... 79
3.2.1. Điệp ngữ ................................................................................................ 79

3.2.2. Biện pháp so sánh ................................................................................. 84
3.3. Tiểu kết ..................................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. “Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson). Đó là
thứ ngôn ngữ được chưng cất công phu vì “bài thơ là tổ chức ở trình độ cao
của ngôn ngữ, một tổ chức chặt chẽ tinh tế của ngôn ngữ”. Và “ngôn ngữ thi
ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ và tư tưởng và nhiệm vụ
của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm màu kỳ diệu ấy” (Phú Hưng). Nền thơ
ca Việt Nam từ văn học trung đại đến hiện đại và đương đại đã ghi nhận sự
đóng góp không nhỏ của các nhà thơ nữ.
Trong số đông đảo các nhà thơ nữ hiện đại, các nhà thơ nữ Lai Châu
đã có những đóng góp nhất định trong việc góp nên diện mạo và tiếng nói
chung của các nhà thơ nữ, đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại những
sắc màu, giọng điệu và phong cách ngôn ngữ riêng. Đó là hồn thơ vừa mạnh
mẽ, quyết liệt, vừa đằm thắm, dịu dàng sâu lắng đầy duyên dáng, nữ tính,
mang đậm sắc thái tâm hồn của người miền núi, tự nhiện, hồn hậu và rất đỗi
chân thành. Tuy vậy, mỗi nhà thơ lại có cách tổ chức ngôn ngữ để tạo nên dấu
ấn riêng, “tiếng nói riêng”, “giọng điệu riêng”, một lối dùng chữ riêng trong
thế giới nghệ thuật của mình. Xuất phát từ đặc trưng của cá tính sáng tạo
trong văn học, đã có một số luận án, luận văn nghiên cứu về thơ của một tác
giả cụ thể. Theo hướng đi đó, chúng tôi nghiên cứu thơ Đỗ Thị Tấc - một nhà
thơ nữ của Lai Châu trên phương diện ngôn ngữ với mong muốn tìm ra được
những nét riêng trong cách tổ chức ngôn ngữ, từ đó đánh giá đóng góp của
nhà thơ nữ này cho văn học Lai Châu nói riêng, văn học Việt Nam nói chung.
1.2. Lai Châu, một tỉnh miền núi, nơi địa đầu miền Tây Bắc của tổ

quốc, mảnh đất núi non hiểm trở, cuộc sống còn nhiều khó khăn song rất giàu
bản sắc văn hoá của 23 dân tộc anh em. Chính mảnh đất này đã trở thành

1


nguồn cảm hứng vô tận, nguồn sinh khí để các nhà văn, nhà thơ sáng tạo ra
những giá trị tinh thần phục vụ cho cuộc sống. Là một tỉnh miền núi vừa mới
được chia tách và tái thành lập như tỉnh Lai Châu, vượt qua những bộn bề của
công việc ổn định cơ cấu bộ máy nhà nước, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất,
về nhân sự... Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu vẫn được "khai sinh",
hình thành, phát triển đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị xã
hội của tỉnh nhà và đồng hành cùng nền văn học Việt Nam trong các chặng
đường phát triển. Góp phần làm nền diện mạo của nền văn học Lai Châu nói
riêng, văn học Việt Nam nói chung, phải kể đến những đóng góp quan trọng
của các nhà thơ nữ Lai Châu.
1.3. Có thể nói Thơ nữ Lai Châu có không ít những cây bút nữ có tài.
Trước hết phải kể đến Bùi Thị Sơn - người phụ nữ với trái tim nhạy cảm luôn
trăn trở, suy tư về cuộc đời, về tình yêu và những vấn đề xã hội để từ đó phát
hiện ra ra điều nghịch lí tưởng như bình thường nhưng mang nhiều ý nghĩa xã
hội: "Người giàu đổ đi/ Kẻ nghèo nhặt lại/ Bao nhiêu thừa thãi/ Bấy nhiêu tủi
hờn" (Bên thùng rác công cộng). Tiếp theo là Phùng Hải Yến con gái Bùi Thị
Sơn - một nhà thơ trẻ luôn biết trân trọng và cảm nhận sự ấm áp của cội
nguồn văn hoá: "Bẽn lẽn úp mặt vào cái xiết tay/ Tưởng hơi ấm sau điệu xoè
nằm lại". Tiếp đó là gương mặt Lê Thị Hải Yến, Phùng Hương Loan, Nguyễn
Thị Tươi, Đỗ Thị Thanh Tú... tất cả họ đều là những cây bút gặt hái được
nhiều thành công. Trong khuôn khổ một đề tài luận văn chúng tôi chọn đối
tượng nghiên cứu là tác giả Đỗ Thị Tấc - một hồn thơ vừa hồn nhiên, mạnh
mạnh mẽ, tự tin vừa mang cái thẳm sâu của hồn thơ mong manh và đầy trắc
ẩn. Thơ chị là tính cách, là tâm hồn, là tiếng lòng, là cuộc đời chị - cuộc đời

của người phụ nữ nhiều bất trắc, đa đoan song luôn khát sống, khát yêu, luôn
biết nâng niu những hạnh phúc giản dị đời thường.
Đỗ Thị Tấc, nhà nghiên cứu văn hoá dân gian đã gắn bó toàn bộ cuộc

2


đời với núi rừng Tây Bắc, nên thơ chị có những âm hưởng hoang sơ, hồn
nhiên và lấm láp nhọc nhằn như chắt ra từ đá sỏi. Hiện chị là Chủ tịch Hội
Văn học - Nghệ Thuật tỉnh Lai Châu, Chi hội trưởng Chi hội văn nghệ Dân
gian Việt Nam tỉnh Lai Châu. Chị có các bút danh: Lý Mì Mừ, Chu Ân, Bảo
Linh. Chị đã nhận được các giải thưởng Giải C tác phẩm "Sữa đá" - Hội Văn
học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2000; Giải C - Uỷ ban
toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam - 2001, "Những
người mẹ núi" - Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2002. Dù là một cây bút
sáng giá của thi ca Lai Châu song những bài viết, các nghiên cứu về chị chưa
nhiều và cũng chưa mang tính hệ thống. Chúng tôi hi vọng kết quả nghiên
cứu của luận văn này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn
về thơ Đỗ Thị Tấc, góp phần khẳng định đóng góp của nhà thơ với thơ nữ Lai
Châu nói riêng, thơ nữ Việt Nam nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu và tiếp nhận tác phẩm thơ của nhà thơ nữ Đỗ Thị Tấc,
từ trước tới nay đã thu hút được sự chú ý của không ít người. Đã có một số tờ
báo, bài báo trong nước, trong Tỉnh nghiên cứu về nhà thơ nữ này như: Báo
Công an nhân dân, An Ninh thủ đô, Văn nghệ trẻ, Báo Lai Châu... Chị cũng
đã có mặt trong danh sách 33 gương mặt thơ nữ Việt Nam của tác giả Vũ
Nho, nhà xuất bản Hội nhà văn. vietvan.vn đã từng nhận xét: "Trước đây dòng
thơ dân tộc và miền núi đi thẳng từ cổ sơ đến hiện đại, chúng ta đã có y
Phương và giờ đây, thật đáng ăn mừng là có thêm Đỗ Thị Tấc". Quê ở Hưng
Yên, lên Lai Châu từ thủa lên ba, "điệu thức những bài ca cổ sơ của người

Tày, Thái của Hà Nhì đã vận vào để, chẳng những làm nên điệu tâm hồn, nó
còn góp phần làm nên thi pháp của nhà thơ". Thơ Đỗ Thị Tấc tả cái nghèo
khổ, cái gan góc của người miền núi cứ nhẹ nhõm như không. Nhưng đóng
góp lớn nhất của Đỗ Thị Tấc cho thơ miền núi là ở chỗ đã đưa quan tâm của

3


thơ vượt khỏi số phận riêng rẽ, nhúc nhích đến cái quen thuộc của Con Người
nói chung". Trần Vân Hạc đã nhận xét về thơ Đỗ Thị Tấc "Cái chất của
người miền rừng thẳng thắn, trung thực, yêu ghét rõ ràng, nói lời như dao
chém đá thấm vào tâm hồn chị nhiều đến nỗi, cách nghĩ, cách nói đặc sệt của
người miền rừng" [22, tr. 2]
Là một nhà thơ gắn bó toàn bộ cuộc đời với núi rừng nên thơ chị có
những âm hưởng hoang sơ, hồn nhiên và lấm láp nhọc nhằn như chắt ra từ sỏi
đá. Thơ Đỗ Thị Tấc đa phần lấy cảm hứng từ cuộc sống dân tộc và miền núi.
Đó là điều đáng quý. Đặc biệt hơn, khi sáng tác thơ Đỗ Thị Tấc thuần thi
pháp dân gian - một thứ thi pháp gần gũi với thi ca của đồng bào dân tộc
thiểu số anh em. Điều đó không chỉ thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn, con người
chị mà còn thể hiện cách cảm, cách nghĩ của chị. Thế giới quan, nhân sinh
quan của chị thể hiện rất rõ qua ngôn ngữ thơ. Thực hiện đề tài "Đặc điểm
ngôn ngữ thơ Đỗ Thị Tấc", trong khuôn khổ một luận văn, chúng tôi mong
muốn tìm hiểu để làm rõ được nét riêng về phong cách ngôn ngữ của thơ Đỗ
Thị Tấc và bản sắc văn hoá miền núi Lai Châu thể hiện qua thơ chị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: ngôn ngữ thơ Đỗ Thị Tấc
3.2. Phạm vi
Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm 48 bài thơ của nhà thơ Đỗ Thị
Tấc trong hai tập thơ:

- Sữa đá (1999)
- Những người mẹ núi (2001)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài.

4


- Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ thơ Đỗ Thị Tấc xét về mặt hình thức:
thể thơ, đặc điểm vần, nhịp.
- Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ thơ Đỗ Thị Tấc xét ở bình diện ngữ
nghĩa gồm đặc điểm ngữ nghĩa của một số kiểu từ ngữ và một số biện pháp tu
từ thường được nhà thơ sử dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Đây là phương pháp được sử dụng để thu thập và phân loại những câu
thơ, bài thơ chứa đựng hiện tượng ngôn ngữ cần nghiên cứu.
5.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các kiểu cấu trúc tiêu biểu
của thơ Đỗ Thị Tấc.
5.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp này được dùng để phân tích các hiện tượng sử dụng ngôn
từ, tín hiệu thẩm mĩ, cấu trúc ngôn ngữ nhằm rút ra đặc điểm cơ bản của
ngôn ngữ thơ Đỗ Thị Tấc.
6. Đóng góp của luận văn
Có thể xem đây là đề tài đầu tiên đi vào tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ
thơ của nhà thơ nữ Lai Châu Đỗ Thị Tấc ở hai bình diện hình thức biểu đạt và
nội dung ý nghĩa, từ đó chỉ ra những đóng góp riêng đặc sắc của nhà thơ Đỗ
Thị Tấc từ góc độ ngôn ngữ học.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
Chương 2. Đặc điểm về thể thơ, vần, nhịp và cách tổ chức bài thơ trong
thơ Đỗ Thị Tấc.
Chương 3. Từ ngữ và các biện pháp tu từ thường gặp trong thơ Đỗ Thị Tấc.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Ngôn ngữ thơ và đặc trưng ngôn ngữ thơ
1.1.1. Ngôn ngữ thơ
Văn học là một môn nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng
hình tượng. Cho nên người ta gọi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Tuy
nhiên, không phải mọi tác phẩm bằng ngôn từ đều là văn học. Chỉ những tác
phẩm nào dùng lời văn với mọi biểu hiện phương tiện của lời nói như nghĩa,
vần, nhịp, ngữ điệu, các biện pháp tu từ.. để tạo ra những hình tượng nghệ
thuật mới gọi là văn học theo ý nghĩa hiện đại của từ ấy. Thơ là một thể loại
thuộc về sáng tác văn học nghệ thuật lấy ngôn từ làm cứu cánh và “làm thơ
là tạo ra một hành tinh thứ hai bằng ngôn ngữ” (Chế Lan Viên). Vì vậy,
một nhà thơ có phong cách phải sáng tạo ra một tiếng nói riêng, một giọng
điệu riêng, một lối dùng chữ riêng trong thế giới nghệ thuật của mình. Yếu
tính của việc làm thơ là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, một tín hiệu thẫm mỹ
thể hiện tài năng của nhà thơ. Nói như Lê Đạt: “Chữ bầu lên nhà thơ”. Bởi
“Người làm thơ không phải làm bằng ý mà bằng chữ.” [12, tr. 116]
và“Ngôn ngữ trong tay người làm thơ cũng giống như những cây que,
những chiếc vòng… trong tay trẻ nhỏ. Chúng có thể biến hóa nên bao trò
chơi, mà trò chơi nào cũng chóng chán, cũng đòi người chơi phải bày ra trò

mới khác đi.” [52, tr. 26]
Trên thế giới, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cũng đã chỉ ra sự khác
nhau giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi. Jacobson đã từng nói rằng:
“chức năng của thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu
trên trục kết hợp” [28, tr. 83], ông nhấn mạnh cơ chế hoạt động của ngôn ngữ
thơ là cơ chế lựa chọn và cơ chế kết hợp. Bên cạnh đó, trên các nguyên lý của

6


F.de.Saussure trong giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Jacobson còn chỉ ra
trong thơ hình thức ngữ âm là vô cùng quan trọng. Ông nhấn mạnh các yếu tố
âm thanh như âm vận, điệp âm, điệp vận, khổ thơ... là những đơn vị thuộc
bình diện hình thức. Có thể nói, đây là những cơ sở xuất phát quan trọng
trong việc nhận diện ngôn ngữ thơ.
Trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ, tác giả Nguyễn
Phan Cảnh cũng đã dựa vào lý thuyết hệ hình để xem xét thơ từ phương thức
lựa chọn ngôn từ trong các hệ hình, để tạo ra hiệu quả biểu đạt cao nhất. [5,
tr. 51-70]. Ông còn nêu ra lý thuyết trường nét dư. Trong đó tác giả chỉ ra
rằng để thiết lập nên các tổ chức ngôn ngữ trên trục lựa chọn và trục kết hợp,
nhà thơ phải sử dụng đến thao tác loại bỏ trường nét dư, chính là quá trình
hình thành thể thơ. Nét dư được loại bỏ càng nhiều thì hàm lượng thông tin
càng cao và càng đòi hỏi ở người tiếp nhận năng lực tiếp nhận và kết cấu “lạ”
do việc loại bỏ các yếu tố ngôn ngữ có hàm lượng thông tin thấp mà ra.
Về cách tổ chức của ngôn ngữ thơ, Hữu Đạt đã diễn đạt một cách cụ
thể là “được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và súc tích nhất với cách tổ
chức ngôn ngữ có vần điệu và các quy luật phối âm riêng của tìmg ngôn ngữ"
[11, tr. 25].
Từ những cách hiểu trên về ngôn ngữ thơ ca, ta có thể đi đến kết luận:
Trong một phạm vi hẹp của thể loại, ngôn ngữ thơ được hiểu là một chùm

đặc trưng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hóa, khái quát hóa
hiện thực khách quan theo tổ chức riêng của thơ ca.
1.1.2. Đặc trưng ngôn ngữ thơ
Khi phân biệt thơ với các thể loại khác, người ta thường đi theo cách
lưỡng phân, đối lập thơ và văn xuôi ở nhiều góc độ khác nhau. Ở góc độ ngôn
ngữ ta có ta có thể đối lập thơ với văn xuôi trên ba cấp độ: ngữ âm, ngữ
nghĩa, ngữ pháp để thấy rõ đặc trưng của ngôn ngữ thơ ca.

7


1.1.2.1. Về ngữ âm
Đặc điểm nổi bật về ngữ âm để phân biệt thơ với văn xuôi là đặc trưng
tính nhạc. Thơ phản ánh cuộc sèng qua những rung động của tình cảm. Thế
giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn
bằng cả âm thanh, nhịp điệu. Vì vậy, nhiều người nhất trí xem tính nhạc là đặc
thù cơ bản của ngôn ngữ thơ ca. Đây là điều mà trong văn xuôi ít được nhắc
đến. Đặc điểm về tính nhạc có tính phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Tuy nhiên,
trong mỗi ngôn ngữ có cách thể hiện riêng tùy theo cơ cấu cách cấu tạo và tổ
chức khác nhau về ngữ âm. Tiếng Việt giàu có về nguyên âm, phụ âm, thanh
điệu là cơ sở cho ngôn ngữ thơ ca Việt Nam có dáng vẻ độc đáo về tính nhạc.
Khi khai thác về tính nhạc trong thơ, chúng ta cần chú ý những đối lập sau.
- Sự đối lập trầm - bổng, khép - mở của các nguyên âm.
- Sự đối lập về vang - tắc giữa hai dãy phụ âm mũi và phụ âm tắc vô

thanh trong các phụ âm cuối.
- Sự đối lập cao - thấp, bằng - trắc của các thanh điệu.

Bên cạnh đó, sự đối lập vần và nhịp cũng góp phần quan trọng trong
việc tạo tính nhạc cho ngôn ngữ thơ ca. Những yếu tố về ngữ âm này là cơ sở

cũng là chất liệu cho sự hoà âm của ngôn ngữ thơ ca, tạo nên những âm
hưởng trầm bổng diệu kỳ.
Các yếu tố âm thanh, vần luật, tiết tấu, lời thơ tạo nên nhạc điệu. Ngôn
ngữ thơ thường là ngôn ngữ vừa lắng đọng, vừa ngân vang. Nói cách khác,
thơ thường vừa có hình vừa có nhạc. Lấy ví dụ về đoạn thơ nổi tiếng sau đây
trong bài Em ơi…Ba Lan… của Tố Hữu :
Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn….

8


Đoạn thơ này mở đầu cho cả bài thơ ca ngợi đất nước Ba Lan anh em.
Nhà thơ hình dung Ba Lan như một người em gái đang đi cùng với mình trên
những nẻo đường của mùa xuân và cả bài thơ là lời của nhà thơ nói với người
em gái ấy. Hình ảnh thơ mở đầu là hình ảnh mùa xuân (mùa tuyết tan, sương
trắng, năng tràn...). Trên con đường mùa xuân đó, nhà thơ như đang dắt tay
người em gái cùng đi, và bên tai nghe văng vẳng tiếng thơ của A - đam, tiếng
đàn Sô- panh dường như tiếng của tâm hồn dân tộc Ba Lan từ xưa vọng lại.
Cả bốn câu thơ gợi lên không khí sáng tươi, ấm áp, thanh thản, mênh mông
của mùa xuân.
Trong đoạn thơ này không chỉ có hình mà còn có nhạc, mà nhạc ở đây
cũng không phải vì đoạn thơ có nhắc đến giọng đàn của Sô - panh. Nhạc ở
đây là nhạc của thơ, nhạc của những âm, những thanh, những vần, những nhịp
như ngân nga, hoà điệu cùng nhau, nâng cao hình tượng mùa xuân trên đôi
cánh nhạc. Những câu thơ ở đây bay bổng, thanh thoát, nhẹ nhàng vì phần lớn
các âm có thanh bằng (Em ơi, Ba Lan, mùa, tan…) hoặc thanh trắc cao (tiếng,
trắng, nắng…). Chỉ có 4 thanh trắc thấp (bạch, vọng, giọng, giọng) thì ba

thanh hoà vận cùng nhau, vang lên như mấy tiếng nhạc trầm giữa một giai
điệu cao chung. Nhạc điệu du dương ngân nga của đoạn thơ nảy sinh ra do
một yếu tố quan trọng này nữa: đó là sự hiệp vần của các tiếng trong từng
câu, hoặc giữa các câu. Đoạn thơ trên có dáng dấp của thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt. Theo lệ, chỉ cần 3 vần hiệp với nhau ở cuối câu 1, câu 2 và câu 4 (lan,
tràn, đàn), thậm chí chỉ cần 2 vần ở câu 2 và câu 4 cũng đủ. Nhưng Tố Hữu là
nhà thơ rất giàu vần và dùng vần một cách rất rộng rãi. Ngoài các vần bắt
buộc nói trên, nhà thơ còn gieo một loại vần khác nữa trong từng câu hoặc
giữa các câu :
Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn…

9


Lan với tan, tràn; đường với dương, sương; trắng với nắng, chỉ có hai
câu mà vần nhiều đến vậy. Nhưng vẫn chưa hết. Nhạc của đoạn thơ còn sinh
ra từ sự phối hợp của các nguyên âm, đặc biệt là nguyên âm a ở câu thơ đầu
và các phụ âm đặc biệt là các phụ âm t, tr ở câu thứ hai.
Bên trên có nói đoạn thơ này làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt nhưng nhà
thơ đã phá bỏ mọi niêm luật cổ điển để cho dòng suối âm thanh tràn vào các
câu thơ. Ví dụ như trong câu đầu, nhà thơ đã phá bỏ luật nhất, tam, ngũ bất
luận; nhị, tứ, lục phân minh (tiếng thứ 1, thứ 3, thứ 5 bằng hay trắc cũng
được; tiếng thứ 2, thứ 4, thứ 6 bằng hay trắc phải rõ ràng). Cả ba tiếng nhất,
tam, ngũ của nhà thơ đều là thanh bằng cả. Còn ba tiếng nhị, tứ, lục đáng lý ra
thì phải viết :
Em hỡi, Ba Lan, mùa tuyết tan
O T O B

B


T

(vần)

Nhưng nhà thơ lại viết “Em ơi, Ba Lan…” làm cho câu thơ nhẹ nhàng
hơn. Nhà thơ cũng phá bỏ cả niêm. Đáng lý ra, cứ theo đúng niêm, sau khi
viết câu thứ hai:“Đường bạch dương…” thì câu thơ thứ ba không được viết:
“anh đi...” vì như vậy là thất niêm (niêm bắt buộc tiếng thứ hai của từng cặp
câu chẵn và lẻ bao giờ cũng phải cùng một thanh trắc hay bằng và cứ thế luân
phiên nhau). Ở đây, nhà thơ đã chú trọng âm thanh nhiều hơn niêm luật.
Về nhịp điệu (tiết tấu) đoạn thơ trên cũng có những sự phá cách theo
tinh thần sáng tạo. Các câu thơ 1,3,4 đi theo nhịp bình thường của thơ thất
ngôn (2/ 2/3):
Em ơi / Ba Lan / mùa tuyết tan /
Anh đi / nghe tiếng / người xưa vọng /
Một giọng / thơ ngâm / một giọng đàn/
Nhưng câu thứ 2 lại đổi sang nhịp thơ song thất (3,2,2) :
Đường bạch dương / sương trắng / nắng tràn /

10


Từ sự phân tích trên, ta có thể thấy một điểm có tính chất khái quát là:
Hình tượng thơ hình thành trong một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt, được cách
điệu hoá, khác với ngôn ngữ bình thường. Cấu tạo ngôn ngữ đó làm cho lời
thơ vừa lắng đọng vừa ngân vang, làm cho hình tượng thơ không chỉ có hình
mà còn có nhạc là sự tổng hợp của hình và nhạc. Hình của thơ do ý nghĩa của
ngôn ngữ dựng nên, nhạc của thơ sinh ra từ âm thanh ngôn ngữ. Hình của thơ
lắng đọng, nhạc của thơ ngân vang. Hai yếu tố này quyện lẫn vào nhau, cùng

một lúc sinh ra từ tâm hồn nhà thơ khi sáng tác và cũng cùng một lúc tác động
đến tâm hồn người đọc khi cảm thụ. Đọc một đoạn thơ, một bài thơ, chúng ta
dường như vừa thấy hình vừa lắng nhạc. Cả hình lẫn nhạc cùng giúp ta cảm
và hiểu tình ý của thơ. Đọc đoạn thơ vừa dẫn ở trên của Tố Hữu, niềm khoái
cảm nghệ thuật và thẩm mỹ trong chúng ta được gợi nên là do không khí mùa
xuân chứa chan, đầy dẫy trong bốn câu thơ và chúng ta cảm thụ, lĩnh hội nó
vừa qua ý nghĩa trong sáng, khêu gợi của từng từ, từng câu, đồng thời vừa qua
âm điệu thanh thoát, du dương của từng vần, từng nhịp.
Tính nhạc trong ngôn ngữ thơ ca đưa thơ ca xích gần lại với âm nhạc
làm chỗ dựa cho các phương pháp diễn đàn âm nhạc
• Vần
Điều kiện trước hết tạo nên tính nhạc của thơ phải kể đến sự hòa âm
mà vần là yếu tố quan trọng xây dựng nên sự hòa âm giữa các câu thơ. “Vần
là sự hòa âm, sự cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định
giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ, gợi tả nhấn mạnh sự
ngừng nhịp” [10, tr. 12]. Đơn vị biểu diễn vần thơ trong tiếng Việt là âm tiết
bao gồm: âm đoạn tính và siêu đoạn tính (thanh điệu). Xét về chức năng tạo
nên sự tương đồng, sự hòa âm thì các yếu tố cấu tạo nên âm tiết có vai trò
không giống nhau: “Ở đây thanh điệu, âm cuối rồi đến âm chỉnh là những
yếu tố giữ vai trò quyết định của sự hòa âm. Vai trò thứ yếu thuộc về âm đệm

11


và yếu tố cuối cùng là âm đầu” [10, tr. 115].
Trước hết, ta xét đến yếu tố siêu đoạn tính (thanh điệu) chức năng hòa
âm của thanh điệu trong các vần thơ được biểu hiện chủ yếu ở chỗ các âm tiết
hiệp vần chỉ có thể mang thanh đồng loại tuyền điệu (cùng bằng hoặc cùng
trắc), đó là nét cơ bản của vần thơ Việt Nam.
Xét về âm đoạn tính của các âm tiết hiệp vần, đầu tiên phải kể đến âm

cuối. “Trong một âm tiết, giữa các yếu tố tạo nên phần vần thì âm cuối là
yếu tố quyết định tính chất của nó rõ hơn cả” [10, tr. 100]. Âm cuối là cơ sở
để người ta phân loại các vần (khép, nửa khép, mở, nửa mở), chính tính chất
của những loại vần giữ một vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự hòa âm.
Với âm cuối, sự hòa âm của vần thơ sẽ được tạo ra khi hai âm tiết hiệp vần có
sự đồng nhất các âm cuối (phụ âm, bán nguyên âm và âm vị zê rô) hoặc đồng
nhất về đặc trưng ngữ âm vang mũi (m, n, ng, nh), hoặc đồng nhất về đặc
trưng ngữ âm vô thanh (p, t, c).
Âm chính “là hạt nhân, là yếu tố quyết định âm sắc chủ yếu của âm
tiết cho nên âm chính cũng có vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập vần
thơ” [10, tr. 105]. Để góp phần vào sự hòa âm này, âm chính có một quy luật
phân bố chặt chẽ trong các vần thơ: các nguyên âm là âm chính của hai âm
tiết hiệp vần phải hoặc đồng nhất hoàn toàn, hoặc đồng nhất về một đặc trưng
nào đó (đặc trưng âm sắc trầm hoặc bổng), đặc trưng về âm lượng (nhỏ, lớn).
Ngoài ra, có những trường hợp âm chính không cùng dòng, cùng độ mở cũng
hiệp vần với nhau. Các âm tiết này hiệp vần nhờ là âm cuối giống nhau.
Phụ âm đầu và âm đệm đều có chức năng tạo nên sự khác biệt cho vần
thơ để tránh lặp vần. Thực tế, khi các âm tiết hiệp vần với nhau đã có sự hòa
âm, đắp đổi của âm chính, âm cuối và thanh điệu thì sự xuất hiện của bất kì
âm đầu nào trong âm tiết cũng không ảnh hưởng đến sự hòa âm. Từ đó, ta
thấy rõ một điều: “âm đầu có tham gia cùng với các thành phần khác để tạo

12


nên sự hòa âm nhưng vai trò của nó không đáng kể” [10, tr. l12]. Còn âm
đệm mức độ hòa âm rất thấp, có những khuôn vần mà sự có mặt của âm đệm
không ảnh hưởng đến sự phân loại của các vần thơ.
Như vậy, tất cả các yếu tố cấu tạo nên âm tiết Tiếng Việt đều tham gia
vào việc tạo nên sự khác biệt của vần thơ Việt Nam để tránh lặp vần. Trong

đó, thanh điệu, âm cuối, âm chính là những yếu tố quyết định âm hưởng
chung của toàn âm tiết và do đó quyết định đến sự hoà âm của các âm tiết
hiệp vần.
• Nhịp
Tiết tấu trong thơ ca là sự sáng tạo ra những khoảng cách tương tự về
mặt thời gian. Tiết tấu trong thơ chính là nhịp thơ. “Nhịp thơ là cái được nhận
thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chất chu kỳ, cách quãng hoặc luân
phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn
bản như câu thơ (dòng thơ), khổ thơ thậm chí cả đoạn thơ” [14, tr. 64]. Như
vậy, yếu tố quan trọng nhất tạo nên nhịp điệu chính là ở chỗ ngừng, chỗ ngắt
theo một cách thức nhất định khi phát âm.
Trong thơ có hai kiểu nhịp: Ngừng nhịp ở cuối dòng và ngừng nhịp ở
trong dòng thơ.
Nhịp thơ có tính mỹ học do con người sáng tạo ra để biểu hiện tư
tưởng, tình cảm con người. Do vậy, các trạng thái rung cảm, cảm xúc đều ảnh
hưởng đến việc lựa chọn nhịp của câu thơ, bài thơ. Nhịp trong thơ khác với
nhịp trong văn xuôi. V.Tinianop phân biệt rõ nhịp điệu văn xuôi và thơ:
“Trong văn xuôi (nhờ sự đồng thời của lời nói), thời gian được cảm thấy rõ,
hiển nhiên đó không phải là những tương quan về thời gian có thực giữa các
sự kiện mà chỉ là những tương quan có tính ước lệ. Trong thơ thì thời gian
không thể cảm giác được. Các tiểu tiết của chủ đề và những đơn vị lớn của
chủ đề được cân bằng bởi cấu trúc của thơ” [15, tr. 42]. Trong một bài thơ,

13


đơn vị để biểu diễn nhịp (ngắt nhịp) cơ bản nhất là câu thơ (dòng thơ). Vì
trong câu thơ tập trung mật độ dày đặc về cú pháp, về sự hòa âm... Trong mỗi
dòng thơ lại có cách ngắt nhịp phụ thuộc vào thể thơ. Từ nhịp chung của thể
thơ ấy, người sáng tác sẽ có những cách sử dụng linh hoạt, nhất là trong câu

thơ tự do, rõ nhất là loại thơ không vần.
Như vậy, cách tạo ngắt nhịp hết sức đa dạng, có nhiều kiểu, tùy câu,
tùy đoạn, tùy bài thơ, thể thơ. Nhịp trong thơ mang bản sắc của từng nhà thơ
trong việc chọn nhịp.
Người Việt ưa sự cân đối hài hòa, do vậy trong các thể thơ truyền
thống, cách luật, nhịp chẵn thường chiếm ưu thế (ví dụ như thơ lục bát), sự
xuất hiện nhịp lẻ cũng là nhịp lẻ cân đối (trong câu có tiểu đối), sau đó mới
đến nhịp lẻ độc lập. Còn trong thơ tự do, khi những câu thơ gần với văn xuôi,
không có vần thì lúc ấy nhịp nổi lên, vai trò của nhịp đã tạo được sự ngân
vang rất lớn cho thơ. Bản thân nhịp nhiều lúc cũng chứa nội dung trong đó:
“Nhịp chẵn gợi lên sự hài hòa, bình yên, tĩnh lặng, nhịp lẻ thường báo hiệu
những tai ương, mắc mớ, uẩn khúc…” [21, tr. 10]. Đến đây, ta có thể thấy rõ
nhịp chính là năng lượng cơ bản, là xương sống của bài thơ.
Vần và nhịp là những đơn vị ngữ âm quan trọng của ngôn ngữ thơ. Vần
và nhịp nếu đặt đúng chỗ thì mang nghĩa. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ,
tương hỗ lẫn nhau, bổ sung cho nhau: sự ngắt nhịp là tiền đề cho hiện tượng
gieo vần, nhịp nâng cao hiệu quả hòa âm của vần, một chiều khác, chính vần
cũng có tác động trở lại nhịp. “Sự tác động này được biểu hiện khi có sự hỗ
trợ của vần thì chỗ ngừng chỗ ngắt trở lên rõ ràng hơn, lâu và đậm hơn, vần
có khả năng nhấn mạnh sự ngừng nhịp” [10, tr. 36], đặc biệt hơn trong thơ tự
do thì “vần trở thành một tiêu chí rất quan trọng giúp người ta ngừng nhịp
đúng chỗ” [10, tr. 42].

14


Tóm lại, đặc trưng rất nổi bật của ngôn ngữ thơ ca là sự tổ chức âm
thanh một cách hài hòa, có quy luật của chúng. Vần và nhịp là hai yếu tố làm
nên đặc trưng đó đồng thời nó có vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính
nhạc cho thơ, để thơ ca có khả năng biểu đạt tinh tế những rung cảm, cảm xúc

của tâm hồn mà bản thân nghĩa của từ không thể diễn đạt hết được. Hơn nữa,
“nhạc tính của một thi phẩm càng giàu, tức những tham số thanh lọc của
ngôn ngữ càng có độ tin cậy cao, thì hiệu quả lưu giữ truyền đạt của thi phẩm
càng lớn, sức sinh tồn của nó càng mạnh” [5, tr. 152].
1.2.2.2. Về ngữ nghĩa
Ngôn ng÷ thơ ca trước hết là một thứ ngôn ngữ được trau chuốt, tinh
luyện từ ngôn ngữ “nguyên liệu” - lời nói hàng ngày. Do vậy, ngữ nghĩa
trong thơ ca không hoàn toàn đồng nhất với ngữ nghĩa của ngôn ngữ trong
giao tiếp thông thường và nó còn khác với cả ngữ nghĩa trong văn xuôi. Mỗi
từ khi đưa vào thơ đều trải qua sự lựa chọn của tác giả. Những từ ấy hoạt
động rất đa dạng, linh hoạt, biến hóa để đạt được tham vọng với diện tích
ngôn ngữ nhỏ nhất có thể chiếm lĩnh cả thế giới. Trong văn xuôi không hạn
chế về số lượng ngôn từ, câu ch÷, còn trong thơ, tùy thuộc vào từng thể loại
mà có những cấu trúc nhất định. Dưới áp lực của cấu trúc, ngữ nghĩa của
ngôn từ trong thơ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen, nghĩa gốc mà còn
mang những ý nghĩa mới tinh tế, đa dạng hơn nhiều. Nó vừa phải đảm bảo
tính chính xác, tính hình tượng vừa có tính truyền cảm để phát huy được hiệu
quả nghệ thuật cao nhất Như tác giả Mã Giang Lân đã nhận xét: “Một trong
những nét độc ®¸o của hoạt động sáng tạo thơ ca là việc bố trí chữ, tạo
nghĩa mới cho chữ. Cùng một chữ Êy nằm trên một trục hình tuyến ngôn ngữ
nhưng lại biểu hiện nhiều chiều của nghĩa. Ở đây không chứa đựng với tư
cách là từ đồng nghĩa mà là từ đa nghĩa. Chính từ đa nghĩa tạo nên độ sâu
cảm xúc của thơ, tạo nên các tầng nghĩa và sự biến hóa linh hoạt của câu

15


thơ, hình ảnh thơ, hình tượng thơ” [34, tr. 21]. Do vậy, ngữ nghĩa trong thơ
phong phú hơn nhiều so với ngữ nghĩa trong giao tiếp đời thường và trong
văn xuôi.

Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ giàu sức khơi gợi, từ ngữ trong thơ không
chỉ gọi tên sự vật, hiện tượng mà còn gợi ra nhiều liên tưởng, tưởng tượng
trong tư duy người tiếp nhận. Họ không chỉ tìm thấy ở từ ngữ và cấu trúc
ngôn ngữ thơ những thông tin “vÎ mặt” mà còn tìm thấy cả những “trầm
tích” ngữ nghĩa của câu chữ. Lúc này, ngôn ngữ thơ đã đạt đến độ hàm súc
“ý tại ngôn ngoại”.Và người đọc có thể đồng sáng tạo cùng với người nghệ
sĩ để tìm hiểu đến tận cùng sức mạnh biểu đạt của ngôn ngữ thơ. Đó chính là
điều cốt tử của thơ. Hiểu như vậy, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ thơ trở thành
một thứ gì đã chưa từng được nói hoặc chưa từng được nghe. Và trong quá
trình vận động của ngôn ngữ thơ ca cái biểu hiện và cái được biểu hiện luôn
xâm nhập và chuyển hóa vào nhau tạo ra cái khoảng không ngữ nghĩa vô
cùng cho ngôn ngữ thơ. Chính đặc trưng ngữ nghĩa này tạo nên sức hấp dẫn
kì lạ cho ngôn ngữ thơ. Nó đòi hỏi người đọc đến với thơ bằng cả tâm hồn
mình để có thể cùng “vào mã” với người nghệ sĩ ®Ó “giải mã” những líp
ngữ nghĩa tiềm tàng trong từng câu chữ.
Như đã nói ở trên, thơ là ý tại ngôn ngoại, thơ có thể nói được những
điều hết sức lắng đọng, kết tinh mà nhiều khi văn xuôi không nói được. “Điều
kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công
dụng gọi tên sự vật, bỗng dưng tự phá tung, mở rộng ra, gọi đến xung quanh
nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, toả ra xung quanh nó vùng
ánh sáng động đậy...” (Nguyễn Đình Thi). Ưu thế của thơ trước hết là ở chỗ
này. Có những ý nếu nói ra bằng văn xuôi thì dường như vô nghĩa nhưng
trong lời thơ nó lại có sức khêu gợi rất lớn. Ví như từ “vũng” trong câu thơ
của Nguyễn đình Thi là như vậy:

16


Buổi chiều ứa máu
Ngổn ngang những vũng bom.

“Vũng bom” chứ không phải “hố bom”. Trong “vũng” có nét nghĩa
thường trực “có nước” mà từ “hố” không nhất thiết phải có. Chính nét nghĩa
"có nước" này tạo nên sự cộng hưởng giữa từ “vũng” và từ “máu” trong câu
đi trước. Sự cộng hưởng đó dẫn đến một hình tượng liên tưởng có sức tố cáo
mạnh mẽ: những vũng bom đạn Mĩ đã trút xuống làng quê ta chính là những
vũng máu.
Qua ví dụ trên, ta thấy nhờ cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt, thơ có thể nói
được những điều lắng đọng, kết tinh, có sức khêu gợi lớn. Đó cũng là đặc
trưng rõ rệt của thơ.
Các nhà thơ xưa nay vẫn thường hay nói đến sự kết tinh, chất chứa của
lời thơ, của hình tượng thơ và lao động nghệ thuật của các nhà thơ xưa nay
cũng thường là sự phấn đấu nhằm đạt cho được điều đó. Trong kho tàng ngôn
ngữ vô cùng phong phú của toàn dân, nhà thơ hay nhà văn lựa chọn những từ
ngữ cần thiết nhất để đưa vào tác phẩm. Đó là quá trình khổ luyện, tìm tòi,
tích lũy vốn sống... mới có được những chữ “thần” để có thể “lóe sáng” lên
ở câu thơ, câu văn làm cho tác phẩm “nổi gió”, “cất cánh”. Nhà thơ Nga
Mai-a-côp-ski đã viết:
Phải phí tổn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.
Chính đặc trưng ngữ nghĩa này tạo nên sức hập dẫn kì lạ cho ngôn ngữ
thơ. Nó đòi hỏi người đọc đến với thơ bằng cả tâm hồn hình để có thể “đồng

17


sáng tạo”, cùng “vào mã” với người nghệ sĩ để “giải mã” những lớp ngữ
nghĩa ẩn trong từng câu chữ.
1.1.2.3. Về ngữ pháp

Cũng như phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa, phương diện ngữ pháp của
ngôn ngữ thơ cũng mang nét khác biệt với văn xuôi. Điều khác biệt trước tiên
thể hiện ở sự phân chia dòng thơ. Dòng thơ có khi còn được gọi là câu thơ,
nhưng trên thực tế dòng thơ không hoàn toàn trùng khớp với câu thơ xét về
cú pháp. Dòng thơ có thể nhỏ hơn hoặc bằng, thậm chí lớn h¬n câu thơ và
ngược lại. Nghĩa là có những câu thơ bao gồm nhiều dòng thơ, có những
dòng thơ lại bao gồm nhiều câu.
Cách lựa chọn từ ngữ nhiều lúc không theo trật tự bình thường, các
thành phần trong dòng thơ trong câu thơ thường bị đảo lộn. Về cấu trúc cú
pháp của câu thơ, Nguyễn Lai đã nhận xét: “Cấu trúc có pháp của câu thơ
thường khó phân tích theo nguyên tắc logic của ngữ pháp thông thường trong
văn xuôi” [31, tr.129] vì cấu trúc của ngôn ngữ thơ thường không bị ràng
buộc bởi các quy định chặt chẽ như câu trong văn xuôi và trong ngữ pháp
thông dụng. Người nghệ sĩ với những ý đồ nghệ thuật riêng của mình, có thể
sáng tạo và sử dụng các kiểu câu có cấu trúc “bất quy tắc”. Đó là những câu
“chệch” ra khỏi quỹ đạo của trật tự tuyến tính thông thường mà các đơn vị
ngôn ngữ luôn phải tuân thủ, bao gồm câu đảo ngữ, câu tỉnh lược, câu tách
biệt, câu trùng điệp, câu vắt dòng, câu có sự kết hợp bất thường về nghĩa.
Ngoài ra còn có cách liên kết từ mang tính “lạ hóa” tạo nên những tác động
mạnh mẽ và những gợi mở phong phú trong lời thơ. Việc sử dụng phổ biến
các kết cấu này không làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận ngữ nghĩa của
văn bản thơ. Ngược lại, chính điều đó tạo ra, đem lại những giá trị mới, ý
nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca, đem hết khả năng vô tận của ngôn ngữ thơ
trong việc chở tải những trạng thái tinh tế, bí ẩn của thế giới và tâm hồn con

18


người, làm nên sức ám ảnh của thơ.
Có thể nói, ngữ pháp thơ ca là loại ngữ pháp đặc biệt độc đáo, đầy ma

lực đối với con người. Khám phá ngữ pháp thơ ca là con đường ngắn nhất để
chúng ta tìm ra được phong cách riêng của mỗi nhà thơ, tìm ra được những
dấu ấn sáng tạo mang tính cá nhân của người nghệ sĩ.
Có thể dẫn ra đây ý kiến của Mã Giang Lân: “Thơ trước hết là ngôn
ngữ với màu sắc âm thanh, nhịp điệu, với những cấu trúc đặc biệt. Mỗi chữ
đứng riêng có ý nghĩa riêng, nh-ng trong trường hợp khác, trong những cấu
trúc khác sẽ có những ý nghĩa khác. Mçi chữ mçi từ không chỉ là xác mà là
hồn, là độ sâu ngữ nghĩa, độ sâu của ngân vang, của cảm quan nghệ thuật”
[34, tr.149]. Quả đúng như vậy, qua ba đặc trưng về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, ta thấy ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, nó là sản
phẩm thể hiện tài năng, sự sáng tạo mang phong cách riêng của từng nhà thơ.
1.2. Giới thiệu sơ lược về thơ Lai Châu đương đại và tác giả Đỗ Thị Tấc
1.2.1. Giới thiệu sơ lược về thơ Lai Châu đương đại
Lai Châu là tỉnh miền núi biên giới có nhiều thành phần dân tộc, có
truyền thống lịch sử và văn hoá phong phú, độc đáo. Đó cũng là mảnh đất
“màu mỡ”, là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận cho các nghệ sĩ. Đồng thời
cũng đặt ra nhiệm vụ cho các nhà văn, nhà thơ sáng tác, sưu tầm, phổ biến,
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá trên địa bàn, góp phần vào sự nghiệp
xây dựng và phát triển tỉnh Lai Châu giàu đẹp, văn minh.
Sau khi tỉnh Lai Châu được chia tách thành hai tỉnh Điện Biên và Lai
Châu, trên địa bàn tỉnh Lai Châu mới có 42 văn nghệ sĩ, thuộc các chuyên
ngành: Hội hoạ, âm nhạc, nhiếp ảnh, văn thơ, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá,
văn nghệ dân gian. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 02 Chi hội Văn học - Nghệ
thuật ở hai huyện Tam Đường và Sìn Hồ, Chi hội Văn học - Nghệ thuật Tam
Đường có 15 hội viên, trong đó có 04 hội viên đồng thời là hội viên Hội văn

19


học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam và 03 hội viên Hội văn nghệ

dân gian Việt Nam.
Thông qua các cuộc thi sáng tác, trại bồi dưỡng nghiệp vụ, Hội đã phát
hiện, kết nạp thêm 20 hội viên, nâng số hội viên của Hội văn học nghệ thuật
tỉnh năm 2005 lên đến 60 người và thành lập được các chi hội chuyên ngành
như:
+ Chi hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
+ Chi hội văn nghệ dân gian.
+ Chi hội nhiếp ảnh...
Về chất lượng, phần lớn các nghệ nhân, các hội viên biểu diễn, hội viên
sưu tầm, nghiên cứu văn hoá dân gian, hội viên sáng tác (văn, thơ), hội viên
nhiếp ảnh gia đều có tác phẩm đoạt giải của quốc gia, khu vực và chuyên
ngành được tổ chức hành năm. Đội ngũ văn nghệ sĩ trong tỉnh không ngừng
trưởng thành về mọi mặt, nâng cao được bản lĩnh chính trị, phát huy khả năng
nghề nghiệp... Có được những thành quả đó là nhờ sự quan tâm, động viên,
chăm lo về vật chất và tinh thần của các cấp lãnh đạo đối với Hội văn học
nghệ thuật tỉnh nhà. Đặc biệt là thái độ làm việc tâm huyết, nhiệt tình, miệt
mài sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Các anh, các chị đã thường xuyên có mặt
trên các địa bàn biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặt biệt khó khăn để “3
cùng” với nhân dân.
Một trong những thành tựu tiêu biểu của phong trào sáng tác Văn học
Nghệ thuật tỉnh Lai Châu không thể không nhắc đến thành tựu sáng tác thơ.
Từ khi ra đời đến nay, phong trào sáng tác thơ ở Lai Châu khá mạnh, trên 10
tập thơ được xuất bản và công bố. Trên 100 bài thơ được đăng trên các tạp chí
trung ương và địa phương của các tác giả đã minh chứng cho điều đó. Tuy
chưa có tác phẩm, tác giả nổi bật, chưa có sự bứt phá rõ nét trong đội ngũ hơn
20 tác giả thơ của tỉnh, nhưng thơ Lai Châu đang chuyển từng bước từ chỗ

20



×