Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đảng bộ huyện chương mỹ (hà nội) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

HOÀNG MAI PHƢƠNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN CHƢƠNG MỸ (HÀ NỘI) LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------------------

HOÀNG MAI PHƢƠNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN CHƢƠNG MỸ (HÀ NỘI) LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lưu Trần Luân



Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng
Tác giả

năm 2016

Hoàng Mai Phương


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới Tiến sĩ Lưu Trần Luân, người đã
tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn toàn thể thầy, giáo trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, thư viện trường, các thầy cô và các bạn
trong tập thể lớp cao học Lịch sử Đảng QH-2013 đã giúp đỡ em trong quá trình
thực hiện luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, nhân viên kho lưu trữ văn phòng
Huyện ủy, Văn phòng HĐND&UBND, Phòng Kinh tế… của huyện Chương Mỹ đã

tận tình giúp đỡ em trong quá trình khai thác và tìm kiếm tư liệu.
Em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ, động viên,
giúp đỡ em trong suốt quá trình em học tập, nghiên cứu và làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn
Tác giả

Hoàng Mai Phương


Mục lục
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................................ 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................................ 4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 7
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................... 8
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................................ 8
Chƣơng 1 ................................................................................................................................ 9
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI VỀ
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ........................................................................................ 9
1.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................................................... 9
1.1.1. Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới ...................................... 9
1.1.2. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong
thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2008)) ................................................................ 14
1.1.2.1. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ........ 14
1.1.2.2. Những thành tựu đạt được ................................................................................ 19
1.2. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng nông thôn mới ................................. 21
1.3. Chủ trƣơng của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về xây dựng nông thôn mới (2008 2014) ...................................................................................................................................... 25
Chƣơng 2 .............................................................................................................................. 30

QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ HUYỆN CHƢƠNG MỸ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2008 - 2014) ........................................................................... 30
2.1. Những yếu tố tác động đến chủ trƣơng xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ
huyện Chƣơng Mỹ ............................................................................................................... 30
2.1.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................................. 30
2.1.2. Điều kiện kinh tế ..................................................................................................... 31
2.1.3. Điều kiện văn hoá - xã hội ..................................................................................... 33
2.1.4. Nông thôn huyện Chương Mỹ trước năm 2008 .................................................... 35
2.2. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Chƣơng Mỹ về thực hiện xây dựng
nông thôn mới....................................................................................................................... 39
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Chương Mỹ về xây dựng nông thôn mới từ năm
2008 đến năm 2014 ........................................................................................................... 39
1


2.2.2. Công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương xây dựng nông thôn mới ............. 45
2.2.3. Kiện toàn bộ máy chỉ đạo và hình thành Đề án xây dựng nông thôn mới ............. 47
2.2.4. Công tác xây dựng, ban hành văn bản, kiểm tra và giám sát việc thực hiện văn
bản chỉ đạo ........................................................................................................................ 49
2.3. Kết quả quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới .............................. 55
2.3.1. Công tác lập quy hoạch, đề án ............................................................................... 55
2.3.2. Phát triển kinh tế nông thôn .................................................................................. 60
2.3.3. Về phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn ......................................... 63
2.3.4. Về phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường sinh thái khu vực nông
thôn .................................................................................................................................... 65
2.3.5. Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh trật tự ...................... 66
2.3.6. Nâng cao đời sống cho nông dân ........................................................................... 69
Chƣơng 3 .............................................................................................................................. 73
NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM.................................................................... 73
3.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ huyện Chƣơng Mỹ lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

(2008 – 2014) ......................................................................................................................... 73
3.1.1. Ưu điểm ................................................................................................................... 73
3.1.2. Hạn chế ................................................................................................................... 79
3.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ huyện Chƣơng Mỹ lãnh
đạo xây dựng nông thôn mới (2008 - 2014) ....................................................................... 81
3.2.1. Cần nhận thức đúng về xây dựng nông thôn mới đó là sự nghiệp của chính người
nông dân ............................................................................................................................ 81
3.2.2. Bám sát đặc điểm, tình hình địa phương để xác định các biện pháp, giải pháp, tiêu
chí xây dựng nông thôn mới trên cơ sở thực hiện tốt chính sách về nông nghiệp, nông dân
và nông thôn ...................................................................................................................... 83
3.2.3. Huy động tốt nguồn lực của địa phương, đồng thời tranh thủ nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước .................................................................................................................... 84
3.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng nông thôn mới và
thực hiện tốt chính sách thi đua, khen thưởng ............................................................... 85
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 90

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một trong những
nội dung quan trọng. Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng năm
1991 đã xác định: “Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để ổn định kinh tế, xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: “Hiện nay và trong nhiều năm tới đây vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược quan trọng”. “Xây dựng

hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Thực
hiện chương trình xây dựng mới nhằm xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc
sống ấm no, văn minh, sạch đẹp, gắn với việc hình thành các khu dân cư đô thị
hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng nếp sống văn minh, bài trừ các tệ nạn xã hội ở
nông thôn”.
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy
nhiên nhiều thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế: Nông
nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học –
công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Nông nghiệp, nông thôn phát
triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y
tế, cấp nước…còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất,
tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo
giữa nông thôn và thành thị còn lớn phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Chương Mỹ là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, đời sống nhân dân
còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém, song là địa phương có
điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, trong cơ cấu
kinh tế của huyện, kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn, dân cư tập trung chủ yếu
ở vùng nông thôn. Vì vậy, giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn càng
trở nên cấp thiết.
3


Đảng bộ huyện Chương Mỹ đã tập trung lãnh đạo, đề ra những chủ trương,
chính sách, biện pháp phù hợp để giải quyết vấn đề này, trong đó đặc biệt quan
trọng là chủ trương lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện.
Phân tích, đánh giá một cách đầy đủ, khách quan quá trình lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới của Đảng bộ huyện Chương Mỹ là một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và
của thành phố Hà Nội nói chung. Bởi chỉ có thông qua phân tích, đánh giá khách

quan đặc điểm tình hình, thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong quá trình
lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ huyện mới có cơ sở khoa học, căn
cứ thực tiễn để tiếp tục xác định phương hướng, nhiệm vụ, những giải pháp hữu
hiệu nhằm thực hiện tốt công cuộc xây dựng nông thôn mới ở Chương Mỹ trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay và trong tương lai.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của vấn đề đó, tác giả
chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Chương Mỹ (Hà Nội) lãnh đạo xây dựng nông
thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014” làm luận văn thạc sỹ khoa học Lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong nhiều năm qua, phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết các vấn
đề nông dân là những chủ đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên
cứu, các học giả trong và ngoài nước. Trong đó liên quan đến đề tài có một số công
trình sau:
Trên thế giới, trước hết phải kể đến công trình: “Chính sách nông nghiệp trong
các nước đang phát triển” của tác giả Frans Ellits do Nhà xuất bản Nông nghiệp ấn
hành năm 1994; công trình “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các
nước và Việt Nam” của các tác giả Benedicttria Kerrkvliet, Jamesscott Nguyễn Ngọc
và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu, Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 2000. Tác
giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản của chính sách nông nghiệp ở các nước đang phát
triển thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và khảo cứu thực tiễn ở nhiều nước châu Á,
châu Phi và Mỹ latinh. Tác giả đã đề cập những vấn đề về chính sách phát triển vùng,
chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, chính sách thương mại
nông sản, những vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị hoá. Những điểm đáng chú ý
4


của công trình này có giá trị tham khảo cho việc giải quyết những vấn đề của chính
sách phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay như tương lai của các trang trại nhỏ,
nông dân với khoa học…

Ở trong nước, có hàng loạt công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh nghiệm phát
triển nông nghiệp, nông thôn của nước ngoài. Theo hướng này, một số nhà nghiên
cứu và chỉ đạo thực tiễn ở Việt Nam như PGS.TS Chu Hữu Quý, GS.TS Nguyễn Thế
Nhã, GS.TS Phạm Thị Mỹ Dung, GS.TS Đoàn Trọng Tuyến, PGS.TS Nguyễn Sinh
Cúc đã có những công trình nghiên cứu công phu và có giá trị. Điểm chung của các
công trình này là sau khi phân tích thực tiễn giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói
chung và việc xây dựng chỉ đạo chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước
ngoài, các tác giả đều cố gắng gợi mở, nêu lên những kinh nghiệm để có thể vận
dụng cho giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Đình Phan, PGS.TS Trần Minh Đạo, TS Nguyễn Văn Phúc:
“Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn vùng
đồng bằng sông Hồng; Đặng Kim Sơn (2007): “Nông nghiệp, nông thôn của Việt
Nam – 20 năm đổi mới và phát triển”, Nxb Chính trị quốc gia; TSKH Phan Xuân
Dũng (2005): “Nông nghiệp, nông thôn trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững”,
tạp chí Cộng sản, số 82; Nhật Tân (2007): “Xây dựng nông thôn một vùng chiêm
trũng”, tạp chí Cộng sản số 23; Công trình Nguyễn Xuân Thảo (2004): Góp phần
phát triển bền vững nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia; Đặng Kim Sơn
(2007): Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - 20 năm đổi mới và phát triển, Nxb
Chính trị quốc gia; Bùi Tất Thắng (2006): Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội; Nguyễn Trần Quế (chủ biên) (2004): Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21, Nxb Khoa học Xã hội; PGS.TS
Nguyễn Văn Bích (2007): Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi
mới: Quá khứ và hiện tại, Nxb Chính trị quốc gia; TS Lê Quang Phi (2007): Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ mới, Nxb
Chính trị quốc gia; GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (2006): Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi, Nxb Chính trị quốc
gia… Các công trình này đã nêu rõ vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
sự tác động của các yếu tố đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn và đời
5



sống người nông dân, đồng thời, nêu lên phương hướng và một số giải pháp phát
triển nông nghiệp.
Trần Thị Minh Châu (chủ biên): Về chính sách đất nông nghiệp ở nước ta
hiện nay của Nxb Chính trị quốc gia; Lê Quang Phi (2008): Đổi mới tư duy của
Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia; Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ NN&PTNT (2002): Con đường Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia… Những
công trình này đi sâu nghiên cứu, đánh giá vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trên
lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng nông thôn mới là một vấn đề mới, có thể kể
đến một số công trình như: Vũ Thị Mười (2012): Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo
xây dựng nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn Thạc sĩ ,Trung Tâm
đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị; Đỗ Thuỳ Dung (2013): Đảng bộ
huyện Sóc Sơn lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2001 đến năm 2012, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn; Phạm Anh Đào (2013):
Đảng bộ Bắc Giang lãnh đạo nhân dân xây dựng nông thôn mới, Luận văn Thạc sĩ,
Trường Đại học Khoa học xã hội & nhân văn; Nguyễn Thị Nga (2014): Công tác vận
động nông dân xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ xã Hiệp Hòa – Bắc Giang của
tác giả, Luận văn Thạc sĩ Đại học Khoa học xã hội & nhân văn, … Các công trình
này đã đi sâu tìm hiểu về thực trạng và nêu lên phương hướng, giải pháp xây dựng
nông thôn mới tại các địa phương.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, còn có những bài viết, bài đăng
trên các báo, tạp chí của trung ương và địa phương cũng đề cập đến nội dung liên
quan đến nông thôn mới.
Qua đây, có thể thấy vấn đề nông nghiệp, nông thôn từ trước tới nay đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ, mục đích, phương pháp khác
nhau gúp cho người đọc, người nghiên cứu có được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về
chủ trương của Đảng đối với vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, xét dưới góc độ lịch sử Đảng, xây dựng

nông thôn mới ở địa phương thì rất ít công trình nghiên cứu một cách cụ thể, hệ
thống và vấn đề nông thôn mới thì mới bắt đầu và còn bỏ ngỏ.
6


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Nghiên cứu làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Chương Mỹ về xây dựng
nông thôn mới nhằm phân tích, đánh giá một cách khoa học, khách quan về chủ trương
và quá trình tổ chức thực hiện, nêu lên những thành tựu, hạn chế, và rút ra một số kinh
nghiệm.
Nhiệm vụ
- Trình bày có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, của
Thành ủy Hà Nội về xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014;
- Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ vận dụng quan điểm, chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Thành ủy Hà Nội về xây dựng nông thôn mới vào
điều kiện địa phương;
- Phân tích những thành tựu bước đầu, hạn chế và một số kinh nghiệm về xây
dựng nông thôn mới ở Chương Mỹ.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng
- Các chủ trương của Đảng bộ huyện Chương Mỹ trong quá trình lãnh đạo xây
dựng và phát triển nông thôn mới.
- Quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới ở huyện Chương Mỹ
từ năm 2008 đến năm 2014.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn huyện Chương Mỹ
(thành phố Hà Nội).
Về thời gian: từ năm 2008 (mốc bắt đầu có chủ trương xây dựng nông thôn mới)
đến năm 2014.

Về nội dung: Đề tài nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Chương Mỹ lãnh đạo
xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
7


Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời sử dụng
các phương pháp chuyên ngành như phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát
thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh nhằm nghiên cứu, làm rõ các
nội dung đề cập trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng, thành phố Hà Nội về xây
dựng nông thôn mới;
- Hệ thống, khái quát chủ trương, biện pháp của Đảng bộ huyện Chương Mỹ
trong quá trình vận dụng quan điểm của Đảng và thành phố Hà Nội trong xây dựng
nông thôn mới. Đúc kết một số kinh nghiệm góp phần vào quá trình thực hiện chủ
trương phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn của huyện nói chung và xây
dựng nông thôn mới nói riêng đạt hiệu quả hơn trong thời gian tiếp theo.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
học tập Lịch sử Đảng nói chung, Lịch sử Đảng bộ huyện Chương Mỹ nói riêng thời
kỳ Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Chủ trương của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ Thành phố Hà Nội về
xây dựng nông thôn mới
Chương 2: Quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ

huyện Chương Mỹ từ năm 2008 đến năm 2014
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm

8


Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ
HÀ NỘI VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới
Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, từ
các góc độ khác nhau đang là mối quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế. Kinh
nghiệm của một số quốc gia về vấn đề này là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong quá trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả cao.
- Mô hình Nhật Bản: “Mỗi làng một sản phẩm”
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, ở tỉnh Oita (miền Tây Nam Nhật Bản) đã hình
thành và phát triển phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” với mục tiêu phát triển
vùng nông thôn của khu vực này một cách tương xứng với sự phát triển chung của cả
nước. Việc lựa chọn và phát triển một sản phẩm phù hợp với đặc điểm và thế mạnh
của mỗi làng giúp cho làng đó khai thác tối đa mọi nguồn lực, tìm được chỗ đứng
xứng đáng trên thị trường, là cơ sở để tạo nhiều việc làm và thúc đẩy các hoạt động
kinh tế - xã hội khác cùng phát triển.
Trải qua gần 30 năm hình thành và phát triển, phong trào “mỗi làng một sản
phẩm” ở Nhật Bản đã thu được thắng lợi rực rỡ. Sự thành công của phong trào này
đã lôi cuốn sự quan tâm không chỉ nhiều địa phương trên đất nước Nhật Bản mà còn
rất nhiều khu vực, quốc gia khác trên thế giới. Một số quốc gia khu vực Đông Nam
Á đã thu được những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước
mình nhờ áp dụng kinh nghiệm này của Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản vẫn đang áp
dụng chính sách nông nghiệp được thông qua từ năm 1971 để kiểm soát giá gạo sau

khi sản lượng lúa gạo trong nước vượt quá nhu cầu tiêu dùng. Chính phủ hỗ trợ nông
dân bằng cách xuất tiền ngân sách ra mua gạo cho dân mỗi khi gạo rớt giá.
- Mô hình Hàn Quốc: Phong trào Làng mới
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân của Hàn Quốc chỉ có 85
USD, phần lớn người dân không đủ ăn, 80% dân nông thôn không có điện thắp sáng,

9


sống trong những căn nhà lợp bằng lá, trong khi lũ lụt và hạn hán xảy ra thường
xuyên. Phong trào Làng mới ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực vượt khó
và hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí điểm đầu tư cho
nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động phong trào
Làng mới và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà mái lá bằng
mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp; các công trình
phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng. Phương thức canh tác được đổi mới,
chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với nhiều mặt hàng mũi nhọn như nấm và cây
thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích và hỗ trợ xây dựng nhiều
nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kì diệu. Chỉ sau 8
năm, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn thành. Từ năm
1971 đến 1978, Hàn Quốc đã cứng hoá được 43.631 km đường làng nối với đường của
xã (trung bình 1.322 m/làng), cứng hoá đường ngõ xóm 42.220 km (trung bình 1.280
m/làng), 98% hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt, vì không có quỹ bồi thường đất và các tài
sản khác nên việc hiến đất, tháo dỡ công trình, cây cối đều do dân tự giác bàn bạc, thoả
thuận, ghi công lao đóng góp và hi sinh của các hộ nông dân cho làng, thôn. Nhờ phát
triển giao thông nông thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm phương tiện sản xuất. Từ
đó, tạo phong trào cơ khí hoá trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng công nghệ cao,
giống mới, công nghệ nhà lưới, nhà kính trồng rau đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản
phẩm tăng nhanh. Năm 1979, Hàn Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế. Chính

phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ tầng để nông thôn vươn lên, xốc lại tinh thấn, đánh thức
khát vọng, tự tin. Từ mô hình Làng mới của Hàn Quốc, có thể rút ra 6 bài học kinh
nghiệm cho quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, phát huy nội lực của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với
phương châm “nhân dân quyết định và làm mọi việc”, “nhà nước bỏ ra 1 vật tư, nhân
dân bỏ ra 5 - 10 công sức và tiền của”. Dân quyết định loại công trình, dự án nào cần
ưu tiên trước, công khai bàn bạc, quyết định thiết kế và chỉ đạo thi công, nghiệm thu
công trình. Ví dụ như: năm 1971, Chính phủ Hàn Quốc chi hỗ trợ cho 33.267 làng,
mỗi làng là 335 bao xi măng. Năm 1972, lựa chọn 1.600 làng làm tốt được hỗ trợ
10


thêm 500 bao xi măng và 1 tấn sắt thép. Dân làng tự quyết định mức đóng góp đất,
ngày công cho dự án.
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Với kết cấu hạ tầng tốt, các đơn vị
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, giống mới giúp nông dân tăng năng suất cây trồng, vật
nuôi, xây dựng vùng chuyên canh hàng hoá. Chính phủ xây dựng nhiều nhà máy ở
nông thôn để chế biến cũng như có chính sách tín dụng nông thôn, cho vay thúc đẩy
sản xuất.
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn. Chính phủ Hàn Quốc xác
định nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào Làng mới là đội ngũ cán bộ cơ
sở tự nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng 3 trung tâm đào tạo quốc gia và
mạng lưới trường nghiệp vụ ở địa phương. Nhà nước đài thọ, mở các lớp học trong
thời gian từ 1 - 2 tuần để trang bị kiến thức thiết thực như kỹ năng quản lý dự án,
phát triển cộng đồng.
Thư tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập Hội
đồng phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của Chính phủ trên cơ sở công khai,
dân chủ, bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của địa phương.
Thành công của Hàn Quốc là xã hội hoá các nguồn hỗ trợ để dân tự quyết định lựa
chọn dự án, phương thức đóng góp, giám sát công trình.

Thứ năm, từ phát triển cộng đồng đã thiết lập lại các hợp tác xã kiểu mới phục
vụ trực tiếp nhu cầu của dân, cán bộ do dân bầu chọn. Phong trào Làng mới là bước
ngoặt đối với sự phát triển của hợp tác xã. Các hợp tác xã hoạt động đa dạng, hiệu
quả trong dịch vụ tín dụng, cung cấp đầu vào cho sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo
hiểm nông thôn và các dịch vụ khác.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh toàn dân.
Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ giống, tập huấn
kỹ thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng, yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc
đều phải trồng rừng, bảo vệ rừng. Do vậy, nếu năm 1970, phá rừng còn là quốc nạn
thì 20 năm sau, rừng xanh đã che phủ khắp nước, và được coi là kì tích của phong
trào này.

11


Phong trào Làng mới của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn cũ
thành cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông thôn
trở thành một xã hội năng động có khả năng tự tích luỹ, tự đầu tư và tự phát triển.
Phong trào Làng mới với mức đầu tư không lớn đã góp phần đưa Hàn Quốc từ một
nuớc nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu có.
- Mô hình Thái Lan với sự trợ giúp mạnh mẽ của Nhà nước
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã
hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh với các hình thức, đẩy mạnh công tác tiếp thị, khai thác
tài nguyên một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai
thác bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực bị suy thoái.
Hệ thống thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc,
góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng trong sản xuất nông nghiệp.
Chương trình điện khí hoá nông thôn với việc xây dựng các trạm thuỷ điện vừa và
nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước… Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành

mũi nhọn nông nghiệp, thuỷ, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công
nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng và xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sang các
nước công nghiệp phát triển.
Chính sách phát triển nông nghiệp: cơ cấu lại mặt hàng nông sản nhằm nâng cao
chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng trong đó có gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê.
Chính phủ cho rằng càng có nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế
biến lương thực - thực phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ.
Chính sách bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm: năm 2004, Chính phủ Thái Lan
phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp ăn của thế
giới” nhằm khuyến khích các nhà chế biến và nông dân có hành động kiểm soát chất
lượng vệ sinh thực phẩm để bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu. Do đó, ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở các
thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU chấp nhận.
Mở cửa thị trường: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư, thu hút mạnh mẽ
các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh để phát triển ngành công nghiệp chế biến
12


thực phẩm thông qua việc mở cửa cho các quốc gia vào đầu tư kinh doanh. Trong
tiếp cận thị trường xuất khẩu, Chính phủ là người đại diện thương lượng với chính
phủ các nước để các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực
phẩm chế biến. Bên cạnh đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho
các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng.
- Mô hình" Tam nông" của Trung Quốc
Khi chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ quan chức
năng Trung Quốc dự báo lao động trong nông nghiệp sẽ giảm khoảng 9,6 triệu
người, cuộc sống của nông dân càng khó khăn hơn do trình độ lạc hậu. Tuy nhiên,
sau khi thực hiện chính sách tam nông xây dựng một xã hội hài hoà, bộ mặt nông
thôn Trung Quốc đã có thay đổi vượt bậc. Ví dụ như thôn Gia Chủy trước đây là
thôn đánh cá và trồng trọt nghèo nhất huyện Cao Thuân (Giang Tô), từ khi mở mang

nghề đóng tàu và vận tải thuỷ, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thôn này đã
trở thành thôn điển hình toàn quốc về nhiều mặt.
Yếu tố quyết định là lãnh đạo thông suốt, dám làm, quyết tâm cống hiến, kích
thích ý thức lập nghiệp và làm giàu của dân. Hiện Gia Chuỷ đã có những biệt thự
nông dân bên cạnh các “chung cư nông dân” nằm trong quy hoạch nông thôn mới.
Phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp là một giải pháp để Trung Quốc thực hiện
chính sách tam nông hiệu quả. Chính phủ Trung Quốc đã thi hành một loạt biện pháp
theo phương châm “cho nhiều, thu ít, tạo nhiều việc làm” giúp tăng thu nhập. Đó là:
Không ngừng tăng đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, ngày
càng chú trọng tới khu vực nông thôn về các mặt tài chính, thu thuế, tích cực giảm
bớt khó khăn về tài chính cho khu vực nông thôn, tăng thêm ngân sách cho phát triển
giáo dục, y tế, văn hoá đối với khu vực nông thôn, tăng cường chính sách trợ cấp đối
với nông dân.
Đẩy mạnh phát triển xí nghiệp hương trấn, nhanh chóng đưa tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất, phát triển các ngành tập trung lao động cao và dịch vụ ở nông thôn, tăng
cường thu hút nguồn lao động nông thôn làm việc tại địa phương.
Công nghiệp hoá nông nghiệp, trồng rau do máy vi tính điều khiển, tiếp thị sản
phẩm nông nghiệp qua mạng internet. Một tầng lớp công nhân nông nghiệp ra đời.
13


Ngoài việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất, Trung Quốc còn thúc đẩy cải tổ việc
quản lý trong nông nghiệp và hệ thống phân phối sản phẩm. Điều này còn quan trọng
hơn việc tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Chính phủ cố gắng đưa các giống mới
chất lượng cao vào sản xuất và hỗ trợ tìm kiếm thị trường mới cho nông sản. Nhờ
một loạt chính sách hỗ trợ của Chính phủ, việc giảm diện tích canh tác liên tiếp trong
nhiều năm qua đã dừng lại. Thu nhập của nông dân tăng rõ rệt. Nông nghiệp đang
được điều chỉnh cơ cấu sản xuất để các sản phẩm có tính cạnh tranh hơn.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp - nông thôn của một số nước
cho thấy những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của Nhà nước

trên cơ sở phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo, trách nhiệm của người nông dân
để phát triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với việc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công nông nghiệp, tạo nền tảng thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2008))
1.1.2.1. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò rất quan trọng
trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong hơn 30 năm qua, nông
nghiệp, nông dân và nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo
điều kiện để đất nước vươn lên. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước luôn có những
chính sách hỗ trợ, xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn một
cách có hiệu quả và bền vững.
Tuy nhiên, trước khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề nông nghiệp, nông
thôn chưa được đặt đúng vị trí của nó. Trong một thời gian dài, công nghiệp nặng
luôn được đặt ở vị trí ưu tiên. Mặc dù Đại hội lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976)
xác định rõ hơn vai trò cơ sở của nông nghiệp, song tư tưởng chủ đạo trong nhiều
năm tiếp theo vẫn là nhấn mạnh công nghiệp nặng.
Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982) bước đầu chỉ ra sai lầm thiếu chuẩn bị đầy
đủ những điều kiện, tiền đề cần thiết cho phát triển nông nghiệp. Đây là sự điều
chỉnh trong quan điểm của Đảng về vị trí của kinh tế nhà nước, song trong chỉ đạo và
14


hoạch định chính sách nông nghiệp chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu,
không đảm bảo cho những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và
các chính sách khuyến khích. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời cho nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Với tinh thần đổi mới toàn diện, bắt đầu đổi mới từ tư duy kinh tế, Đại hội VI của
Đảng (tháng 12/1986) chỉ rõ: "Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng rối ren, mất

cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý” [13,tr.44].
Đại hội nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến một bước
theo hướng sản xuất lớn. Việc xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn
(lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu) đều liên quan trực tiếp
đến nông nghiệp . Đó là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị
quyết 10-NQ/TW "Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp". Quan điểm cơ
bản của Đảng về quản lý nông nghiệp là coi hợp tác xã như đơn vị kinh tế tự quản,
hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với hợp tác xã. Bộ Chính trị
chỉ rõ: "Đổỉ mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm khắc phục các nhược điểm, sai
lầm trong các chính sách lớn đối với nông nghiệp". Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
chủ trương sắp xếp và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa
kết hợp với kinh doanh tổng hợp, gắn với trồng trọt chăn nuôi; gắn nông - lâm - ngư
nghiệp với công nghiệp chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn...
Đây chính là bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VI) khẳng định những chuyển biến quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, đồng thời bổ sung, làm rõ
thêm tư tưởng đổi mới, thể hiện ở ba quan điểm lớn: - Mọi tổ chức sản xuất kinh
doanh do người lao động tự góp vốn, góp sức và quản lý theo nguyên tắc dân chủ,
không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hóa là hợp tác xã; - Hợp
tác xã và tập đoàn sản xuất là các đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu
về tư liệu sản xuất; - Gia đình xã viên đã trở thành đơn vị sản xuất kinh tế tự chủ,
15


ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng với hợp tác xã còn
chủ động phát triển sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích xã viên

làm giàu, đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể để giúp các hộ nghèo có thêm
điều kiện để vươn lên làm ăn tốt.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định: “Phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội. Xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu kinh tế hợp
lý về nông - lâm - ngư - công nghiệp phù hợp với sinh thái vùng, bảo vệ tài nguyên,
gắn phát triển nông - lâm - ngư nghiệp với phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp chế biến bằng công nghệ thích hợp, xây dựng các điểm kinh tế - kỹ
thuật dịch vụ ở từng vùng và tiểu vùng; xây dựng kết cấu tầng kỹ thuật và hạ tầng xã
hội ở nông thôn” [76, tr.63].
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong nông nghiệp, nông thôn, để đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 6/1993) ra Nghị quyết "Về tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn". Hội nghị đánh giá trực tiếp thực trạng
nông nghiệp, nông thôn, xác định mục tiêu, quan điểm đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn từ năm 1993 đến năm 2000, đồng thời đề ra phương hướng và giải
pháp cụ thể để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng nông
thôn mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định mục tiêu: Một là, phát
triển nhanh, bền vững nông - lâm - ngư, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ nông thôn, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh để thu hút đại bộ phận lao
động dư thừa, tăng năng suất lao động, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực,
thực phẩm, đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu cho công nghiệp và tăng nhanh kim
ngạch xuất khẩu, bảo vệ môi trường sinh thái. Hai là, cải thiện một bước đời sống
văn hoá của nông dân, tăng diện giàu và đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo. Ba là, xây dựng
nông thôn mới. Đồng thời, qua đó đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế
- xã hội nông thôn một cách cụ thể, phù hợp.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã
xác định một hệ thống quan điểm đồng bộ về ba vấn đề lớn: nông nghiệp, nông thôn
16



và nông dân, gắn phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới với nâng
cao đời sống nông dân. Cũng trong giai đoạn này, Nhà nước cũng ban hành Luật Đất
đai xác định những quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề đất đai. Các hộ tư nhân
được đầu tư phát triển giống cây, khai thác đất trống, đồi núi trọc ở các vùng trung du,
miền núi, bãi bồi ven biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản, xây dựng nông - lâm ngư trại với quy mô thích hợp. Điều này chứng tỏ rằng, Nhà nước đã trao thêm cho các
tổ chức kinh tế, cá nhân người lao động và hộ nông dân trách nhiệm và quyền tự chủ
sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong đó có mô hình kinh
tế phát triển theo xu hướng trang trại. Cùng với Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất
nông nghiệp được Quốc hội thông qua (tháng 7/1993) có vị trí quan trọng với sự phát
triển của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế hộ gia đình, khuyến khích hộ gia đình
sử dụng có hiệu quả đất đai và bảo đảm công bằng, hợp lý sự đóng góp của hộ gia đình
sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách của Nhà nước. Các đạo luật trên là cơ sở pháp
lý rất quan trọng, tạo nền tảng cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển.
Tháng 7/1994, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã
xác định ba chủ trương lớn về phát triển kinh tế công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong năm tới là: công nghiệp hóa - hiện đại hóa và kinh tế nông thôn, phát
triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển
mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương
nghiệp, dịch vụ, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), trên cơ sở
đánh giá tình hình 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bối cảnh trong nước và quốc
tế đã xác định mục tiêu, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quyết tâm
đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng xác
định rõ các nội dung và giải pháp lớn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
công nghiệp, nông thôn.
Trong thời gian này, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách
nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thông qua nhiều chương trình hỗ
trợ phát triển sản xuất nông nghiệp như Chương trình Giống, Chương trình Khoa học
17



- công nghệ, Chương trình Khuyến nông, khuyến công... Bên cạnh đó, một số
chương trình dự án mang tính phát triển nông thôn như: Dự án Cơ sở hạ tầng nông
thôn, Chương trình Mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc miền
núi (Chương trình 135), Chương trình Quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm.
Những chương trình, dự án này đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, kinh
tế nông thôn phát triển, cơ sở hạ tầng được ưu tiên đầu tư, đời sống cư dân được cải
thiện, điều kiện ở, đi lại, học tập, chăm sóc sức khoẻ được quan tâm đúng mức. Tuy
nhiên, những chương trình, dự án này hoặc mới chỉ giải quyết một số khía cạnh riêng
rẽ hoặc nhằm mục tiêu xoá đói, giảm nghèo cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng
nghèo mà chưa mang tính toàn diện, tổng thể nhằm tạo ra một phong trào phát triển
nông thôn mang tính sâu rộng, bền vững, có khả năng nhân rộng trên phạm vi cả
nước. Hơn nữa, nhiều chương trình mang tính dàn trải, bình quân chủ nghĩa, hỗ trợ
đồng đều cho các hộ dân, các xã hoặc lấy các tiêu chí cơ bản để hỗ trợ hộ nghèo, xã
nghèo. Vì vậy, nơi nào càng nghèo thì càng được quan tâm và nhận đuợc nhiều hỗ
trợ, nên, thay vì phấn đấu vươn lên tự chủ thì các xã thường có thiên hướng phấn đấu
trở thành “xã nghèo” và người dân phấn đầu trở thành “hộ nghèo”. Đồng thời, ta
cũng chưa có cơ chế khuyến khích, động viên, khen thưởng kịp thời những điển hình
làm tốt, các hộ năng động, sáng tạo. Do đó, trong một chừng mực nào đó, các
chuơng trình, dự án này chưa phát huy được nội lực, tinh thần ganh đua lành mạnh
giữa các cộng đồng, chưa khuyến khích người làm tốt, làm hay, chưa có cơ chế khen
thưởng thích đáng cho những làng, xã chủ động vươn lên thoát nghèo, làm giàu.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X họp tại Hà Nội (18 - 25/4/2006), một lần
nữa khẳng định cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong
đó có nội dung xây dựng nông thôn mới: Khẩn trương xây dựng hoàn chỉnh các quy
định phát triển nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông
thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường

lành mạnh. Hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
đồng bộ như: thuỷ lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học,
trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống
18


văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan;
bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội” [17, tr.633].
Như vậy, xây dựng và phát triển nông thôn mới ban đầu là công cuộc xây dựng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đảng ta có những bước
chuyển đổi dần về nhận thức, tư tưởng và lãnh đạo, chỉ đạo. Xây dựng nông thôn
mới là một trong mười lăm chương trình mục tiêu quốc gia được Chính phủ phê
duyệt, là chương trình lớn, có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo diện mạo mới cho nông
thôn Việt Nam.
1.1.2.2. Những thành tựu đạt được
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu khả quan và to
lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng
hoá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương
thực quốc gia; một số hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh
tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các
hình thức tổ chức sản xuất liên tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được
tăng cường, nhất là thuỷ lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất từng
bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn.; bộ mặt nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất,
tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Năm
2007, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000. Xoá
đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn, đặc biệt là về cơ bản đã xoá đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ
xuống còn 18%. Đồng thời, công tác chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh, phổ cập
giáo dục, văn hoá, thông tin, thể thao được quan tâm và đẩy mạnh hơn. Hệ thống
chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông
dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa xứng tầm với tiềm nămg, lợi thế và
chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp còn phát triển kém bền vững, tốc độ tăng
trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho
phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn
19


nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất
trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất chất lượng
thấp, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.
Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh
mẽ của sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực
thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của
người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc,
vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị; giữa các
vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông
dân, nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống
các quan điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính
sách phát triển các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu đột phá; một số chủ trương,
chính sách không hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp
thời; đầu tư từ ngân sách Nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông
dân, nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo và công
tác quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, yếu kém; vai trò của các cấp uỷ, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong việc triển khai các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghịêp, nông dân, nông thôn ở

nhiều nơi còn hạn chế.
Đồng thời, trong bối cảnh quốc tế vừa có những thuận lợi, vừa có những khó
khăn, vừa có những cơ hội, vừa có nhiều thách thức, nhằm thoát khỏi khủng hoảng,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội trong nước, Đảng và Chính phủ đã đề ra các biện
pháp cụ thể, đó là thông qua các gói kích cầu. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy
trì tăng cường kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội…đưa công cuộc đổi mới tiếp tục phát
triển, đi vào chiều sâu. Trong điều kiện đó, chủ trương xây dựng nông thôn mới của
Đảng được hình thành và ra đời.
20


1.2. Chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về xây dựng nông thôn mới
Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X diễn ra từ ngày 09/7
đến 17/7/2008 tại Hà Nội, đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 "về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn" được coi như “luồng gió mới”, tạo đà cho sự phát
triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xác định nông dân là chủ thể, xây dựng
nông thôn mới là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt.
Hội nghị khẳng định: "Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn" phải được giải
quyết đồng bộ gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu và là nhân tố bảo đảm thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng
và cả nước; khai thác thuận lợi trong hội nhập quốc tế; phát huy cao nội lực trong
nông thôn, đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước; ứng dụng nhanh các thành tựu
khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí.
Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như hiện nay, nông nghiệp,
nông dân, nông thôn luôn có vị trí quan trọng, là cơ sở và lực lượng để phát triển
kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn,

phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng
và cả nước.
Theo quan điểm đó, Hội nghị đã ban hành Nghị quyết về vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Nghị quyết xác định nhiệm vụ cụ thể xây dựng nông thôn nước
ta đến năm 2020: "tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng
đất nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp kết hợp với
phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải quyết cơ bản việc làm,
nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5 lần so với hiện nay" [70, tr
21


×