Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÂM ANH TUẤN

NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2016

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÂM ANH TUẤN

NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản


HÀ NỘI - 2016

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lâm Anh Tuấn

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU


Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY

6

ĐOÁN VÔ TỘI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

1.1.

Khái niệm, nội dung, phạm vi và ý nghĩa của nguyên tắc suy

6

đoán vô tội
1.1.1.

Khái niệm suy đoán vô tội

6

1.1.2.

Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội

12

1.1.3.


Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội

18

1.1.4.

Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội

22

1.2.

Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội với một số

26

nguyên tắc khác của luật tố tụng hình sự
1.2.1.

Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong

26

xét xử
1.2.2.

Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền

28


bào chữa
1.2.3.

Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc Thẩm phán, Hội

30

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
1.3.

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và pháp

31

luật của một số nước
1.3.1.

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế

31

1.3.2.

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật của một số nước

36

4



Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN SUY ĐOÁN VÔ TỘI

43

TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN
TRƯỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

2.1.

2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.

2.3.3.

Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003
Các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến suy đoán
vô tội trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988

Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
Các nguyên tắc liên quan đến suy đoán vô tội
Về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng hình sự
Về thủ tục xét xử tại phiên tòa
Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và những bất cập, vướng mắc
Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến suy đoán vô
tội của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy
định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003
Nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc trong áp dụng
các quy định liên quan đến suy đoán vô tội của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
Chương 3: NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG BỘ LUẬT

43

43
47
51
52
53
56
58
58
61

66


70

TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC NÀY
TRONG THỰC TIỄN

3.1.

Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định có liên quan
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

5

70


3.1.1.

Khái quát về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

70

3.1.2.

Phần thứ nhất của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

72

3.1.3.


Phần thứ hai và Phần thứ ba của Bộ luật tố tụng hình sự

77

năm 2015
3.1.4.

Phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

78

3.2.

Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô

79

tội trong thực tiễn
3.2.1.

Tiếp tục hoàn thiện một số quy định về suy đoán vô tội của

79

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
3.2.2.

Tăng cường công tác phổ biến giáo dục và hướng dẫn áp


85

dụng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự mới
3.2.3.

Các giải pháp khác

87

KẾT LUẬN

88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự


CQĐT

: Cơ quan điều tra

HĐXX

: Hội đồng xét xử

HLPL

: Hiệu lực pháp luật

SĐVT

: Suy đoán vô tội

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS


: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng hình sự (TTHS) là một lĩnh vực đụng chạm trực tiếp tới các
quyền tự do, dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là
người bị bắt giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, chống lại sự lạm quyền và bảo vệ có
hiệu quả quyền con người, quyền công dân trong TTHS là một trong những
nội dung rất quan trọng được cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia đều quan tâm:
Nhân quyền và các quyền tự do cơ bản là quyền của mọi
người khi được sinh ra; việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền đó là
trách nhiệm trước tiên của các Chính phủ... Việc đề cao và bảo vệ
tất cả các quyền con người và các quyền tự do cơ bản phải được coi
là một mục tiêu ưu tiên của Liên hợp quốc..., là mối quan tâm chính
đáng của cộng đồng quốc tế... [23, tr. 656-657].

Để đạt mục tiêu trên, các văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc đã
quy định các nguyên tắc và điều kiện cần thiết, trong đó suy đoán vô tội
(SĐVT) được ghi nhận là quyền con người, quyền cơ bản của mọi cá nhân và
là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế: "Bất kỳ người bị buộc tội nào
đều có quyền được suy đoán là không phạm tội..., được coi là vô tội cho tới
khi hành vi phạm tội... được chứng minh theo pháp luật" [31, Điều 14].
Ngày nay hầu hết pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận SĐVT là
một nguyên tắc cơ bản của TTHS. Năm 1982 Việt Nam gia nhập Công ước
quốc tế năm 1966 và cam kết thực hiện các nguyên tắc của Công ước này,
trong đó có nguyên tắc SĐVT. Lần đầu tiên SĐVT được ghi nhận với tư cách
là một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) đầu tiên (năm
1988) của nước ta (Điều 10), là một quyền cơ bản của công dân trong Hiến
pháp năm 1992 (Điều 72) và là một trong các quyền con người trong Hiến
pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 31): "Người bị buộc tội được coi là không có

8


tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [57].
Các nguyên tắc hiến định khác (như: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập…; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...)
cũng được Hiến pháp mới bổ sung với nội dung rõ ràng, cụ thể hơn. Một số
đạo luật khác như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân (TAND), Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân (VKSND), Luật Luật sư sửa đổi... cũng mới được ban
hành. Đây là cơ sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta nói
chung và BLTTHS nói riêng. Tuy nhiên, về SĐVT hiện nay đang còn những
quan điểm khác nhau về một số vấn đề lý luận như: khái niệm, nội dung và
phạm vi áp dụng; trách nhiệm chứng minh tội phạm;... Vì vậy, việc nghiên
cứu nhằm xác định đầy đủ nội hàm của nguyên tắc SĐVT và các nguyên tắc

của TTHS nói chung, và cụ thể hóa đầy đủ, chính xác các nguyên tắc này
trong BLTTHS là vấn đề cấp thiết. Mặt khác, thực tiễn TTHS gần đây cho
thấy công cuộc cải cách tư pháp triển khai đã nhiều năm nhưng chưa tạo ra
được sự chuyển biến cần thiết đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo tinh thần Nghị quyết số số 49-NQ/TW.
Việc nhận thức và áp dụng nguyên tắc SĐVT còn rất khác nhau, trong nhiều
trường hợp còn bị áp dụng theo hướng ngược lại. Tình trạng bức cung, nhục
hình, xét xử theo kiểu "án tại hồ sơ"... vẫn diễn ra khá phổ biến gây bức xúc,
mất lòng tin của nhân dân,...
Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản và
quan trọng nhất là do BLTTHS năm 2003 được sửa đổi quá vội vàng, không
cơ bản và đồng bộ nên chưa tạo ra được những thay đổi đột phá; không ghi
nhận hoặc ghi nhận không đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của TTHS; thiếu các
quy định cụ thể hoặc quy định không rõ ràng, cụ thể về các nguyên tắc này
dẫn đến việc nhận thức và áp dụng không đúng và thống nhất trong thực
tiễn... Vì vậy, việc làm sáng tỏ về lý luận nguyên tắc SĐVT theo Hiến pháp

9


năm 2013; những hạn chế, bất cập và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các
quy định liên quan đến SĐVT trong BLTTHS năm 2003 để làm cơ sở đánh
giá sự hoàn thiện của các quy định về SĐVT trong BLTTHS năm 2015 đồng
thời đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về SĐVT của
BLTTHS mới trong thực tiễn là vấn đề rất cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, SĐVT và các vấn đề liên quan đã được đề cập ở
những cấp độ và phạm vi khác nhau trong các công trình nghiên cứu như: "Cải
cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 08 và "Nguyên tắc suy đoán vô tội nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam"

(2003), Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 07, của GS TSKH Đào Trí Úc; "Bảo
đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ
luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự" (2013), ,
ngày 25/4/2013, của TS. Trịnh Tiến Việt; "Nguyên tắc suy đoán vô tội" (2006),
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 và "Bình luận về nguyên tắc tranh tụng
trong BLTTHS năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi" (2015), Tạp chí
Kiểm sát, số 09, của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; "Nguyên tắc suy đoán vô tội
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2012), Tạp chí Kiểm sát, số 15, của
TS. Phạm Mạnh Hùng; "Các nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự - những
kiến nghị sửa đổi bổ sung", , của PGS.TS Nguyễn
Ngọc Chí; "Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về
xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam" (2010), Tạp chí TAND, số 03, của
ThS. Đinh Thế Hưng;...
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, đầy
đủ và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT theo
Hiến pháp năm 2013; sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các quy định
liên quan đến SĐVT trong pháp luật thực định Việt Nam từ năm 1945 đến

10


nay để làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp bảo đảm thực
hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp hiện nay.
Tất cả các luận cứ nêu trên là lý do để tác giả lựa chọn "Nguyên tắc suy
đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ
Luật học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu là làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
1) Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT: Cơ sở lý luận của

nguyên tắc SĐVT; quan hệ giữa nguyên tắc SĐVT với một số nguyên tắc
khác của Luật TTHS; nguyên tắc SĐVT trong pháp luật quốc tế và pháp luật
của một số nước.;
2) Các quy định liên quan đến SĐVT trong pháp luật Việt Nam từ năm
1945 đến khi ban hành BLTTHS năm 2015; thực tiễn áp dụng các quy định
liên quan đến SĐVT của BLTTHS năm 2003 và những bất cập, vướng mắc.
3) Nguyên tắc SĐVT và các quy định liên quan trong BLTTHS năm
2015; một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn.
Với nhiệm vụ trên, tác giả cố gắng làm sáng tỏ khái niệm, nội dung và
phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT có liên hệ với pháp luật quốc tế và pháp
luật của một số nước; phân tích làm sáng tỏ các quy định BLTTHS năm 2003
liên quan đến SĐVT và những bất cập, vướng mắc. Trên cơ sở đó đánh giá sự
hoàn thiện của các quy định của BLTTHS năm 2015 và đề xuất một số giải
pháp nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư pháp. Quá trình thực
hiện luận văn, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể:

11


phương pháp hệ thống, lịch sử, so sánh, phân tích - tổng hợp, khảo sát thực
tiễn,...; Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Hiến pháp, BLTTHS, các văn
bản pháp luật có liên quan, tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học
trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan.
5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu có hệ thống và
toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc SĐVT. Kết quả nghiên
cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về nguyên tắc SĐVT và

các vấn đề liên quan. Những giải pháp đề xuất trong luận văn có ý nghĩa thiết
thực đối với việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS. Ngoài ra, luận văn còn
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập cho các cơ sở đào
tạo luật, trong hoạt động thực tiễn và những người quan tâm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc suy đoán vô tội trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định liên quan đến suy đoán vô tội trong pháp luật
Việt Nam từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 và một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHẠM VI VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC
SUY ĐOÁN VÔ TỘI

1.1.1. Khái niệm suy đoán vô tội
Từ "presume" trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt mang hai nghĩa
khác nhau: 1) Suy đoán (dự đoán) và 2) Giả định. Vì vậy, trong khoa học Luật
TTHS, nguyên tắc "presumption of innocence" có hai tên gọi khác nhau: Nguyên
tắc "suy đoán vô tội" và nguyên tắc "giả định vô tội" [16]. Tuy nhiên, trong
luận văn này chúng tôi không tranh luận về thuật ngữ mà xem xét nguyên tắc

này với tên gọi "suy đoán vô tội" (theo cách gọi phổ biến từ trước tới nay ở
Việt Nam) và để làm rõ khái niệm "nguyên tắc suy đoán vô tội", cần xem xét
thuật ngữ "suy đoán vô tội" ở hai góc độ: Nguyên tắc SĐVT và chế định SĐVT.
* Nguyên tắc suy đoán vô tội: Với tư cách là một nguyên tắc cơ bản
của TTHS, SĐVT được thừa nhận không chỉ trong pháp luật quốc tế mà cả
trong pháp luật của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để làm rõ
khái niệm nguyên tắc SĐVT, trước hết cần làm rõ khái niệm "nguyên tắc cơ
bản của Luật tố tụng hình sự". Đây là vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Theo PGS.TS Trần Đình Nhã thì việc sử dụng khái niệm "nguyên tắc
của Luật tố tụng hình sự" là sự nhầm lẫn khi coi TTHS và pháp luật TTHS là
một. Các nguyên tắc của TTHS là những chế định pháp lý, được thể hiện bởi
những quy phạm pháp luật TTHS, thể hiện bản chất của TTHS và mang tính
định hướng cho các hoạt động và hành vi TTHS [37].
Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì nguyên tắc TTHS là những quan
điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quá trình giải quyết vụ
án hình sự đã được thể chế hóa trong BLTTHS mà các chủ thể tiến hành và

13


tham gia tố tụng, các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi công dân phải tuân
theo. Khi nguyên tắc được quy định trong BLTTHS thì đó là nguyên tắc của
TTHS... Nếu tư tưởng, quan điểm nào đó là quan điểm, tư tưởng chủ đạo của
Luật TTHS thì chúng cũng là nguyên tắc của Luật TTHS. Ví dụ: nguyên tắc
pháp chế, nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc của TTHS và là nguyên tắc của
Luật TTHS [18, tr. 115-122]. Quan điểm thứ ba thì cho rằng nguyên tắc của
TTHS là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có giá trị pháp lý bắt buộc chung
đối với các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự [21, tr. 59].
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì nguyên tắc của Luật TTHS là tư tưởng chủ
đạo, định hướng cơ bản của hoạt động TTHS được thể hiện trong pháp luật

TTHS, trong việc giải thích và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua một
quy phạm hay chế định của nó [3, tr. 37]. Quan điểm khác lại cho rằng nguyên
tắc cơ bản của Luật TTHS là những tư tưởng, định hướng của hoạt động TTHS
thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quá trình giải quyết vụ án
là dân chủ, kỷ cương, theo định hướng XHCN, chi phối toàn bộ quá trình
TTHS hoặc chi phối một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và có tính ổn định cao [24, tr. 68].
Ngoài ra, còn một số quan điểm khác về khái niệm này [61, tr. 47].
Chúng tôi đồng tình với PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí cho rằng có sự
khác nhau giữa hai khái niệm "tố tụng hình sự" và "Luật tố tụng hình sự".
Khái niệm "tố tụng hình sự" được hiểu là toàn bộ hoạt động của các chủ thể
tiến hành và tham gia tố tụng, các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm giải quyết
vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Đây
là hoạt động mang tính khách quan tồn tại trong xã hội có giai cấp, là đòi hỏi
tất yếu của Nhà nước để trừng trị người phạm tội. Còn "Luật tố tụng hình sự"
là khái niệm để chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. "Luật tố tụng hình
sự" là một phạm trù chủ quan, là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà

14


làm luật. Vì vậy, những phương châm, định hướng quan trọng chi phối toàn
bộ hay một số giai đoạn của quá trình TTHS, quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật TTHS được gọi là các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS [4, tr. 55].
Từ khái niệm "nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự" nêu trên, có
thể thấy rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT được quy định tại khoản 1 Điều 31
Hiến pháp năm 2013 thể hiện ở yêu cầu người bị buộc tội phải được coi là vô
tội cho đến khi tội phạm của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật
định và được xác định bằng một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

(HLPL). Yêu cầu này dựa trên các giá trị công bằng, bình đẳng và là một bảo
đảm quan trọng và hữu hiệu đối với việc tôn trọng, bảo vệ quyền con người
trong tất cả các giai đoạn của quá trình TTHS. SĐVT đối lập với "suy đoán có
tội" là một khuynh hướng diễn ra phổ biến trong hoạt động tư pháp, xâm
phạm nghiêm trọng nguyên tắc "suy đoán vô tội" được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013 và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng
oan sai [74, tr. 26].
Từ phân tích trên, có thể khẳng định yêu cầu về SĐVT luôn giữ vai trò
định hướng quan trọng và chi phối không chỉ đối với các giai đoạn của quá
trình TTHS (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) mà cả đối với giai đoạn tiền tố
tụng (trường hợp bắt giữ người bị tình nghi phạm tội) và thi hành án hình sự
(trường hợp bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL bị kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm) đồng thời tác động mạnh mẽ đối với quá trình xây dựng và áp
dụng pháp luật.
Theo Từ điển Luật học, thì SĐVT là một nguyên tắc cơ bản và quan
trọng của TTHS, theo đó bị can, bị cáo được coi là vô tội, không phải chịu
trách nhiệm hình sự khi lỗi của người đó chưa được chứng minh theo trình tự
luật định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL [83, tr. 678]. Tuy
nhiên, cũng có ý kiến cho rằng theo pháp luật của một số nước thì bản chất
của nguyên tắc này được hiểu là trong mọi trường hợp nếu một người thực

15


hiện một hành vi mà hành vi đó còn có ý kiến khác nhau về việc định tội thì
phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho họ... Trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử nếu bên "buộc tội" không đưa ra được những bằng chứng xác đáng, mà
bên "gỡ tội" lại đưa ra được những bằng chứng chứng minh bị can, bị cáo
không phạm tội thì không được truy cứu người có hành vi đó. Xét về mặt nào
đó thì nguyên tắc SĐVT đối lập với nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án".

Sự thật thế nào thì phải chứng minh, đi tìm, chứ không được "suy đoán" theo
bất cứ hướng nào. Nếu ghi nhận nguyên tắc "suy đoán vô tội" cũng tức là
không cần đến nguyên tắc "xác định sự thật của vụ án". Và như vậy, bản chất
pháp luật của nước ta sẽ bị thay đổi... Thực chất, nguyên tắc này chỉ để giải
quyết vấn đề "thắng - thua"..., buộc Hội đồng xét xử (HĐXX) phải chấp nhận
"thắng - thua" giữa Luật sư và Kiểm sát viên mà không cần đến sự thật... [39].
Chúng tôi cho rằng quan điểm nêu trên về SĐVT là không chính xác và
có sự nhầm lẫn trong phân định các chức năng cơ bản trong TTHS giữa bên
buộc tội, bên bào chữa và Tòa án. Bản chất của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ
trong mọi trường hợp sự tình nghi một người phạm tội của các chủ thể thực
hiện chức năng buộc tội (Cơ quan điều tra (CQĐT)/ Điều tra viên và Viện
kiểm sát (VKS)/ Kiểm sát viên) đều mới chỉ là "giả định", có nghĩa là người
bị tình nghi có thể có tội và cũng có thể là không có tội. "Giả định" này phải
được chứng minh bằng các chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định thông qua việc kiểm tra, xác minh công khai tại phiên tòa với sự tham
gia đầy đủ của các chủ thể của bên buộc tội, bên bào chữa và các chủ thể khác
(người làm chứng, người phiên dịch, giám định viên) dưới sự giám sát của
HĐXX. Tại đây bên buộc tội (Kiểm sát viên, người bị hại) có trách nhiệm
chứng minh cho sự cáo buộc của mình bằng các chứng cứ buộc tội mà họ thu
thập được, bên bào chữa (Luật sư, bị cáo) cũng đưa ra các chứng cứ gỡ tội để
HĐXX xem xét và ra phán quyết kết tội bị cáo hay tuyên bố họ vô tội. Kể cả
khi đã có bản án kết tội, thì người bị kết án cũng chỉ bị coi là có tội khi phán

16


quyết này có HLPL. Vì vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có HLPL
thì các chủ thể tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) không được coi người bị buộc
tội là có tội. Yêu cầu này nhằm ngăn chặn mọi sự quy kết vội vã và định kiến
đối với người bị buộc tội, tâm lý chủ quan, sự tùy tiện, tắc trách của người có

thẩm quyền có thể dẫn đến làm oan người vô tội... Như vậy, có thể thấy rằng
SĐVT không chỉ là một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của Luật TTHS mà
còn là quyền cơ bản của người bị buộc tội. Theo nguyên tắc này thì người bị
buộc tội được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội tại phiên
tòa công khai, nơi bảo đảm những điều kiện cần thiết để bị cáo tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa và sự xét xử công bằng nhằm bảo vệ có hiệu
quả các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm sau: Nguyên tắc suy đoán vô
tội là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, theo đó một
người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội phạm của họ được
chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
* Chế định suy đoán vô tội: Suy đoán vô tội không chỉ là một trong
những nguyên tắc cơ bản của TTHS mà còn là một chế định quan trọng của
Luật TTHS. Về mặt lý luận, thì pháp luật là một hệ thống (tổng thể) các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Hệ thống các quy phạm
pháp luật này được phân thành các tiểu hệ thống, mỗi tiểu hệ thống này điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và
được gọi là một ngành luật. Vì vậy, với tư cách là một ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật của nước ta, Luật TTHS là tổng thể (hệ thống) các
quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự (lĩnh vực tư pháp hình sự). Hệ thống các quy phạm pháp luật này

17


được phân thành các tiểu hệ thống - các chế định pháp lý và mỗi chế định này
gồm một số quy phạm pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau điều chỉnh một

nhóm các quan hệ xã hội cùng loại - cùng tính chất (ví dụ: chế định người bào
chữa, chế định Hội thẩm, chế định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,...).
Đến lượt mình mỗi quy phạm pháp luật TTHS lại điều chỉnh trực tiếp một
quan hệ xã hội cụ thể (ví dụ: quy định tại khoản 2 Điều 48 BLTTHS (quyền
của người tạm giữ) điều chỉnh quan hệ giữa người bị tạm giữ với cơ quan,
người có thẩm quyền tạm giữ (Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên).
Với tư cách là một chế định của Luật TTHS, SĐVT là một tiểu hệ
thống bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS có liên quan. Trước hết nguyên
tắc SĐVT liên quan chặt chẽ với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTHS
(đặc biệt là với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa và bảo đảm tranh tụng
trong xét xử). Bởi lẽ nếu không được SĐVT thì người bị buộc tội đã bị coi là
có tội ngay từ khi bị tình nghi (bị bắt giữ, khởi tố, điều tra hay truy tố…) và
quyền bào chữa, quyền tranh tụng trước Tòa án để tìm ra chân lý sẽ chỉ còn là
hư quyền. Khi đó xét xử chỉ còn là việc Tòa án đi tìm lời giải cho một bài toán
đã có đáp số: "Bị cáo có tội". Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 (Điều 31,
Điều 102,...) đã ghi nhận nhiều nguyên tắc mới của TTHS, trong đó có
nguyên tắc SĐVT. BLTTHS năm 2003 cũng có nhiều quy định nhằm bảo
đảm để nguyên tắc SĐVT được thực thi trên thực tế như: trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10). Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa. CQĐT, VKS, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa của họ (Điều 11); Thẩm phán, Hội
thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 17);... Các nguyên tắc
này được cụ thể hóa trong các quy định khác của BLTTHS như: quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng; trình tự, thủ

18



tục thu thập, cung cấp, đánh giá chứng cứ; khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
(sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) các vụ án hình sự;...
Như vậy, có thể thấy một số nguyên tắc trong Hiến pháp mới và các
quy định nêu trên trong BLTTHS năm 2003 có liên quan chặt chẽ với nguyên
tắc SĐVT và tạo thành một chế định quan trọng - chế định SĐVT nhằm điều
chỉnh đồng bộ các quan hệ phát sinh giữa người bị buộc tội, các chủ thể tố
tụng và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chế định
này bao gồm các quy phạm pháp luật TTHS (một số nguyên tắc cơ bản và các
quy định cụ thể của BLTTHS) và đồng thời là điều kiện cần thiết bảo đảm
tính khả thi của nguyên tắc SĐVT trên thực tế.
1.1.2. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp năm 2013 khẳng định cho đến khi
có bản án kết tội của Tòa án đã có HLPL thì người bị buộc tội được coi là
không có tội, tức là họ vẫn có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do
Hiến pháp và pháp luật quy định (trừ một số quyền bị hạn chế khi áp dụng
biện pháp cưỡng chế như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,...).
Nguyên tắc này thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc tôn trọng các
giá trị cao quý của con người trong xã hội và nhằm thực hiện các nguyên tắc
của Công ước quốc tế năm 1966 (trong đó có nguyên tắc SĐVT) mà Việt
Nam đã gia nhập năm 1982. Mặc dù cho đến nay, trong Hiến pháp cũng như
các văn bản pháp luật khác của nước ta thuật ngữ "suy đoán vô tội" chưa một
lần được sử dụng nhưng nội dung của nguyên tắc này đã được chính thức ghi
nhận lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988 (Điều 10 và Điều 11), trong Hiến
pháp sửa đổi năm 1992 (Điều 72) và BLTTHS năm 2003 (Điều 9 và Điều 10).
Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và cải tư pháp ở nước ta trong giai đoạn mới đồng thời làm cơ
sở pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp năm 2013
đã chính thức thừa nhận các quyền con người bên cạnh các quyền cơ bản của

19



công dân, đồng thời bổ sung nhiều nguyên tắc hiến định mới. Điều 31 của
Hiến pháp mới quy định:
1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật;
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời.., công
bằng, công khai...;
3. Không ai bị kết án hai lần vì một tô ̣i phạm;
4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam... có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa;
5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại... [57].
Vấn đề quan trọng đặt ra là cần xác định nội hàm của nguyên tắc SĐVT
trong Hiến pháp mới và các nội dung (yêu cầu) cụ thể của nguyên tắc này cần
được thể hiện trong BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản và
quan trọng của Luật TTHS Việt Nam. Đây là vấn đề còn có các quan điểm
khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong
Hiến pháp năm 2013 bao gồm cả 5 khoản được quy định tại Điều 31 [27].
Theo quan điểm thứ hai thì nội dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến
pháp mới bao gồm: Quyền được đưa ra xét xử đối với người bị tình nghi
phạm tội cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
phải chứng minh hành vi phạm tội của người đó theo một trình tự luật định và
phải nhanh chóng đưa ra xét xử đúng thời hạn; việc tuyên án phải công khai
kể cả trường hợp xét xử kín [71].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng nội hàm của
nguyên tắc SĐVT chỉ bao gồm nội dung quy định tại khoản 1 Điều 31 của
Hiến pháp mới: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được


20


chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật" [74, tr. 35]. Các quy định còn lại trong Điều 31 Hiến pháp năm
2013 không thuộc nội hàm của nguyên tắc SĐVT mà thuộc nội hàm của các
nguyên tắc khác của Luật TTHS (xét xử kịp thời, công bằng, công khai; pháp
chế XHCN; bảo đảm quyền bào chữa; được bồi thường khi bị oan sai;...).
Với nội hàm của nguyên tắc SĐVT đã đề cập ở trên, có thể thấy nội
dung của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới đã khắc phục được những
bất cập, hạn chế trong quy định của Hiến pháp năm 1992 (Điều 72), cụ thể là:
Một là, việc thay cụm từ "không ai" bằng cụm từ "người bị buộc tội" đã
bảo đảm sự chính xác trong xác định phạm vi các đối tượng được áp dụng
nguyên tắc này (những người có quyền được SĐVT) chỉ bao gồm "người bị
buộc tội" (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo) chứ không phải là
bất kỳ người nào ("không ai") như trong Hiến pháp năm 1992.
Hai là, việc bỏ cụm từ "và phải chịu hình phạt" trong nội hàm của
nguyên tắc SĐVT không chỉ nhằm bảo đảm tính thống nhất, phù hợp với quy
định về miễn hình phạt (Điều 54) của Bộ luật hình sự (BLHS) mà còn bao
quát đầy đủ những trường hợp kết tội bằng bản án nhưng hậu quả pháp lý
khác nhau: bị áp dụng hình phạt và được miễn hình phạt.
Ba là, việc thay cụm từ "bị coi là có tội" bằng cụm từ "được coi là
không có tội" nhằm khẳng định đây là một quyền đương nhiên (quyền con
người) của người bị buộc tội, chứ không phải sự áp đặt (đặc quyền) chủ quan
của cơ quan có thẩm quyền đối với người bị buộc tội.
Bốn là, việc thay cụm từ "khi chưa có bản án..." bằng cụm từ "cho đến
khi có bản án..." bảo đảm tính chính xác của nguyên tắc này: chỉ có một khả
năng duy nhất là "khi có bản án kết tội", loại trừ khả năng thứ hai "chưa có
bản án..." có thể xảy ra (sẽ) "không có bản án".

* Nội dung của nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong Bộ luật tố tụng
hình sự: Các nguyên tắc trong Hiến pháp năm 2013 nói chung và nguyên tắc

21


SĐVT nói riêng chỉ là những tư tưởng chỉ đạo, cơ sở pháp lý mang tính định
hướng cho hoạt động lập pháp nói chung và xây dựng BLTTHS nói riêng.
Mặt khác, việc cụ thể hóa nội dung của các nguyên tắc hiến định này trong
BLTTHS sẽ là căn cứ pháp lý để hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS nói
chung và các quy định cụ thể trong BLTTHS nói riêng. Như chúng tôi đã đề
cập ở trên, nội hàm của nguyên tắc SĐVT trong Hiến pháp mới chỉ bao gồm
quy định tại khoản 1 Điều 31. Vấn đề đặt ra là phải xác định đúng và đầy đủ
các nội dung (yêu cầu) của nguyên tắc SĐVT cần được thể hiện trong
BLTTHS sửa đổi với tư cách là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt
Nam. Đây là vấn đề còn có ý kiến không thống nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc SĐVT trong
BLTTHS chỉ cần thể hiện như quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm
2013 "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật" là đầy đủ.
Quan điểm thứ hai cho rằng, ngoài nội dung quy định tại khoản 1 Điều 31
của Hiến pháp mới, nguyên tắc SĐVT cần thể hiện trong BLTTHS sửa đổi
còn bao gồm các nội dung:
1) Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh về sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh thuộc các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (bao gồm cả Tòa án);
2) Mọi hoài nghi về tội của người bị buộc tội nếu không thể
làm sáng tỏ theo trình tự, thủ tục luật định thì phải xử lý theo hướng
có lợi cho họ [22, tr. 37].

Quan điểm thứ ba về cơ bản nhất trí với quan điểm thứ hai nhưng cho
rằng cần xác định rõ: "Trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuộc về Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra", đồng thời bổ sung thêm nội dung: "Bản án kết tội

22


của Tòa án không được dựa trên những căn cứ giả định" [1]. Quan điểm
khác lại cho rằng ngoài các nội dung như quan điểm thứ ba, cần bổ sung
thêm nội dung: "Người bị buộc tội có quyền im lặng cho đến khi có mặt
Luật sư, người bào chữa theo yêu cầu của họ hoặc được chỉ định theo quy
định pháp luật" [25].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba về các nội dung của nguyên
tắc SĐVT cần được thể hiện trong BLTTHS với lý do sau:
- Nội dung thứ nhất của nguyên tắc SĐVT được ghi nhận tại khoản 1
Điều 31 và phù hợp với quy định của Hiến pháp mới về chức năng của Tòa án
"là cơ quan xét xử..., thực hiện quyền tư pháp" (khoản 1 Điều 102) và nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (khoản 5 Điều 103).
- Nội dung thứ hai của nguyên tắc này cũng được khẳng định trong
Hiến pháp mới: "... cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định". Mặt
khác, theo nguyên tắc tranh tụng thì trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ
bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng này do một nhóm chủ thể
tương ứng thực hiện: các chủ thể của bên buộc tội thực hiện chức năng buộc
tội; các chủ thể của bên bào chữa thực hiện chức năng bào chữa và Tòa án
(HĐXX) thực hiện quyền tư pháp (xét xử). Vì vậy, trong mọi giai đoạn tố
tụng và tại phiên tòa công khai, trách nhiệm chứng minh tội phạm luôn thuộc
về bên buộc tội (Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn dân
sự...). Bên bào chữa (chủ yếu là Luật sư bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
bị đơn dân sự) có trách nhiệm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự cho bị cáo hay giảm nhẹ mức bồi thường. Còn chứng minh về
sự vô tội là quyền hạn chủ quan mà không phải nghĩa vụ của người bị buộc
tội. Tòa án (HĐXX) thực hiện chức năng xét xử nên không có trách nhiệm
chứng minh tội phạm. Tại phiên tòa, nếu đủ chứng cứ buộc tội thì HĐXX ra
bản án kết tội và nếu không có đủ chứng cứ chứng minh tội phạm thì HĐXX
tuyên bị cáo không có tội.

23


- Yêu cầu thứ ba của nguyên tắc SĐVT đòi hỏi sự buộc tội phải dựa
trên những chứng cứ xác thực đã được kiểm tra, xác minh công khai tại phiên
tòa và không còn bất kỳ sự nghi ngờ nào. Mọi sự nghi ngờ về tội phạm nếu
không làm rõ được theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định hoặc khi quy định
pháp luật có thể hiểu khác nhau, thì phải được xử lý theo hướng có lợi cho bị
cáo (ví dụ: nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ
phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ phạm tội nặng nhưng chỉ có
chứng cứ xác định hành vi của họ cấu thành tội nhẹ hơn thì phải xử lý về tội
nhẹ hơn). Việc ghi nhận nội dung này của SĐVT trong BLTTHS không chỉ
xuất phát từ trách nhiệm chứng minh tội phạm mà còn là căn cứ để xử lý dứt
điểm các trường hợp bên buộc tội đã áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho
phép nhưng không thu thập đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, mà còn nhằm
khắc phục tư tưởng "bắt nhầm hơn bỏ sót" đang tồn tại phổ biến trong nhận
thức của các chủ thể tố tụng ở nước ta hiện nay.
Một vấn đề khác có liên quan trực tiếp đến nguyên tắc SĐVT đó là
"quyền im lặng" của người bị buộc tội. Chúng tôi cho rằng quyền này của
người bị buộc tội chỉ là sự cụ thể hóa nội dung thứ hai của nguyên tắc SĐVT
và cần thể hiện trong các quy định của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của
người bị buộc tội. Tuy nhiên, đây là một vấn đề nhạy cảm và đang được dư
luận xã hội đặc biệt quan tâm với các luồng ý kiến khác nhau: Nhiều người

ủng hộ việc ghi rõ quyền này trong Bộ luật, nhưng cũng có không ít người
phản đối. Chúng tôi đồng tình với đa số ý kiến cho rằng nội dung quy định như
trong BLTTHS năm 2015 về quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo: "Được tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội" (các điều 58 - 61)
đã thể hiện đầy đủ quyền của người bị buộc tội và thực chất đây chính là
"quyền im lặng". Quy định như vậy là rõ ràng, minh bạch hơn (so với
BLTTHS năm 2003) vừa giúp bị can, bị cáo thấy rõ quyền của mình và người

24


tiến hành tố tụng cũng thấy rõ nghĩa vụ của mình; vừa khắc phục được tình
trạng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình,... đồng thời tránh được sự lạm
dụng hiểu không đúng quyền này trong thực tiễn [19].
1.1.3. Phạm vi áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, để xác định một
người là có tội phải có đồng thời cả hai điều kiện: 1) Tội phạm của người bị buộc
tội đã được chứng minh theo trình tự luật định; 2) Có bản án kết tội của Tòa án
đối với người đó đã có HLPL. Thiếu một trong hai điều kiện này thì người bị
buộc tội luôn được coi là không có tội. Như vậy, quyền được SĐVT của người
bị buộc tội gắn liền và tồn tại song song với sự buộc tội. Nó chỉ bị triệt tiêu khi
có đồng thời cả hai điều kiện nói trên. Đây cũng là cơ sở để xác định phạm vi
áp dụng nguyên tắc SĐVT về không gian, thời gian, về chủ thể và đối tượng.
* Phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về không gian: Phạm vi này trả
lời cho câu hỏi: Nguyên tắc SĐVT được áp dụng đối với lĩnh vực nào của tư
pháp (hình sự, phi hình sự)? Về vấn đề này có ý kiến cho rằng nguyên tắc
SĐVT được áp dụng đối với cả lĩnh vực tư pháp hình sự và phi hình sự (dân
sự, kinh tế,...). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng SĐVT chỉ liên quan đến vấn đề
xác định một người là có tội hay không có tội. Đây là vấn đề thuộc về lĩnh

vực tư pháp hình sự nên nguyên tắc SĐVT cũng chỉ có thể áp dụng đối với
lĩnh vực tư pháp duy nhất là TTHS, còn lĩnh vực tư pháp phi hình sự (dân sự,
hành chính, kinh tế) chỉ giải quyết các vi phạm, tranh chấp về dân sự, hôn
nhân gia đình, lao động, kinh tế,... không liên quan gì đến vấn đề có tội hay
không có tội nên không thể áp dụng nguyên tắc SĐVT.
* Phạm vi áp dụng nguyên tắc SĐVT về thời gian: Phạm vi áp dụng
về thời gian của nguyên tắc SĐVT trả lời cho câu hỏi: Nguyên tắc này được
áp dụng đối với các giai đoạn nào của quá trình TTHS?
Về vấn đề này, quan điểm thứ nhất cho rằng, nguyên tắc SĐVT được
áp dụng từ thời điểm một người bị chính thức buộc tội bằng một văn bản tố

25


×