Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Luận văn giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.55 KB, 140 trang )

Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kì một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể
hiện quyền lực của Nhà nước và là nguồn tài chính chủ yếu. Với xu thế
nhất thể hóa các khu vực và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so
sánh của mỗi quốc gia nói riêng và khu vực nói chung, đã đặt các nhà
hoạch định chính sách kinh tế, tài chính trước những thách thức lớn lao đòi
hỏi phải cải cách toàn diện.
Nghị Quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định “Áp dụng thuế thu nhập
cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm
công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ…
Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng
đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Cụ thể hoá Nghị quyết đại hội
Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010,
trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng
tỷ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở
rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. Việc ban hành
kịp thời Luật này là góp phần thể chế hoá chính sách thuế của Đảng.
Để đạt được mục tiêu gia nhập vào WTO, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, tất cả các chính sách thuế hiện hành đều đã được thay đổi
theo hướng giảm nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn từ năm 2000 đến nay, thuế
chuyển quyền sử dụng đất được giảm tới 25 lần, thuế trước bạ giảm 50%.
Hiện nay ngành thuế cũng đã xóa bỏ trên 300 loại phí không cần thiết, một
số loại như phí đường bộ, hàng hải.. giảm tới 30%-40%. Theo tính toán ban
đầu, khi cắt giảm các loại thuế và chi phí này, Nhà nước bị thất thu trên
1.000 tỷ đồng. Hiện ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào 3 khoản thu chủ


GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 1

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

yếu gồm xuất nhập khẩu chiếm 25% ngân sách, tương đương khoảng
60.000 tỷ đồng mỗi năm. Số thu từ xuất khẩu dầu thô cũng vào khoảng
25%. Như vậy còn khoảng 50% ngân sách Nhà nước là các khoản thu nội
địa, nhưng khoản thu nội địa này cũng đang một ngày giảm do chính sách
thuế liên tục được thay đổi để thực hiện theo cam kết. Tính đến thời điểm
này đã có tới trên 1.000 dòng thuế được cắt giảm. Chính vì thế để bù đắp
cho sự giảm sút này Chính phủ cần quan tâm hơn đến thuế trực thu. Tuy
nhiên, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên giảm dần tới mức
tương ứng với các nước trong khu vực nhằm khuyến khích hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vì vậy, chính phủ đã có những biện pháp đối với thuế
TNCN nhằm tạo thêm nguồn thu cho ngân sách từ loại thuế này.
Ở nước ta hiện nay, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói
riêng còn nhiều hạn chế kể từ việc ban hành pháp luật thuế đến tổ chức
thực hiện cũng như thanh tra thuế. Nếu như chúng ta không sớm khắc phục
những hạn chế này thì mục tiêu đặt ra khi ban hành luật sẽ gặp phải rất
nhiều bất lợi. Chính vì thế, công tác quản lý TNCN ở Việt Nam cần phải
được hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu trong xu thế hội nhập và phát
triển nhanh chóng hiện nay.
Xuất phát từ thực tế trên của Việt Nam, trên giác độ quản lý để góp
phần đẩy mạnh công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, nhằm chống lại nạn
thất thu thuế thu nhập cá nhân và tăng ngân sách nhà nước, đó cũng chính

lá lí do mà em chọn làm nghiên cứu đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công
tác quản lí thuế thu nhập cá nhân” để viết luận văn tốt nghiệp cuối khóa
của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Với mục tiêu khái quát lại các vấn đề liên quan đến thuế TNCN mà em
đã được học, cũng như tìm thêm công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam trong những năm qua, những khó khăn, tồn tại chủ quan lẫn

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 2

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

khách quan mà các cơ quan quản lí thuế gặp phải, qua đó có một số đề xuất
nhằm tìm ra những tồn tại và nguyên nhân trong công tác quản lí hiện nay
đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí. Hy vọng qua
bài viết này, giúp người đọc hiểu thêm về thuế TNCN cũng như công tác
quản lí thuế TNCN ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đầu tiên người viết sẽ nên lên khái quát chung về thuế thu nhập cá
nhân, từ đó đi sâu nghiên cứu vào thực trạng trong công tác quản lí thuế thu
nhập cá nhân từ khi luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng chủ yếu là phương pháp
phân tích và tổng hợp, các phương pháp định tính, định lượng, các công cụ
thống kê, và sưu tầm các tài liệu liên quan.

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục đề tài tham khảo, và
phụ lục, những nội dung chính của đề tài được trình bài trong ba chương:
* Chương I: Những vấn đề chung về thuế thu nhập cá nhân và công
tác quản lý về thuế thu nhập cá nhân.
* Chương II: Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
* Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
thuế thu nhập cá nhân ở nước ta.
Để hoàn thành được luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ hết sức
tận tình của cô Ts.Lê Nguyệt Châu. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Cô, đã hướng dẫn em trong thời gian qua.
Do thời gian và vốn kiến thức còn nhiều hạn hẹp nên chắc chắn không
thể tránh được những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến từ quý
thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn!

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 3

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ
CÔNG TÁC QUẢN LÍ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu


Trang 4

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra
đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội
xuất hiện sản phẩm thặng dư cùng với sự phân chia giai cấp, Thuế được
giai cấp thống trị dùng như một công cụ để tạo ra nguồn thu chủ yếu cho
mọi nhu cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước nói chung hay của giai cấp
thống trị nói riêng. Vì thế, Thuế được xem như một phạm trù vừa có tính
lịch sử vừa là một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của Nhà nước trong
quá trình tồn tại và phát triển của mình. Giai cấp thống trị- vua chúa sử
dụng thuế như một công cụ kinh tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu
cho ngân sách Nhà nước, qua tiến trình tiến triển của lịch sử, hiện nay thuế
vẫn được sử dụng với đúng mụch đích của nó nhưng bản chất của Thuế ở
các nước lại không giống nhau, nó tùy thộc vào bản chất Nhà nước và cách
thức sử dụng nguồn thu từ thuế. Do đó, cũng tồn tại nhiều khái niệm khác
nhau về thuế do quan điểm về Thuế ở các nước khác nhau như:
Thuế là một khoản thu của nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên
trong xã hội, Thuế là khoản thu có tính bắt buộc và không hoàn trả trực
tiếp theo luật định.
Marx viết(1) “Thuế là cở sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn
giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc
chi tiêu của nhà nước".
Các nhà nguyên cứu kinh tế khác cho rằng(2) “Thuế là hình thức phân phối

thu nhập tài chính của Nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào
quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một
cách cưỡng chế và không hoàn lại”.

(1)

Nguồn: Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện hành, Tác giả- Pts Nguyễn Thị Kim Tuyển, Pts Phan
Mỹ Hạnh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998.( từ trang 267-305).
(2)
Nguồn: Phát biểu của chủ tịch ủy ban Thuế của chính phủ Nhật bản, trên www.vibonline.com.vn

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 5

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về Thuế khác nhau nhưng chúng ta cũng
nhận thấy những điểm tương đồng sau: Thuế là khoản thu mang tính bắt
buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có những điều
kiện nhất định. Thuế mang tính bắt buộc và không mang tính hoàn trả trực
tiếp, ngang giá. Một phần thuế nộp vào ngân sách Nhà nước được trả về
với người dân một cách gián tiếp dưới nhiều hình thức khác nhau như trợ
cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ tiêu dùng khác.
Trên cơ sở nhưng khái niệm về Thuế, chúng ta có thể rút ra khái niệm về
thuế TNCN theo pháp luật hiện hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại
thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá nhân nhằm thực hiện công bằng xã

hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân sách nhà nước và
có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến
khích làm việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối
với các khoảng thu nhập từ kinh doanh, đầu tư,… (3). Thuế này được coi là
loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá nhân có thu nhập
phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn
trừ đặc biệt.
Thuế TNCN đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó
là Anh Quốc vào năm 1799. Lúc đầu Anh Quốc đưa vào thực hiện như một
hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh
chống Pháp và được chính thức áp dụng vào năm 1942, một số nước tư bản
phát triển khác cũng áp dụng thuế này như Ðức (1899), Hoa Kỳ (1903),
Pháp (1916). Các nước Châu Á như: Thái Lan áp dụng năm 1939, Philipin
năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, In-đô-nê-xia năm 1949, Trung quốc năm
1984; Những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như Rumani
năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1992...

(3)

Giáo trình luật tài chính 2, Ts Lê Nguyệt châu, tr. 22

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 6

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân


Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 180 nước áp dụng thuế TNCN. Ưu
điểm của cách này là đơn giản, dễ thực hiện, đảm bảo thu kịp thời vào ngân
sách Nhà nước. Nhưng có nhược điểm là chưa đảm bảo yêu cầu phân phối
lại thu nhập quốc dân qua thuế sao cho có hiệu quả, đáp ứng được sự công
bằng xã hội và nhất là đối với những cá nhân có nhiều người phụ thuộc.
1.1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
- Thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá
nhân. Do là thuế trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp
thuế theo luật và đối tượng chịu thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người nộp thuế
cũng là người chịu thuế, người chịu thuế TNCN không có khả năng chuyển
giao gánh nặng thuế sang cho các đối tượng khác tại thời điểm đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập
của cá nhân thuộc diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn
gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài.
Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những
người có thu nhập, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những
người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có
số ngày có mặt, làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật
thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên
tắc theo luật định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với
quyền lực, sức mạnh của Nhà nước.
- Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho
người nộp. Nó vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người
nộp thuế phải trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung
cấp.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu


Trang 7

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

- Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết
các quốc gia đều gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội
khác (như phúc lợi công cộng, chăm sóc sức khỏe…).
Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập
bao gồm: công dân nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên
hay không thường xuyên tại nước đó và hầu như tất cả số thu nhập có được
của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập phát sinh
trong nước hay ngoài nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân
sách của thuế TNCN rất cao.
Việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy
tiến từng phần. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN
là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã
hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu
cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng
cao.
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các
loại thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo
những biến đổi về cơ cấu kinh tế.
1.1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến
đổi lớn của điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc ban hành
Luật thuế TNCN ở nước ta là hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng về
nhiều mặt. Là một bộ phận của hệ thống thuế nên thuế TNCN vừa mang

vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại
thuế khác không có được.
1.1.3.1 Đối với nền kinh tế- xã hội
* Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 8

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói
chung nên cũng góp một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà
nước. Thuế TNCN được tính với diện rộng, khả năng tạo nguồn thu cho
ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực tiếp vào thu nhập
của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và
cố gắng có thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh thần.
Thuế TNCN luôn có sự gia tăng nhanh chóng cùng với sự tăng lên của thu
nhập bình quân đầu người.
* Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Trong mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào
các yếu tố như khả năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu
về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các yếu tố nói trên của mỗi cá nhân
thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về thu nhập của mỗi
người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo,
là sự bất bình đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã
dùng nhiều hình thức và biện pháp khác nhau trong đó thuế TNCN được

xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của những người
có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.
* Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát
thu nhập của các tầng lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội và quản lý,
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu nhập dân cư, nhà nước phải sử
dụng đồng thời cả hai cơ chế quản lý quỹ tiền lương, tiền công, chế độ báo
cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN, tuy ban
đầu có thể chưa chính xác, nhưng sẽ là căn cứ để thống kê thu nhập dân cư
phục vụ chương trình mục tiêu nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách
phát triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp chế xã hội được nâng
lên.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 9

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Thông qua các cơ chế và công cụ quản lý đó mà nhà nước sẽ có giải
pháp tăng cường hoặc giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư
làm cho tổng cầu xã hội giảm hoặc tăng, từ đó có tác dụng co hẹp hay kích
thích kinh tế phát triển. Đó chính là vai trò quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh
tế mà chính sách thuế thu nhập cá nhân góp phần tác dụng đáng kể.
* Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận
được từ việc thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng

những kẽ hở của pháp luật mà nhà nước không kiểm soát được như tham ô,
nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của nhà nước và công dân... Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu
đến đời sống kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu
nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại những hành vi trên, một trong
số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế TNCN.
1.1.3.2 Đối với hệ thống thuế
* Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt
đều có nhược điểm là có tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo
nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một lượng hàng hoá mọi người
không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu tính thuế
thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến từng phần sẽ góp phần khắc
phục được nhược điểm này
* Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và
thuế TNCN Giữa hai loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với
nhau. Thuế TNCN còn góp phần khắc phục sự thất thu thuế thu nhập doanh
nghiệp khi có sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp
với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 10

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân


chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm thu nhập tính thuế của doanh
nghiệp hòng trốn thuế thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận được
những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế thu nhập cá nhân đối với
phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh
nghiệp tăng thường kéo theo sự tăng lên của thuế TNCN và thuế thu nhập
doanh nghiệp.
* Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
Xây dựng và phát triển, hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần
hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
và hội nhập với kinh tế thế giới. Việc ban hành Luật thuế TNCN là bước
thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về lĩnh vực tài chính tiền tệ
đồng thời là bước đi phù hợp lộ trình cải cách thuế theo mục tiêu chiến
lược Chính phủ đã hoạch định.
Nhận thức đúng vai trò vị trí hiện tại cũng như hướng phát triển hoàn
chỉnh của chính sách thuế TNCN, quán triệt đầy đủ nội dung yêu cầu của
Luật thuế thu nhập cá nhân mới ban hành để tuyên truyền, giáo dục pháp
luật thuế, vận động toàn dân hiểu biết, chấp hành là nghĩa vụ và trách
nhiệm của các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, công dân
theo quy định của Luật Quản lý thuế, ban hành ngày 29/11/2006.
Tóm lại, Thuế TNCN đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, ngày càng trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách
nhà nước. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu, song thực hiện phát triển
chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là là việc
tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng
với xu hướng tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu
nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn thì khả năng huy động nguồn thu
cho ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập cá nhân sẽ ngày càng tăng
và sẽ ngày một dồi dào. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu


Trang 11

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

nhiều hạn chế nên những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở
những nước chậm phát triển.
1.1.4. Giới thiệu khái quát về Luật thuế thu nhập cá nhân
Ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income
earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Ðể cho phù hợp
với tình hình thực tế của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, từ đó đến nay đã có 05 lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai
vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày
30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001 (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2001).
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau
gần một năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày
20/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt nam
khoá XII đã thông qua Luật thuế TNCN. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành
từ 1/1/2009, gồm 35 điều 4 chương, là một văn bản luật được soạn thảo
“công phu” nhất từ trước đến nay, phản ánh khá đầy đủ ý chí, nguyện vọng
của nhân dân với nhiều điểm mới so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao (gồm 34 điều 8 chương) và phù hợp hơn với điều
kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay như:
Quy định cụ thể về đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh đang nộp

thuế thu nhập doanh nghiệp, cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng
đất, cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số thu nhập theo
Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành sẽ được
điều chỉnh theo Luật thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, có bổ sung thêm với
đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển
nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng. Sự thay

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 12

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là
cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều
được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế TNCN. Thêm vào đó, việc điều
tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế TNCN thực hiện theo
phương pháp luỹ tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều
này rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy
định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất chung
bằng với các doanh nghiệp (thông thường là những đơn vị kinh doanh có
quy mô lớn).
Về đối tượng nộp thuế, còn một điểm mới nữa là việc định nghĩa rõ
hơn đối tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế TNCN cho Việt Nam đối với
toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu
như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183
ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi

đến Việt Nam thì Luật thuế TNCN đã bổ sung thêm một điều kiện nữa
được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là “cá nhân có nơi ở thường xuyên tại
Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại
Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn”(4). Quy định như vậy làm cho
việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết các đối
tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập
được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường
xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập
thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực
tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn. Đồng thời, việc tính thuế đối với
từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật
thuế thu nhập cá nhân đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại
(4)

Luật thuế thu nhập cá nhân,ngày 01 tháng 01 năm 2009, điều 2 điểm b

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 13

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu
thuế bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công;
thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng
bất động sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập

từ bản quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng
quyền thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu
nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai
hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng
biểu thuế suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp
dụng biểu thuế luỹ tiến toàn phần.
Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi
là thu nhập không chịu thuế) được quy định trong Luật thuế TNCN gồm:
thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là
chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài
sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà ở, đất ở duy nhất được miễn
thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng
và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng
thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị
đánh thuế khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng cho một hợp
đồng hoặc một lần phát sinh). Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển
nhượng, kế thừa, quà tặng, có một quy định đáng chú ý là Luật thuế thu
nhập cá nhân quy định miễn thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng, thừa
kế, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con
đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể;
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em
ruột với nhau. Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như
thu nhập từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 14

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm



Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

tư vốn dưới các hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm
cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi
tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và các tổ chức tín
dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế thu nhập
cá nhân. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu hút khoản tiền nhàn rỗi
nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn của nền
kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu
quả mọi đồn vốn của xã hội.
Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế TNCN
đã bổ sung các khoản thu nhập sau vào diện miễn thuế từ thu nhập như thu
nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương
làm việc ban ngày, làm việc trong giờ; lương hưu; tiền thưởng cho cá nhân
về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi
phạm pháp luật; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức
trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ
thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép
thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm
mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Đối với khoản
đóng góp từ thiện nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế
nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ
kinh doanh; không áp dụng đối với cá khoản thu nhập khác. Với quy định
này, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt
động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đây cũng chính là một khoản "chi tiêu
qua thuế" của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về
ngân sách Nhà nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng

khoản đóng góp từ thiện. Chẳng hạn như, một người có thu nhập từ kinh
doanh trước thuế của một năm 360 triệu đồng (thu nhập bình quân tháng 30

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 15

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

triệu đồng) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi đó,
10 triệu đồng này được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế. Với biểu thuế như
sẽ được trình bày dưới đây, số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này
giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu trong trường
hợp này, coi như Nhà nước đã sử dụng ngân sách góp vào quỹ ủng hộ đồng
bào bão lụt 2 triệu đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng.
Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi
của nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những
trường hợp gặp khó khăn và thể hiện chính sách khuyến khích của nhà
nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhằm
tăng cường lao động sản xuất…
Áp dụng giảm trừ gia cảnh cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu
đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ
nuôi dưỡng là 1.6 triệu đồng/tháng và mở rộng áp dụng đối với cá nhân có
thu nhập từ kinh doanh trước khi xác định nghĩa vụ thuế. Việc giảm trừ cho
người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được
tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Những người phụ thuộc
được giảm trừ khá rộng, bao gồm: con chưa thành niên, con đang học đại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả năng lao
động; các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng thấp
hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa mà người
nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ chồng, cô, dì, chú,
bác, cháu…). Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân
nhiều nhất, xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế
chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam
và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ
gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 16

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế
được công bằng hơn.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, áp dụng
chịu thuế theo thu nhập thường xuyên, tính thuế theo biểu thuế luỹ tiến
từng phần với bốn mức thuế suất, thấp nhất là 10% và cao nhất là 40%. Đối
với Luật thuế thu nhập cá nhân thì áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần áp
dụng cho thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công, mức thuế suất
thấp nhất còn 5% và mức thuế suất cao nhất là 35%, với số lượng bậc thuế
nâng lên thành bảy bậc áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người
nước ngoài (cụ thể như bảng 1)
Bậc


Thu nhập tính thuế/năm Thu nhập tính thuế/tháng Thuế suất

thuế (triệu đồng)
(triệu đồng)
1
Đến 60
Đến 5
2
Trên 60 đến 120
Trên 5 đến 10
3
Trên 120 đến 240
Trên 10 đến 20
4
Trên 240 đến 420
Trên 20 đến 35
5
Trên 420 đến 660
Trên 35 đến 55
6
Trên 660 đến 960
Trên 55 đến 80
7
Trên 960
Trên 80
Bảng 1 : Biểu thuế lũy tiến từng phần.

(%)
5

10
15
20
25
30
35

Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số
lượng bậc thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập
do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao
nhất và thấp nhất xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng
mức độ điều tiết cũng giảm đi, huy động sự đóng góp của nhiều người
nhưng với mức độ vừa phải. Mặc khác, việc giảm mức thuế suất cao nhất
sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản xuất,
kinh doanh; khuyến khích người dân làm giầu chính đáng.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 17

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Đối với các khoản thu nhập còn lại. Luật thuế thu nhập cá nhân quy
định biểu thuế luỹ tiến toàn phần (như bảng 2):
1
2
3

4
5

Loại thu nhập tính thuế
Thu nhập từ đầu tư vốn
Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại
Thu nhập từ trúng thưởng
Thu nhập từ thừa kế, quà tặng
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản

Thuế suất (%)
5
5
10
10
25

Trường hợp không xác định được thu nhập tính thuế

2

thì áp dụng thuế suất tính trên gía bán
6 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn
Đối với chuyển nhượng chứng khoán áp dụng thu

20
0.1

thuế theo từng phần
Bảng 2: Biểu thuế lũy tiến toàn phần.

Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp
dụng đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 0.1% đến 20%
tính trên toàn bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí).
Có thể nói, Luật thuế TNCN có rất nhiều điểm đổi mới phù hợp với thực
tiễn và khoa học so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao.
1.2 Khái quát về công tác quản lý thuế
1.2.1 Khái niệm về quản lý thuế thu nhập cá nhân
Trước hết ta tìm hiều về quản lý thì quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý một cách có tổ chức, có hướng đích nhằm đạt
mục tiêu đã đề ra.
Về phương thức tác động và hiệu lực thì quản lý dựa vào pháp luật và
các thể chế, quy chế, nguyên tắc, mô hình đã định trước.
Về nội dung chức năng, quản lý bao gồm các việc như xây dụng kế
hoạch xắp xếp tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 18

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Về phạm vi tác động và hình thức thể hiện: quản lý là một phạm trù
rộng, để tiến hành quản lý, chủ thể quản lý phải tiến hành đồng bộ rất nhiều
chức năng, trong đó có chức năng lãnh đạo.
Như vậy quản lý thuế TNCN là sự tác động có chủ đích của các cơ
quan chức năng trong bộ máy nhà nước đối với quá trình tính và thu thuế

thu nhập cá nhân, để thay đổi quá trình này nhằm tạo nguồn thu cho ngân
sách và đạt được các mục tiêu nhà nước đặt ra.
1.2.2 Nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Công tác quản lý thuế TNCN là một phần quan trọng của quản lý tài
chính Nhà nước, Công tác này cần được nhìn nhận ở tầm vĩ mô và phải bao
gồm toàn bộ các công việc thuộc các lĩnh vực lập pháp và hành pháp, tư
pháp về thuế TNCN. Nội dung của công tác quản lý thuế TNCN bao gồm :
1.2.2.1. Quản lý các đối tượng nộp thuế, tính thuế và các khoản
được khấu trừ theo quy định
a. Xác định đối tượng nộp thuế
Thuế TNCN thuộc loại thuế trực thu nên đối tượng chịu thuế cũng
đồng thời là đối tượng nộp thuế. Xác định đối tượng nộp thuế là một trong
những nội dung quan trọng của thuế TNCN, từ đó mới có thể vận dụng
cách tính thuế cho phù hợp. Khi tiến hành xác định đối tượng nộp thuế,
người ta thường dựa vào hai tiêu thức là “nơi cư trú” và “nguồn phát sinh
thu nhập”.
Theo tiêu thức “nơi cư trú", một cá nhân được xác định là cư trú ở một
nước phải nộp thuế tại đó đối với mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp nơi
trên thế giới, còn một cá nhân được xác định là không cư trú ở một nước
chỉ phải nộp thuế cho phần thu nhập phát sinh tại nước đó.
Theo tiêu thức “nguồn phát sinh thu nhập” lại quy định: một cá nhân
phải nộp thuế thu nhập cá nhân ở một nước đối với mọi khoản thu nhập của
cá nhân phát sinh tại nước đó.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 19

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm



Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

Hiện nay, đa số các nước tính thuế TNCN theo tiêu thức “nơi cư trú”.
Tuy nhiên, khái niệm thế nào là một cá nhân cư trú tại một nước lại được
định nghĩa khác nhau trong luật thuế TNCN của các nước. Rất có nhiều
nước quy định cá nhân cư trú là người định cư tại nước đó hoặc những
người đến nước đó không thường xuyên nhưng tổng số ngày ở tại nước đó
vượt quá 183 ngày trong một năm (năm dương lịch hay năm tài chính). Tuy
nhiên, một số nước lại đưa ra những định nghĩa về cá nhân cư trú cụ thể
hơn và có điểm khác với định nghĩa nêu trên.
Chẳng hạn như Nhật Bản đưa ra một định nghĩa tương đối phức tạp,
trong đó có 3 khái niệm khác nhau là cá nhân cư trú thường xuyên, cá nhân
cư trú không thường xuyên và cá nhân không cư trú. Cụ thể là :
+ Cá nhân cư trú thường xuyên là cá nhân định cư thường xuyên ở Nhật
Bản liên tục từ 1 đến 5 năm trở lên .
+ Cá nhân cư trú không thường xuyên là cá nhân không có ý định cư trú
thường xuyên tại Nhật nhưng có nơi thường trú ở Nhật từ 1 năm trở lên và
không được quá 5 năm .
+ Cá nhân không cư trú là cá nhân không có nơi định cư tại Nhật Bản và
sống tại Nhật Bản ít hơn 1 năm .
Các cá nhân nước ngoài đến Nhật Bản sẽ được coi là có nơi cư trú tại
Nhật Bản trừ khi các hợp đồng lao động hoặc các giấy tờ khác chỉ rõ rằng
họ sẽ ở lại Nhật Bản ít hơn một năm. Các cá nhân cư trú thường xuyên bị
tính thuế trên thu nhập từ mọi nguồn; các cá nhân cư trú không thường
xuyên bị tính thuế trên thu nhập có nguồn gốc từ nước ngoài nhưng được
trả tại Nhât Bản hoặc chuyển đến Nhật Bản. Các cá nhân không cư trú chỉ
phải nộp thuế đối với thu nhập có nguồn gốc từ Nhật Bản.(5)
Ở Trung Quốc quy định, một cá nhân đang cư trú trong biên giới của
Trung Quốc hoặc những người không cư trú, nhưng cuộc sống bên trong

(5)

/>
GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 20

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

biên giới của Trung Quốc cho không ít hơn một năm phải nộp thuế thu
nhập cá nhân trên bấc kỳ thu nhập thu được từ bên trong hay bên ngoài
biên giới Trung Quốc. Một cá nhân không phải là người cư trú cũng như
cuộc sống bên trong biên giới của Trung Quốc hoặc những người không cư
trú và sống bên trong biên giới ít hơn một năm phải nộp thuế thu nhập cá
nhân trên bất kỳ thu nhập thu được từ bên trong biên giới Trung Quốc.(6)
Luật thuế TNCN ở Việt Nam quy định, cá nhân bao gồm cá nhân cư
trú và không cư trú. Đối với cá nhân cư trú thì phải có mặt tại Việt Nam từ
183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng
liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam hoặc có nơi ở thường
xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có
nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn, có thu
nhập chịu thuế phát sinh bấc cứ trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam điều phải
nộp thuế còn cá nhân không cư trú thì không đáp ứng về điều kiện nêu trên
nhưng có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam cũng phải
nộp thuế.
Sự phân biệt cư trú hay không cư trú của một đối tượng nộp thuế là rất
quan trọng, để xác định đối tượng nộp thuế đó phải nộp thuế ở mức độ nào.

Như vậy, có thể thấy tùy vào chính sách và trình độ quản lý của từng nước
mà mỗi nước sẽ đưa ra các định nghĩa đối tượng nộp thuế sao cho phù hợp
với tình hình của mình.
b. Xác định đối tượng tính thuế
Việc xác định đối tượng tính thuế là một trong những nội dung quan
trọng hàng đầu được đề cập đến trong chính sách thuế thu nhập cá nhân tại
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Căn cứ vào đó, người ta có thể
thấy rằng loại thuế thu nhập cá nhân áp dụng có công bằng không, thuế này
(6)

/>personal_icm_tax_99.html

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 21

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

tạo được nguồn thu như thế nào cho ngân sách nước đó. Để tính được thuế
TNCN phải nộp, trước tiên phải xác định được những khoản thu nhập nào
là đối tượng chịu thuế, khoản thu nhập nào là đối tượng không chịu thuế và
tính toán thu nhập đó như thế nào. Sau đó, căn cứ vào một số quy định
khác trong chính sách thuế như các khoản miễn giảm, khấu trừ… cơ quan
thuế xác định được thu nhập tính thuế. Từ thu nhập tính thuế và thuế suất
sẽ xác định được thuế phải nộp, sao cho người nộp thuế chấp nhận và để
luật thuế có tính khả thi cao. Có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu kinh
tế, xã hội trong việc thu thuế TNCN.

Theo pháp luật thuế TNCN, để xác định đối tượng tính thuế đối với
người có thu nhập trước hết, chúng ta cần xác định một khái niệm cho thuật
ngữ “thu nhập”. Cho đến nay, hầu hết các đạo luật về thuế TNCN ở các
nước thường chỉ quy định những khoản thu nhập nào phải tính thuế. Tuy
nhiên, trên thực tế cũng tồn tại một số quan niệm về thu nhập như sau:
“Thu nhập là giá trị nhận được của một pháp nhân hay thể nhân nào đó
trong một khoảng thời gian nhất định không phân biệt nguồn gốc phát sinh.
Giá trị đó có thể được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay các giá trị vật
chất, phi vật chất nhưng có thước đo chung là tiền tệ”.(7)
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng TNCN là giá trị một cá nhân
kiếm được trong một khoảng thời gian (thường là một năm) sau khi đã
khấu trừ đi các chi phí để tạo ra thu nhập đó. Mặc dù luật thuế TNCN quy
định 10 nhóm thu nhập chịu thuế ta có thể chia thành hai nhóm: Thu nhập
thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
 Thu nhập thường xuyên: Được hiểu là các khoản thu nhập phát
sinh thường xuyên, có tính chất đều đặn và ổn định trong tháng, trong năm
và có thể dự tính được, bao gồm:
(7)

Theo bách khoa từ điển.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 22

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân


- Thu nhập từ kinh doanh: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ; Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân
có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công: Tiền lương, tiền công và các khoản
có tính chất tiền lương, tiền công; Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các
khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có
công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với
những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy
hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật, trợ
cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp
một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả
năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản
trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội;
Tiền thù lao dưới các hình thức; Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh
doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức;
Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc
không bằng tiền; Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các
danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng
quốc gia, giải thưởng quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế,
phát minh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng
về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
Trong đó thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập của từng
cá nhân, bình quân tháng trong năm nằm trong giới hạn phải nộp thuế do
biểu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao quy định.
 Thu nhập không thường xuyên: Là các khoản thu nhập phát sinh
theo từng lần, từng đợt riêng lẻ, không có tính chất đều đặn, nằm trong mức

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu


Trang 23

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

giới hạn phải nộp thuế thu nhập, được tính theo biểu thuế toàn phần bao
gồm: Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm: Tiền lãi cho vay; Lợi tức cổ phần;
Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái
phiếu Chính phủ.
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: Thu nhập từ chuyển nhượng
phần vốn trong các tổ chức kinh tế; Thu nhập từ chuyển nhượng chứng
khoán; Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
- Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: Thu nhập từ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Thu nhập từ
chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; Thu nhập từ chuyển
nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; Các khoản thu nhập khác nhận
được từ chuyển nhượng bất động sản.
- Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: Trúng thưởng xổ số; Trúng thưởng
trong các hình thức khuyến mại; Trúng thưởng trong các hình thức cá cược,
casino; Trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình
thức trúng thưởng khác.
- Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: Thu nhập từ chuyển giao, chuyển
quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; Thu nhập từ chuyển
giao công nghệ;
- Thu nhập từ nhượng quyền thương mại;
- Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu

hoặc đăng ký sử dụng;
- Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu
hoặc đăng ký sử dụng.
Từ những quan niệm trên, có thể nói rằng TNCN là giá trị một cá nhân
kiếm được trong một khoảng thời gian (thường là một năm) sau khi đã

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 24

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


Luận văn tốt nghiệp - Giải pháp hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân

khấu trừ đi các chi phí để tạo ra thu nhập đó. Tuy nhiên không phải nước
nào cũng đưa tất cả các nguồn thu nhập ở trên vào diện thu nhậo tính thuế.
c. Xác định các khoản khấu trừ để tính thuế
Một trong những nguyên tắc cơ bản khi tính thuế TNCN là đối tượng
tính thuế phải là thu nhập do người đóng thuế toàn quyền sử dụng theo quy
định của pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng tính thuế là thu
nhập đã khấu trừ đi các khoản chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập đó với
một số giới hạn nhất định. Tùy theo đặc điểm kinh tế – xã hội của mỗi quốc
gia mà người ta quy định những khoản khấu trừ phù hợp. Tuy nhiên, về cơ
bản có một nguyên tắc chung: Tất cả các chi phí trực tiếp liên quan đến
việc tạo ra thu nhập cá nhân đều được khấu trừ để xác định thu nhập thực
nhận được, sau đó trừ tiếp một số khoản mang tính chất xã - hội trước khi
tính thuế. Chẳn hạn như:
Thu nhập từ các hoạt động thương mại, công nghiệp, dịch vụ của các

hộ kinh doanh cá thể không thuộc diện tính thuế thu nhập doanh nghiệp
(các chi phí cần thiết và liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ để tạo ra thu nhập mà người nộp thuế đã thực hiện);
Thu nhập từ tiền lương, tiền công, hưu trí, trợ cấp xã hội và các khoản
tương tự (cho phép trừ ra khỏi thu nhập một mức nào đó gọi là chi phí nghề
nghiệp như: ca sĩ, nhà báo, nhạc công…);
Thu nhập từ lãi cổ phần, lãi cho vay, lãi tiền gửi (chi phí mua các
chứng khoán có giá);
Thu nhập từ thừa kế (theo quan hệ thừa kế là trực hệ, quan hệ vợ chồng
hay quan hệ khác);
Các khoản trả có tính chất lương như trợ cấp ốm đau, lương hưu, trợ
cấp tai nạn lao động, trợ cấp thất nghiệp… được chi trả từ quỹ bảo hiểm xã
hội do chúng là đối tượng của chính sách xã hội nên nhiêu nước không thu
thuế đối với các khoản thu nhập này.

GVHD: Ts. Lê Nguyệt Châu

Trang 25

SVTH: Thạch Huỳnh Liêm


×