Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Những kỷ niệm nghề châm cứu thuốc nam hồi ký chữa bệnh bằng đông y của lê văn sửu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.01 MB, 195 trang )

Thư ngỏ.
Gửi những người, những miền đất
tôi đã một thời chung sống.

Tập hồi ký “ Những kỷ niệm nghề châm cứu, thuốc nam . là kỷ niệm của
riêng tư, là lòng yêu mến, kính trọng những người, những miền đất tôi đã có
một thời chung sống.
Đến ngày nay ai còn, ai đã mất, tôi đều không được biết tin. Miền đất
nào còn hoang sơ, nguyên vẹn, hay tất cả đã đổi thịt, thay da, tôi cũng chưa
có dịp ghé qua, thăm lại.
Thấm thoát đã gần 40 năm xa cách, cuộc đời tôi nhiều vật lộn, thăng
trầm. Nhưng từ mùa thu năm 2002, có những lúc nỗi niềm trỗi dậy, thúc
giục tôi nhớ đến truyện những ngày xưa. Nỗi nhớ, niềm thương cứ xen vào
công việc, nên gần 4 năm trôi đi, tôi mới ghi được ngần này. Chừng một vài
tên ai đó tôi không còn nhớ ra được, mong kẻ còn, người đã mất, thấu cảnh,
thương tình mà đại xá cho tôi.
Cúi xin thành tâm kính cáo.
Hà Nội, ngày xuân 2006.
Khiên Ngưu Tử - Lê Văn Sửu.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


Lời tựa.
Tập truyện ngắn “ Những kỷ niệm nghề thuốc nam, châm cứu” này là
hồi ký của một người vốn làm nghề Mỹ thuật. Nghề Mỹ thuật của tôi được
đào tạo bài bản, chính quy trong một nhà trường danh tiếng đất ngàn năm
văn hiến : Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Việt Nam ( tức trường Đại học Mỹ
Thuật Hà Nội ngày nay ).
Thủa còn nhỏ, tôi rất ham mê tập vẽ. Từ khi có hoạ sỹ thương binh Ngô
Thúc Dung về làng nghỉ dưỡng, ông dạy chữ và dạy vẽ cho chúng tôi, lòng


ham mê học vẽ trong tôi càng được nhân lên gấp bội.
Năm 1953, khi vừa đủ tuổi đầu quân, tôi nhập ngũ tại Phòng Quân y Sư
đoàn 320, định mệnh nghề Y đã bắt đầu dành cho tôi từ đó.
Nhưng thật trớ trêu, tôi đâu sớm nhận ra điều ấy. Sau khi hòa bình lập
lại, tôi vẫn còn ham muốn nghề vẽ trong lòng. Giải ngũ về quê được chừng
một năm rưỡi (1960), tôi đã khăn gói quả mướp lên Hà Nội, thi đậu vào
trường Mỹ Thuật Việt Nam.
Định mệnh nghề y cứ lặng lẽ bám theo tôi, nó xuất hiện dần dần, từ việc
bản thân tôi mắc bệnh vặt, tôi đã tự chữa cho tôi, rồi đến mọi người nhờ tôi
chữa bệnh vặt cho họ. Tôi vừa học nghề Mỹ thuật, vừa đọc sách Đông y, và
tôi chữa bệnh theo những gì học được trong sách.
Tôi tốt nghiệp trường Mỹ Thuật, cũng là khi cuộc chiến tranh chống Mỹ
đ• đến hồi ác liệt (1966), tôi tình nguyện vào công tác ở Miền Nam. Hơn 6
tháng trời tôi đi trên đường Trường Sơn, tiếp theo là gần tròn 6 năm ở vùng
Cực Nam Trung Bộ. Thấy có mặt tôi ở đâu, lập tức cán bộ quân y, dân y
đều vui vẻ với tôi. Chúng tôi, khi thì cùng nhau xử lý một bệnh khó, nhưng
không có thuốc đặc hiệu để chữa, khi thì họ giảng giải bệnh học theo sách
Tây y cho tôi nghe. Tình nghĩa với nhau cứ như tôi đã là đồng nghiệp của
họ từ xa xưa rồi, chẳng còn gì là cách biệt nữa.
Năm 1972, tôi được lệnh trở ra miền Bắc an dưỡng. Tới đầu năm 1974,
sức khoẻ tôi đã tạm phục hồi, tôi về lại nghành Mỹ thuật làm công tác là lẽ
đương nhiên, cơ quan tổ chức nghành và tôi đều dễ dàng đồng ý.
Cơ quan tôi mới về làm việc là Cục Mỹ thuật, chức danh của tôi là cán
sự. Sau đó ít lâu (1978), tôi được điều động sang Trường Cao đẳng Mỹ
Thuật, làm giảng viên trong khoa Điêu Khắc, nơi trước đó 12 năm, tôi từ đấy
ra đi. Cho tới năm 1981, tôi chủ động xin nghỉ hưu, đề nghị của tôi lập tức
được Giám đốc trường chấp thuận.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn



Có ai biết được rằng, từ khi trở về nghành cũ làm công tác, tôi vẫn không
bỏ nghề chữa bệnh hàng ngày. Có người chỉ coi đó là nghề tay trái của tôi.
Một sự đột biến mới của đời tôi đã sảy ra vào năm 1983. Đó là việc Học
viện Quân y thuộc Bộ Quốc Phòng tìm đến tôi. Họ mời tôi tham gia đề tài
cấp nhà nước số 48070203, do khoa Sinh lý Lao động Quân sự của Học viện
phụ trách. Họ trao cho tôi làm cố vấn lý luận Phương Đông trong Y học, Võ
thuật và Dưỡng sinh học cổ truyền. Từ đây, thần định mệnh nghề Y đã kéo
tôi tuột khỏi bàn tay vị thần cai quản nghệ thuật, nhấn sâu đời tôi vào mọi
công việc nghề y. Thế rồi những việc đọc sách, làm thực nghiệm theo yêu
cầu của đề tài, dạy lý luận, chữa bệnh, truyền kinh nghiệm thực hành chữa
bệnh, tôi đều phải làm xen kẽ nhau, làm liên tục không ngừng.
Khi ảnh hưởng của công việc tôi làm ngày càng rộng mở, một yêu cầu
mới đã đặt ra cho tôi cần phải tiến hành ngay. Đó là những kiến giải riêng
trong nghiên cứu, những bài giảng lý luận, những phương huyệt chữa bệnh
hiệu quả, tôi gom chúng thành từng chuyên đề, in thành sách, cho phát hành
rộng rãi.
Nhận thấy, ở trong phần “ những phương huyệt kinh nghiệm ” lấy từ các
bộ sách quý, tôi đều ghi chép vào cẩn thận, khá nhiều. Khi hướng dẫn tìm
huyệt ở trên người thật, tôi luôn nhắc về tác dụng phối hợp giữa huyệt này
cùng với một, hoặc nhiều huyệt nào đó, sẽ có thêm nhiều tác dụng khác
nhau. Nhưng học viên dễ nhớ nhất vẫn là những câu truyện chữa bệnh cụ
thể. Vì thế, tôi nảy ra ý định viết lại những kinh nghiệm của tôi tiến hành
chữa bệnh ở đâu đó, trong thời gian hơn 40 năm qua.
Chữa bệnh đã là nghề tay trái của tôi, viết lách về nghề chữa bệnh lại là
bên trái của tay trái tôi. Nhưng tôi vẫn cứ viết. Bởi vì mỗi lần tôi chữa cho
một người bệnh ở một vùng khác nhau, hoàn cảnh sống của họ khác nhau,
thời gian khác nhau, nhưng tất cả đều là kỷ niệm sống động, khó quên của
riêng tôi.
Tôi viết lại những kỷ niệm này vừa là cho riêng tôi, lại còn là những ví

dụ cụ thể cho người tập chữa bệnh bằng phép châm cứu. Cho nên ở mỗi
bệnh, từ chứng biểu hiện, diễn biến của chứng trạng, đến chẩn đoán bệnh
danh, chọn phương huyệt, dùng thủ pháp bổ hay tả, kết quả chữa ra sao, tất
thảy tôi đều ghi lại rất rõ ràng.
Phải đánh vật với chữ nghĩa, nên văn tôi viết không tránh khỏi lỗi vần, sai
luật. Nhưng những gì về kinh nghiệm chữa bệnh, tôi thật lòng không dám
dấu nghề mà mô tả đơn sai.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


Đôi lời tâm huyết, mong người đọc sách mở lòng.
Tác giả

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


Lời đề dẫn
Sau khi tập hồi ký “Những kỷ niệm nghề châm cứu, thuốc Nam” của tôi
hoàn thành được phần đầu, nhân ngày 20 tháng 11 năm 2005, tôi đ• cho anh
chị em môn sinh các khoá sao chép. Tôi cũng sao chép một số bản, đem
tặng bạn bè.
Những ý kiến phản hồi cho biết, 30 câu truyện là 30 bài kinh nghiệm chữa
bệnh rất cụ thể, rất có ích cho người trong nghề.
Đầu năm 2006, Hội người cao tuổi Việt Nam, gửi giấy mừng thọ 70 tuổi
cho tôi. Tôi chợt thấy thời gian còn lại ở đời của mình rất đáng quý. Tôi
phải ghi lại những gì trước khi tuổi già có thể làm tôi quên đi. Mong muốn
những kỷ niệm của cá nhân tôi sẽ đem lại một đôi điều có ích cho mọi
người, nên tôi đã ghi lại được thêm 34 mẩu truyện nữa, đó cũng là 34 bài
kinh nghiệm chữa bệnh.

Với 30 truyện ở tập trước, có thêm 34 truyện ở tập này, gộp lại thành 64
truyện. Trong đó, có nội dung của nhiều mặt bệnh và phép chữa bệnh ở đủ
các khoa: Nam, phụ, lão, ấu, ngoại cảm, nội thương ...
Có bạn hỏi tôi : “Đã qua hơn 40 năm, chắc hẳn, số người được ông chữa
cho khỏi bệnh, không phải chỉ có 64. Nhưng vì sao những chuyện ông viết
lại, ông đã dừng ở con số đó?” Tôi trả lời người bạn của tôi rằng : Kinh
Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ gồm 2 quái, quái thượng và quái hạ. Mỗi quái lại
có 3 hào, vị chi mỗi quẻ dịch có 6 hào. Do vị trí của hào dương, hào âm ở
trong mỗi quái khác nhau, biến hoá âm dưong đó làm cho kinh Dịch đủ sức
diễn tả mọi biến hoá của vạn sự, vạn vật trong vũ trụ. Người làm tướng, nhờ
có tài biến hoá âm dương của quân cơ, quân ngũ ở 8 cửa trận, nên đã vây
hãm được quân địch. Chúng ở trong trận đồ bát quái trùng trùng, điệp điệp
mà không tìm thấy lối ra. Cuối cùng, chúng dành chịu bó giáo quy hàng. 64
câu truyện tôi viết lại, tuyệt nhiên không có ý định làm ra y án.Vì đã là y án,
tất phải có dương án, âm án. 64 phương huyệt trong truyện được tôi ngụ ý
như 64 quẻ Dịch. Mỗi huyệt trong một phương được coi như một hào trong
quẻ dịch. Một huyệt trong mỗi phương khác nhau, lại dùng đến tác dụng
chủ trị khác nhau của nó, như sử dụng tính chất âm dương khác nhau của
mỗi hào, trong mỗi quái của quẻ Dịch. Nhưng về truyện, lại là những kỷ
niệm rất riêng tư, đáng nhớ, ở nhiều thời gian và hoàn cảnh sống khác nhau
của đời tôi.
Trong các truyện kể trên, còn một điều tôi tâm đắc là: “Muốn chữa bệnh
bằng châm cứu đạt kết quả, phải chẩn đoán đúng, lấy huyệt đúng, và làm thủ

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


pháp châm kim đúng. Về phía người bệnh, cần phải đặt lòng tin vào thầy
thuốc và tuân theo những điều thầy thuốc hướng dẫn kiêng khem trong ăn
uống, sinh hoạt, nghỉ ngơi...” Những kinh nghiệm tôi đã viết ra đó, tuy có

nói đến các thủ pháp, nhưng chưa nói cụ thể thao tác khác nhau của từng thủ
pháp khác nhau. Cho nên ở cuối tập này, tôi trích thêm phần “Thủ pháp bổ,
tả của châm kim” trong sách “Cẩm nang chẩn trị Đông y – Dùng thuốc và
châm cứu” đưa vào cho trọn vẹn mong muốn của tôi.
Bạn bè và đồng nghiệp đọc tập hồi ký này, xin cho tôi đôi lời chỉ giáo.
Tôi thật lòng cảm tạ.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


1 - Chữa bệnh mắt vàng
Một buổi chiều mùa thu năm1965, thủa tôi còn là sinh viên trường Cao
đẳng Mỹ thuật Hà Nội, theo trường sơ tán về thôn Hữu Định, xã Quang
Minh, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Hà Bắc cũ (phần đất Bắc Giang ngày nay).
Trong lúc tôi đang làm việc, bỗng có ông Tô Duy là bạn học cùng khóa, bên
khoa hội hoạ đến tìm tôi, nhờ tôi sang chữa bệnh cho con gái chủ nhà, nơi
ông ở nhờ.
Khi tôi tới, ông Tô Duy gọi cô gái chừng 13-14 từ trong buồng bước ra.
Tôi hơi sửng sốt, khi nhìn thấy mắt cô ta rất lạ. Lòng trắng mắt cô như một
tàu lá vàng ươm. Lòng đen mắt cũng đã bắt đầu chớm vàng. Thần của mắt
cũng hơi đờ đẫn. Tôi hỏi ông Tô duy xem ông đã phát hiện ra chứng này ở
cô bé từ bao lâu. Ông Tô nói : “Có lẽ chưa đầy một giờ đồng hồ, bởi vì mới
xế trưa nay tôi còn thấy mắt cô bé rất bình thường.”
Tôi chợt tính rằng ở đây cách bệnh viện huyện trên phố Thắng dài hơn
tám cây số đường đồi, trời lại sắp tối, cần gặp ông chủ nhà để bàn cách đưa
đưa cô bé đi bệnh viện ngay. Vừa lúc đó thì ông chủ về, tôi liền nói với ông
như quyết định : “Ông đi mượn ngay một cái võng, hai cái xe đạp, chuẩn bị
một cây tre buộc võng, để đưa cô bé đi bệnh viện cho kịp thời.”
Trong khi ông chủ nhà đi mượn võng và xe đạp, tôi mở quyển sách Châm
cứu tư sinh kinh, tra đến mục “Mục hoàng.” Sách viết rằng : “Não hộ, Chí

dương, Đảm du, ý xá, trị mục hoàng.” Tôi vội lấy kim, sát trùng rồi châm
các huyệt kể trên, lưu kim, vê kim kích thích tả pháp, lần lượt theo đúng thứ
tự trước sau.
Qua chừng mươi phút, ông chủ nhà và bà con dắt về hai xe đạp đã buộc
sẵn võng, dựa ở tường hoa trước sân. Cũng lúc ấy, ông Tô Duy reo lên kinh
ngạc : “ồ mắt đã trắng trở lại rồi.” Chả là khi tôi châm kim, ông Tô Duy và
vài người nữa ngồi phía trước mặt cô gái, họ chăm chú theo dõi đôi mắt của
cô. Nghe tiếng reo ấy, tôi cũng ngừng tay vê kim, đứng dậy đi vòng sang
phía trước cô gái để quan sát. Quả nhiên thấy đúng như thế.
Lúc này ông chủ và bà con từ ngoài sân ùa cả vào nhà.Tôi nói với ông chủ
một cách nửa tin tưởng, nửa dè chừng rằng : “Có lẽ chưa nên đưa em đi
bệnh viện ngay lúc này, cũng không nên trả xe đạp và võng. Hãy đợi tối nay
tôi sang châm cho em một lần nữa, nếu sáng mai bệnh không trở lại thì ta có
thể yên tâm chữa ở nhà. Nếu thấy bệnh trở lại, ta đưa em đi bệnh viện cũng
còn kịp, vì hiện giờ này thấy bệnh của em đã đỡ nhiều.”
Sáng hôm sau tôi sang thăm bệnh cho cô gái, thấy mắt cô trắng và thần thì
trong sáng như chưa có bệnh. Tuy vậy tôi vẫn châm cho cô gái một lần nữa,
từ đó bệnh khỏi hẳn.
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


Cuối năm 1973, sau khi từ chiến trường Miền Nam ra, tôi trở lại thăm
thôn Hữu Định, thăm chủ nhà tôi ở nhờ, và thăm bà con trong thôn, những
người đã giúp đỡ tôi thời gian sơ tán ấy. Trong lúc tôi đang vui chuyện cũ,
mới với mọi người, chợt thấy một ông tóc đã muối tiêu nhảy vọt qua bức
tường hoa, từ sân nhà bên ông đi tắt sang cho nhanh. Ông nhìn tôi và hỏi tôi
: “Anh Sửu còn nhớ tôi không?.”Rồi không đợi tôi trả lời, ông đã nói tiếp :
“Tôi là bố con bé bị bệnh mắt vàng mà anh đã chữa cho ngày ấy. Cháu đã
lấy chồng, có con rồi . Anh Sửu à, suốt từ đấy đến bây giờ mắt của cháu
không bị vàng lại nữa.”

Ngày nay, với học viên, mỗi khi dậy đến bệnh gan, mật, tôi thường kể lại
chuyện này để nhắc cho học viên biết quý bộ sách Tư sinh kinh. Nhiều
phương kinh nghiệm của cổ nhân ghi trong sách đó, tôi dùng chữa cho bệnh
nhân đều có hiệu quả m•n ý. . Tôi cũng không quên nhắc lại một nguyên tắc
: Muốn khai thác giá trị của phương kinh nghiệm, trước hết, phải khai thác
từ mỗi du huyệt trong phương đó.
Theo phần Du huyệt học trong sách này, cũng như ở các bộ sách dạy
châm cứu khác nói chung, tác dụng chủ trị của huyệt đều được ghi đầy đủ.
Các tác dụng đó được quy vào mấy mặt sau đây :
1- Tác dụng vào bệnh tạng phủ bên trong tương ứng với vị trí của huyệt (nếu
huyệt nằm ở vùng lưng trên, lưng dưới, ngực, bụng).
2- Tác dụng vào bệnh tại chỗ, lân cận và những nơi đường kinh đó đi qua.
Đồng thời tác dụng đến tạng phủ sở thuộc của đường kinh đó.
3- Tác dụng đặc hiệu đến nơi có bệnh ở rất xa (gọi là tác dụng viễn đạo),
hoặc bệnh ở những đường kinh khác, không có quan hệ tạng phủ, kinh lạc
biểu lý nhau với đường kinh sở thuộc.
4- Có những huyệt không nằm trên đường kinh nào, nhưng lại có tác dụng
đặc hiệu lạ lùng, gọi là Kinh ngoại kỳ huyệt.
5- Nhiều sách xuất bản gần đây, sau những chủ trị của huyệt, còn ghi thêm
tác dụng phối hợp của huyệt, thực chất là những phương kinh nghiệm.
Trong đó, có phần tác dụng của bản huyệt góp vào cùng tác dụng của các
huyệt khác trong phương.
Về trị liệu, ta thấy : Một huyệt có tác dụng chủ trị nhiều loại bệnh; một
bệnh có thể dùng nhiều huyệt để trị. Do vậy, một phương trị hiệu quả bệnh
nào đó, thường là một tập họp giá trị đặc hiệu của số huyệt trong phương với
bệnh đó.
Từ đây cho tới hết tập truyện, mỗi phương kinh nghiệm, ta đều cùng nhau
phân tích theo cách nêu trên. Bắt đầu từ phương huyệt chữa bệnh mắt vàng
này.
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn



- Huyệt Não hộ - Cấm châm đứng kim, cấm cứu. Cứu làm cho người ta
câm. Châm đứng kim vào não là chết ngay. Phải châm kim luồn dưới da,
mũi kim chếch từ dưới lên. Chủ trị :... mặt đỏ mắt vàng; ,,, - Huyệt Chí
dương. Chủ trị : viêm gan, viêm túi mật, giun chui ống mật...vàng da - Huyệt
Đảm du - Chủ trị : Viêm gan, viêm túi mật, giun chui ống mật, mát vàng,
hoàng đản - Huyệt ý xá - Chủ trị : bệnh gan, viêm gan, viêm túi mật, mình
nóng mắt vàng. Tổng hợp tác dụng chủ trị của 4 huyệt trong phương, đã cho
hiệu qủa chữa chứng mắt vàng rất tốt. Cũng qua đây, ta lại thấy được, các cụ
xưa nhận thức đúng như khoa học ngày nay : Chứng mắt vàng là do bệnh ở
gan, mật.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


2 - Chữa bệnh sốt rét sưng lá lách .

Mùa thu năm 1966, đoàn cán bộ mang ký hiệu K.19 của tôi đi B6, hành
quân trên đường mòn Hồ Chí Minh, đến địa phận binh trạm 4.
Theo thường lệ, hàng ngày, khi tới bãi khách, chúng tôi lo nấu cơm ăn,
căng tăng võng nghỉ ngơi. Tối hôm đó, ông Hiếu, dược sỹ cao cấp, công tác
ở trường Đại học Y Khoa Hà Nội, đi cùng đoàn (bấy giờ chúng tôi thường
gọi nhau bằng đồng chí, hoặc anh, đến nay ông cũng trạc tuổi tôi rồi, nên tôi
gọi bằng ông cho phải) tới nói với tôi :“ Đồng chí Sửu à, tôi vừa gặp một
ông chính uỷ binh trạm 4. Ông là người đồng hương Hà Tĩnh của tôi. Ông
ấy bị sốt rét, lá lách sưng độ bốn, người yếu lắm. Ông đang có cơn sốt mà
vẫn phải vào binh trạm 5 để họp. Từ hôm nay, ông ấy đi cùng cung đường
với đoàn ta. Khi gặp tôi ( tức ông Hiếu ), biết tôi là dược sỹ cao cấp chính
hiệu, lại là đồng hương, ra đi từ Hà Nội, ông ấy hỏi tôi xem có thuốc gì hiệu

quả hơn những thuốc thường dùng hiện nay hay không? Tôi nói với ông ấy
rằng, số thuốc tôi mang theo cũng chỉ là thuốc phòng và chữa sốt rét, mọi
người đều được cấp phát như nhau.
Nhìn thấy ông ấy mang bệnh nặng, mình là dược sỹ mà không có loại
thuốc gì giúp được, trong lòng tôi buồn lắm. Đồng chí thử dùng phép châm
cứu để chữa giúp ông ấy, cũng là giúp tôi mà.”
Nể lòng ông Hiếu, vì ông vốn rất quý tôi. Hàng ngày, khi đi qua những
nơi có cây thuốc, ông thường hái lấy rồi chỉ bảo cho tôi. Ông như một ông
giáo dạy nghề tận tuỵ, vô tư, nên tôi đã nhận lời đề nghị của ông. Ông Hiếu
liền đi làm công tác tư tưởng cho vị chính uỷ nọ, để ông này chấp nhận cách
chữa của tôi. Hồi đó, châm cứu chữa bệnh chưa được phổ cập như ngày
nay, không phải ai cũng biết và tin tưởng. Từ đấy mỗi ngày hành quân tới
b•i khách mới, tôi nhờ đoàn viên cùng tổ ba người với tôi, giúp việc thổi
cơm, nấu nước, thay cả phần việc khác của tôi, để tôi đi chữa bệnh.
Theo sách Châm cứu học tôi mang theo, trong phần trị liệu học, bệnh này
phải cứu bằng mồi ngải ở ba huyệt :Tỳ du, Bĩ căn, Chương môn. Nhưng
trong thực tế của hoàn cảnh hành quân mang nặng, trèo đèo, lội suối cả
ngày. Tới nơi để tạm nghỉ qua đêm thì đã quá mệt, nên tôi thay phép cứu
bằng ôn châm cho đỡ tốn thời gian, ở mỗi cán kim, tôi đốt 2 mồi ngải nhỏ.
Đồng thời, để tăng hiệu quả trong một số ngắn ngày, tôi đ• thêm huyệt Công
tôn vào trong phương này.
Điều kỳ diệu đã đến với ông chính uỷ là, sau đêm ôn châm đầu tiên, sang
ngày hôm sau, mặc dù chưa phải là đã khỏi được như người bình thường,
nhưng ông tự thấy tỉnh táo hơn, bước chân leo đồi, vượt dốc của ông cũng
đã nhẹ nhàng hơn. Sau lần ôn châm thứ hai, đến sáng ngày hôm sau, ông đã
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


đòi người cần vụ đưa chiếc ba lô của ông để ông đeo cho dễ đi. Cái ba lô
của ông tuy chẳng nặng nề là bao, nhưng trước đó, nó đã phải để người cần

vụ đặt lên trên cái ba lô vốn qúa nặng nề và cồng kềnh của anh.
Ngày thứ ba, đoàn chúng tôi và ông đi đến một trạm mà từ đó ông rẽ
đường về nơi ông họp.Trạm này vốn không phải là nơi chúng tôi được nghỉ
lại cách ngày. Nhưng vì nhu cầu chữa bệnh cho ông, ông đã hội ý để ban
chỉ huy trạm bố trí bãi khách, mời đoàn chúng tôi nghỉ lại. Đồng thời, kết
hợp chữa cho ông lần thứ ba, thứ tư vào tối hôm đó và cả tối hôm sau nữa.
Trong ngày nghỉ lại ở trạm, ông chính uỷ đã nhờ chiến sỹ giao liên của
trạm đưa hàng hoá vào buôn đồng bào gần đó, đổi lấy gà và gạo nếp. Ông
giao cho trạm nấu cơm, làm gà, mời ban chỉ huy đoàn K.19, tôi và ông Hiếu
vào liên hoan với ông. Ông còn bàn với trạm cung cấp thêm cho cả đoàn một
số lương khô, mắm ruốc, v.v.... Điều này là một cử chỉ đặc biệt, ngoại lệ
thông thường của binh trạm.
. Trong cuộc chuyện trò, ông chính uỷ không thể dấu được nỗi vui mừng,
tin tưởng, khi ông kể về cảm giác sức khoẻ của mình. Ông thấy đã có nhiều
thay đổi tốt lên. Để chứng nghiệm việc này, bác sỹ trưởng đoàn tên là Minh,
nguyên giữ chức phó bệnh viện trưởng bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, ông đã
hăng hái sờ nắn, kiểm tra lâm sàng vùng gan, lách ông chính uỷ. Sau đó, ông
đã có lời nhận xét rằng :
“ Thật là hiệu quả. Gan và lách của chính uỷ đã nhỏ đi rất nhiều.”
Đêm đó, tôi nói truyện với bác sỹ Chính trong đoàn về câu truyện trong
trạm giao liên. Tiếp theo, tôi phân tích phương huyệt theo du huyệt học,
muốn để ông hiểu thêm về tác dụng của mỗi huyệt trong phương, như :
Huyệt Tỳ du - Chủ trị : gan, lách sưng to, cổ trướng ; tích tụ bĩ khối, sốt
rét lâu ngày... Huyệt Bĩ căn (loại huyệt lạ ngoài kinh) – Chủ trị : Gan, lá lách
sưng to, Huyệt Chương môn – Chủ trị : Lá lách sưng to... Huyệt Công tôn
(loại lạc huyệt của kinh tỳ, chuyên trị bệnh mạn tính của tạng phủ sở thuộc)
– Chủ trị :…sốt rét; sốt thể lạnh...
Tổng hợp tác dụng của 4 huyệt trên, chữa hiệu qủa nhanh chứng bệnh sốt
rét sưng lá lách của ông chính ủy, mọi người đều đã chứng nghiệm hôm nay.
Thưa các bạn, kinh nghiệm lần đầu đó, sau này đã giúp tôi chữa được

nhiều ca bệnh của đồng đội sốt rét, gan lách sưng to như thế. Trong suốt
hơn năm năm trời ở nơi rừng sâu, nước độc của miền Cực nam Trung Bộ,
kinh nghiệm này đã là chất keo gắn bó tôi với đồng đội. Cho đến sau này,
khi trở về miền Bắc, con gái tôi và học viên của tôi cũng theo phương đó,
chữa cho nhiều anh em đi bộ đội nghĩa vụ phục viên, những thanh niên đi

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


đào vàng, đào đá quý trở về, nếu bị mắc bệnh sốt rét rừng, có gan lách sưng
to, họ đều được chữa khỏi sau từ bảy đến mười ngày.
Bệnh sốt rét rừng, có sưng gan lách hiện nay đang còn nhiều, tôi ghi lại
chuyện này, cũng là ghi lại một phương đã có nhiều kiểm chứng để đồng
nghiệp tham khảo thử dùng

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


3 - Chữa bệnh nhiệt nhập tâm bào, người bệnh sốt cao, thấy hình ảnh lạ
đe doạ.

Khoảng giữa mùa xuân năm 1970, toàn cơ quan chúng tôi có chuyến đi
vận chuyển lương thực, từ một vùng căn cứ của tỉnh Bình Thuận, về căn cứ
của tỉnh Tuyên Đức, nằm ở phía nam huyện Đơn Dương (thuộc tỉnh Lâm
Đồng ngày nay).
Trên tuyến đường rừng này, có một đoạn phải đi qua trảng tranh (rừng
tranh bằng phẳng, không có cây lớn) mất tám gìờ đồng hồ. Khi qua đây, tất
cả mọi cuộc hành quân đều phải đi vào ban đêm, bởi vì ban ngày máy bay
đầm già (máy bay do thám) và tầu gáo (một loại trực thăng lùng sục, có thể
bay thấp len lỏi vào các khe suối, bãi trống nhỏ) thường xuyên bay lượn

quan sát, nếu thấy có gì khả nghi là chúng bắn rốc két, có bóng người là
chúng đổ trực thăng vây bắt cho bằng được.
Đêm ấy chúng tôi đi qua trảng tranh, chỉ huy không dám cho giải lao giữa
chừng. Chỉ được phép tạm dừng khi có nhu cầu vệ sinh cá nhân hàng loạt.
Vì thế khi chưa đi hết trảng tranh chúng tôi đã quá mệt. Nhưng ở nơi hết
trảng tranh lại tiếp nối một đoạn dốc cao và dài. Chỉ huy yêu cầu chúng tôi
phải vượt lên đỉnh dốc, vào sâu trong rừng già mới được nghỉ chân, tìm nơi
có nước nấu ăn để còn đi tiếp.
Ai đã từng hành quân mang nặng, leo dốc mới thấy được tư thế đi hợp lý
nhất là thân hơi cúi xuống, đầu đưa cằm ra, mũi thở đều, mắt nhìn vào lưng
người đi trước. Và tất nhiên là từng bước chân phải được đặt vững vàng rồi
mới rướn người đưa chân lên phía trước. Cảnh tượng im lặng, thận trọng của
đoàn người ngoằn nghoèo, di chuyển chậm chạp lên dốc, vừa có vẻ nặng nề,
mệt mỏi, lại vừa có vẻ cảnh giác đề phòng mọị bất trắc. Đúng lúc cả đoàn
quân lên tới lưng chừng chừng dốc, tổ xích hầu (tổ vũ trang sẵn sàng chiến
đấu) đi trước, chỉ còn cách bìa rừng đầu trên của dốc chừng dăm chục mét,
bỗng dưng có một tiếng hô lớn : “biệt kích.” Tiếng hô ngắn gọn, dứt khoát.
Chúng tôi như một phản xạ thành thạo, tất cả đều đồng loạt nằm xuống ngay
tại chỗ, tai thì lắng nghe mọi tiếng động khác lạ, mắt thì hướng về phía bất
kỳ, do tư thế mỗi người đ• tự nằm xuống để quan sát, thăm dò.
Chừng dăm bảy phút sau chúng tôi được lệnh đứng dậy đi tiếp. Vừa đi,
chúng tôi vừa nghe thông tin từ đầu đoàn quân truyền xuống rằng, có một
chú vệ binh trẻ đi đầu hàng quân bị sốt cao, tâm thần hoảng hốt. Khi chú hô
xong tiếng “ biệt kích ” liền tự động nằm xuống, và mọi việc đã xảy ra như
vừa kể ở trên. Thật là gặp một phen hú vía.
Tối hôm đó, khi về đến căn cứ, anh Nghị là y sỹ cơ quan đến cho tôi biết,
chú lính đó bị sốt cao mê sảng, vẫn luôn tay chỉ về mọi phía mà nói : “biệt
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn



kích kia kìa, nó đang cầm dao định chém cháu”. Khoảng gần trưa hôm sau,
y sỹ Nghị lại đến gặp tôi nói rằng, anh đã cho cháu uống thuốc hạ sốt, thuốc
cắt cơn sốt rét, nhưng bệnh tình vẫn chưa giảm. Anh tỏ vẻ lo lắng gi•i bày
rằng : “Cháu Thanh này tuổi còn rất nhỏ, nhà ở ấp Thanh Bình, ngoại thành
Đà Lạt, tham gia cách mạng từ đợt hai tổng tấn công Mậu Thân, cùng với
mấy chục thanh niên trong ấp. Nếu không chữa cho cháu khỏi bệnh thì sẽ
ảnh hưởng tới tinh thần của cả lứa đó. Đã có cháu xì xào với nhau, cho rằng,
ma rừng ếm chú linh đó rồi đấy.” Dừng lời một giây lát, y sỹ Nghị dè dặt
nói với tôi : “Anh Sửu xem sách thử, nếu có cách gì thì chữa giúp tui.”
. Thường ngày, tôi tuy có biết châm cứu và có sách châm cứu mang theo,
nhưng tôi không bao giờ tỏ vẻ lấn sân công việc của y tế cơ quan. Chỉ tham
gia khi có yêu cầu của các cán bộ chuyên môn. Lần này cũng thế khi anh
Nghị yêu cầu, tôi liền mở sách và tìm được nhóm huyệt chữa chứng nhiệt
nhập tâm bào, sốt cao mê sảng, sinh ra ảo thính, ảo thị, là các huyệt Tâm du,
Thần đạo, Thiên tỉnh. Sau khi anh Nghị dẫn cháu Thanh tới, liền giúp tôi
sát trùng kim và huyệt vị. Tôi châm cả năm cây kim theo thứ tự : Thần đạo
rồi đến Tâm du cả hai bên, sau cùng là Thiên tỉnh cả hai bên.
Cứ năm phút tôi lại vê kim kích thích tả pháp một lần. Lâu lâu, khi thấy
cháu nhìn không ngơ ngác nữa, tôi hỏi cháu : “Cháu còn thấy biệt kích nữa
không ?.” Cháu tỉnh táo nói : “Không thấy nữa ạ.”
Tôi nói với anh Nghị kẹp nhiệt kế vào nách xem đã hạ sốt chưa. Anh
Nghị lấy nhiệt kế ra, kẹp cẩn thận xong chúng tôi cùng ngồi trao đổi về cơ
chế bệnh này theo lý luận Đông y.
Theo thói quen nghề nghiệp, anh Nghị đợi đủ thời gian kỹ thuật quy định
mới lấy nhiệt kế ra xem. Anh nói : Giảm sốt rồi, chỉ còn 37,6 độ C. Tôi hỏi
để so sánh : Khi chưa châm kim, nhiệt độ sốt của cháu bao nhiêu. Anh Nghị
nói : “Lúc cao nhất là 39,8 độ C.” Trong khi tôi rút kim thì anh Nghị giúp
tôi thu dọn đồ nghề, sách vở và nói : “May quá !. Thiệt là tài tình !.” Thấy y
sỹ Nghị còn lạ lẫm với phép châm cứu, tôi đã phân tích tác dụng của số
huyệt trong phương, theo du huyệt học cho anh Nghị nghe. Tôi nói : “Huyệt

Tâm du – Chủ trị : Tim bồn chồn, tim đập mạnh, bệnh tim do phong thấp,
tim động quá nhanh bệnh thần kinh chức năng tâm khí hoảng hốt; tâm trúng
phong, tâm ngực bứt rứt. Huyệt Thần đạo – Chủ trị : bệnh nhiệt; bệnh tâm
tạng, thương hàn phát nhiệt, Huyệt Thiên tỉnh – Chủ trị : sốt rét, điên tật; tim
ngực đau nóng rét rầu rầu; Không vui hồi hộp.
Tổng hợp lại, phương huyệt đã làm lên tác dụng thần kỳ như anh Nghị đã
thấy đấy. Anh nói với tôi : “Hết chiến tranh, tôi nhất định sẽ xin đi học châm
cứu anh à.” Tôi động viên anh Nghị : “ Hoà bình rồi, chúng ta còn có thể
học được nhiều thứ, chẳng riêng gì một môn châm cứu.”

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


Cho tới gần trưa ngày hôm sau, đón chừng trước cơn sốt có thể sảy ra, tôi
và anh Nghị lại châm cho cháu Thanh, cũng lưu kim kích thích như ngày
hôm trước. Thế rồi cơn sốt và ảo thị, ảo thính đã không sảy đến ở cháu ấy
nữa .
Từ đó tới nay phương huyệt này đã được tôi sử dụng chữa cho nhiều
bệnh nhân sốt cao mê sảng, có ảo thính, ảo thị. tất cả đều thu được hiệu quả
giống nhau.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


4 - Chữa bệnh viêm đường bạch mạch và bệnh giun chỉ

Lần này không phải y sỹ Nghị, mà là y sỹ Giang bên cơ quan tỉnh đội,
người Nam Bộ, có nước da trắng trẻo, bộ mặt luôn tươi cười, với chiếc răng
bịt vàng nép trong khoé mép. Anh nhanh nhẹn nhảy qua mấy hòn đá lớn,
cúi đầu chui vào gộp đá, nơi tôi đang làm việc. Giang vừa nói, vừa gãi gãi

tai : “ Anh Sửu à, Giang đưa cậu T. lên (tôi đã quên mất tên nên tạm đặt thế)
nhờ anh chữa giùm Giang nhé. Cậu này bị viêm đường bạch mạch.”
Tôi chưa gặp bệnh này lần nào nên đã vui vẻ nhận lời. Giang chỉ đợi có
thế, liền chui ra khỏi gộp đá (khe rỗng giữa những hòn đá to chồng lên nhau,
không phải là hang đá như ở núi đá vôi), thoăn thoắt nhảy qua các hòn đá mà
biến đi nhanh chóng. Lát sau Giang trở lại, nhưng đi chầm chậm, thận
trọng, đỡ bên người một chú linh cảnh vệ to cao. Chú này chống gậy, lò cò
từng bước bằng chân phải, chân trái thì đùi giơ lên, đầu gối co lại, bàn chân
thõng xuống . Tôi ra khỏi gộp đá, chỉ cho Giang và chú linh ngồi xuống một
hòn đá to, nơi có mặt bằng khá lớn. ở đó có mảng nắng sáng, lọt từ khe hai
ngọn cây chiếu xuống, tiện xem bệnh cho rõ.
Tôi ngồi bên cạnh hai người nghe Giang giảng giải : “Anh xem này.”
Giang vừa nói vừa chỉ vào một đường đỏ hồng, rộng chừng dăm bảy ly mét,
kéo dài từ mắt cá trong chân trái, ven theo cạnh trong xương chày, lên tới
khớp gối, đầu trong nếp gấp khoeo chân, rồi lên thêm một đoạn nữa ở cạnh
trong đùi. Tiếp đó Giang cầm bàn tay tôi đặt vào háng chú linh và nói :
“Hạch bạch huyết ở háng cũng đã sưng to rồi, anh sờ cho thấy rõ đi.” Giang
lại nói tiếp: “Bệnh này trước hết là sưng hạch ở háng và khoeo chân, làm
cho đau đớn, không đi lại được. Nếu viêm nặng thành mủ, sẽ làm hỏng động
mạch, và phải cắt bỏ chân. Muốn chữa, ta phải dùng kháng sinh diện rộng,
liều cao giảm dần. Mà như anh Sửu đã biết, túi thuốc cơ quan, nếu dốc ra
chữa bệnh này, sẽ không còn để sẵn sàng chiến đấu, cấp cứu chiến thương.”
Nghe Giang nói xong, tôi liền mở sách ra xem. Vâng, lại sách. Sách vừa
là thầy của tôi, cũng là ông thánh đã ban cho tôi được thấy nhiều phép lạ của
ông. Sách đã cùng tôi vượt hàng rào điện tử bờ Nam sông Bến Hải, vào tới
đất Cực nam Trung Bộ này và luôn ở bên tôi. Sách lại dạy tôi rằng : “Huyệt
Khí xung, Huyết hải, chữa viêm đường bạch mạch và hạch bạch huyết ở chi
dưới.” Vui mừng quá đỗi, tôi vội nói với Giang chuẩn bị cùng tôi châm
ngay. Rồi cũng ngay tại hòn đá ấy, chỗ chòm sáng mặt trời lọt xuống ấy,
chúng tôi vừa vê kim, vừa nói chuyện với nhau.

Gần tối hôm đó, Giang tới chỗ tôi, cho tôi biết, bệnh nhân đã giảm sốt,
vết đỏ đã bớt đậm màu, chân có thể cử động hơn được chút ít .Tôi nói với

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


Giang rằng : “Người xưa nói, bệnh cấp và nặng, thì ngày phải châm nhiều
lần.” Chúng tôi lại đi châm cho bệnh nhân lần nữa.
Ngày hôm sau, tuy bệnh đã đỡ nhiều, chúng tôi vẫn châm cho bệnh nhân
ba lần, thế là bệnh khỏi hẳn.
Năm 1993 bác sỹ Thịnh, làm việc tại khoa Bệnh nghề nghiệp, Bệnh viện
Quân y 103, đến gặp tôi, ông kể rằng : “Khoa ông có một bệnh nhân bị bệnh
giun chỉ . Từ đùi đến đầu gối và cổ chân to đều và thẳng như một cây chuối
(dân gian gọi là bệnh chân voi, Đông y gọi là bệnh đại cước phong). Ông
đang muốn chữa bằng Đông y mà chưa biết chọn cách nào cho hay nhất.”
Tôi nói : “Ông hãy cho tôi biết cơ chế của bệnh này xem nó ra sao?.” Ông
Thịnh giải thích rất rõ ràng : “Thưa thầy, giun chỉ thấm qua da, theo đường
bạch mạch, đi dần vào trong cơ thể. Độc tố của giun chỉ gây ra sưng đường
bạch mạch, chân có dạng phù căng toàn bộ.”
Nhớ lại kinh nghiệm năm xưa ở chiến trường Cực nam Trung Bộ, tôi nói
với ông Thịnh : “Ông hãy về châm cho họ hai huyệt Khí xung và Huyết hải,
nhớ lưu kim, làm vê kim kích thích tả pháp. Hãy theo dõi kỹ và báo lại cho
tôi biết kết quả.”
Sau đó gặp lại nhau, ông Thịnh kể tỷ mỷ : “Em châm hai huyệt đó theo
đúng phép tả, lưu kim kích thích từng đợt, chừng 30 phút sau, thấy chân có
vẻ hơi nhỏ đi, em đo lại vòng đùi trên đầu gối, rồi đem so với số đo trước lúc
châm, thật là quá bất ngờ, khi thấy số đo đã rút đi được 3 cm. Em châm
thêm hai lần nữa trong ngày. Hai hôm sau, em đều châm mỗi ngày 3 lần.
Thế là chân rút hết chỗ sưng, trở lại như cũ. Bệnh nhân ra viện nhưng có vẻ
còn lo lắng. Do nhà bệnh nhân ở ngay thị xã Hà Đông, nên em nói để bệnh

nhân yên tâm rằng, nếu thấy bệnh trở lại, cứ vào đây để tôi chữa tiếp.
Nhưng cho đến hôm nay (lúc gặp lại nhau này) em chưa thấy bệnh nhân trở
lại khám.”
Ông Thịnh học Tây y ở Đông Đức, về nước ông lại nảy ra ham muốn học
Đông y. Trong quá trình học, tôi đã nói về bài châm chữa chứng viêm
đường bạch mạch và hạch bạch huyết ở chi dưới,. Nhưng lần này, do ông
Thịnh đã áp dụng thành công, nên ông muốn nắm chắc cơ chế của huyệt
châm, ông mong được tôi phân tích rõ hơn. Tôi đã dựa vào du huyệt học,
phân tích tác dụng của hai huyệt đó như sau : - Huyệt Khí Xung- Chủ trị :
bệnh ở bộ máy sinh dục…bụng có khí nghịch lên tim… -Huyệt Huyết hải –
Chủ trị :…nổi mề đay ngứa; thấp chẩn; viêm da thần kinh…các bệnh cấp
tính về huyết… Theo đó ta thấy, huyệt Huyết hải có sức chống dị ứng
mạnh. Huyệt vị lại nằm ngay trên đường đi của bạch mạch. Huyệt khí Xung
cũng nằm trên vùng hạch bạch huyết vùng khớp háng. Hai huyệt hỗ trợ nhau
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


chống viêm đường bạch mạch tốt, còn nhờ ở sự phối hợp chặt chẽ của khí
(Khí xung) và huyết (Huyết hải), nên đã có sức mạnh thần kỳ như ông đ•
chứng nghiệm vừa qua.. Ông Thịnh ngồi lặng đi suy nghĩ. Tính cách ông
vẫn thế mà.
Thưa các bạn, thế là ứng dụng của phương huyệt chữa viêm đường
bạch mạch, lại có thể dùng vào chữa bệnh chân voi, bởi vì chúng cùng một
cơ chế .

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


5 - Chữa cơn đau quặn gan


Sau mỗi bữa cơm trưa hàng ngày, chúng tôi thường nghe đài, hoặc đọc sách.
Đôi lúc lại đem quần áo ra vá những chỗ mới rách, do cành cây ngáng
đường, hoặc mắc phải gai. Rất ít khi chúng tôi dám ngủ ngày. Vì kinh
nghiệm của những người đã ở rừng nhiều năm cho biết, ai quen ngủ ngày thì
người đó dễ mắc bệnh sốt rét. Phần nữa, vì bọn biệt kích Phun rô thường đi
cắt (đi tắt) ngang rừng, chúng đi từng tốp nhỏ, bất ngờ tập kích vào các cơ
quan hậu cứ của ta. Chúng gây thiệt hại chớp nhoáng, rồi rút trốn vào rừng.
Cho nên ở hậu cứ cũng đầy ắp không khí mặt trận.
Hôm ấy ở cơ quan tỉnh ủy có cuộc họp về y tế. Bác sỹ Nguyễn Quang
Đạm, trưởng ban dân y tỉnh, và hai y sỹ vừa ở mặt trận tiền phương cùng về
họp. Họp xong, họ được mời đến gặp các anh trong ban thường vụ tỉnh uỷ.
Thật là không may cho các anh, khi cuộc gặp mặt đang được tiến hành, thì
em Hoàn nhỏ (chả là cơ quan chỉ có em là nữ nhỏ tuổi nhất nên mọi người
gọi thế cho thêm thân thương) đột nhiên lên cơn đau bụng quằn quại. Lập
tức hai y sỹ ở trong cơ quan cùng với bác sỹ, hai y sỹ là khách, dưới sự điều
khiển của bác sỹ Đạm, trưởng ban dân y tỉnh, cùng nhau hợp sức lại để chẩn
trị .
Chẳng biết các vị đã chẩn là bệnh gì và cách chữa ra sao, nhưng đến 13
giờ vẫn chưa cắt được cơn đau cho người bệnh..
Thấy không đành lòng, tôi liền chủ động đến gặp bác sỹ Đạm, xin phép
tham gia chữa cho em Hoàn. Khi đến chỗ lán em Hoàn ở, tôi thấy bác sỹ thì
đang đi lại đăm chiêu ngoài cửa lán, người bệnh thì nằm còng queo trên tấm
sạp ken bằng cành cây nhỏ, có lót lá tranh cho êm. Tôi lên tiếng chào ông và
thưa ngay ý định của tôi. Ông bắt tay tôi và hỏi một cách ngắn gọn : “Anh
định chữa bằng biện pháp gì?”. Tôi trả lời ông rằng : “Tôi sẽ châm cứu.”
Ông cười nhưng cũng không hẳn là cười, rồi nói tiếp một cách rất là tự nhiên
như tự đáy lòng ông vốn nghĩ thế : “Được đấy, châm cứu vô thưởng, vô phạt
mà.” Tôi nghe ông nói thế, trong lòng rất lấy làm khó chịu. Nhưng khi nghĩ
đến ông vốn là người lịch lãm, thận trọng, nên ý tứ trong câu của ông vừa
nói, có lẽ là do ông nhận thức rằng, châm cứu không có tác dụng phụ.

Không như những bài thuốc dân gian chưa qua kiểm định, đã gây bao phiền
toái. Ngành y tế đã từng phải xử lý hậu quả do những lang băm vô trách
nhiệm gây ra, nên ông đã nói như thế. Để tránh sự sơ hở trước ông bác sỹ về
việc tự mình xin đến chữa bệnh, và cũng để tỏ vẻ cầu thị, tôi đ• xin ông cho
biết chẩn đoán của ông về chứng bệnh này. Ông cũng nói với tôi rất kín kẽ
và rõ ràng : “Chúng tôi nghi đây là cơn đau quặn gan. Nhưng do trong tay
chúng tôi không có thuốc đặc hiệu, tôi đã cho dùng tới bốn loại thuốc giảm
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


đau khác nhau, tới giờ vẫn chưa cắt được cơn.” Liền đó, khi nhìn thấy trong
tay tôi cầm quyển sách chữ Hán cổ, ông lại nói với tôi : “Anh thử xem trong
sách đó có thấy nói về cách chữa đau bụng do gan hay không?.” Tôi cũng
nói ngay : “Có ạ.” Tiếp theo là : “Tôi sẽ chữa theo chẩn đoán của các anh.”
Tôi bắt đầu châm, bệnh nhân trong tình trạng thần chí mơ màng của cơn
choáng, do đã đau đớn kéo dài. Cùng lúc đó ông bác sỹ đưa ngón tay vào bắt
mạch, tay kia ông giơ đồng hồ ra xem.
Ba huyệt tôi châm là : Khí hải, Thái xung, Nội đình. Châm xong tôi lưu
kim, kích thích tả pháp, lần lượt và liên tục. Chừng khoảng gần hai chục
phút sau, khi thấy bệnh nhân không còn cơn quặn đau nữa, hơi thở đ• đều
đều, tôi quay sang ông bác sỹ, có ý chờ lời đánh giá của ông về hiện trạng
người bệnh. Ông đang chăm chú bắt lại mạch và nhìn đồng hồ. Lát sau
việc bắt mạch đã xong, ông ngẩng lên nói với tôi : “Tốt lắm rồi, khi bắt đầu
châm, mạch đập 120 lần / phút, bây giờ còn 90 lần / phút, như thế là cơn đau
đ• giảm nhiều rôì đó.”
Khi đã rút kim ra xong, tôi và ông bác sỹ ngồi lại, chúng tôi vừa chuyện
trò, vừa để theo dõi thêm bệnh nhân .
Lúc này, nhìn lại bệnh nhân, tôi thấy cứ khoảng chừng năm phút bệnh
nhân trở mình một lần, hơi thở cũng mạnh hơn lên một chút, rất điển hình
chứng đau bụng do gan. Tôi chợt nhớ lại, theo sách Bệnh học Nội khoa mô

tả chứng trạng cơn đau đau quặn gan. Cơn đau quặn gan, thực chất là đau do
sỏi bùn trong ống dẫn mật gây ra. Nơi đau từ hạ sườn phải, co rút theo cơ
thẳng bụng, xuống đến dưới mé bên phải hố chậu, chân phải duỗi thẳng thấy
khó khăn (Đông y gọi chứng đau này thuộc về “đau sán khí”). Cách 5 phút
làm cơn một lần.
Tôi tự phán đoán thầm trong ý rằng, cơn đau tuy đã dứt, nhưng do đau
đớn kéo dài, tập quán nhu động ruột vẫn còn. Tôi lấy kim châm thêm hai
huyệt Thiên khu và Túc tam lý, nhằm nhanh chóng ổn định nhu động ruột.
Quả nhiên từ đó bệnh nhân nằm yên, thở đều, chìm sâu vào giấc ngủ bù sau
cơn đau đớn kéo dài vừa dứt.
Tôi đứng lên chào ông bác sỹ ra về, trong lòng mừng vui vì sự thành công
của cuộc trình diễn châm kim chữa bệnh, có sự chứng kiến của bác sỹ
trưởng ban dân y tỉnh (tương đương chức Giám đốc Sở y tế hiện nay), và
còn mừng vui vì câu nói của ông lúc chia tay tôi. Ông nói : “Thấy anh làm
việc châm cứu là tôi tin tưởng ngay, vì anh có sách chữ Hán cổ của các cụ.”
Thưa các bạn, để có được câu nói của ông bác sỹ lúc chia tay tôi hôm ấy,
chính là nhờ kết qủa việc tôi dùng kim châm, cắt được cơn đau quặn gan cho
bệnh nhân, mà trước đó ông bác sỹ và đồng nghiệp của ông dùng thuốc đ•
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


không làm được. Như lúc vừa thấy tôi đến, ông đã thanh minh với tôi, ý tứ
hàm chứa trong đó, chỉ là vì hoàn cảnh khó khăn của chiến trường, mọi thứ
thuốc men đều thiếu thốn. Nhưng giả thử, cuộc tham gia điều trị của tôi
không thành công, hẳn lúc đó, ông sẽ coi những cuốn sách chữ Hán cổ tôi
mang theo ấy, ông sẽ coi nó chẳng có ích gì. May mắn thay, cuộc châm
chữa đã tốt. Từ đó, tôi lại suy nghĩ về công phu đọc sách của mình. Không
những sách đã giúp tôi khi chữa bệnh, tôi lại còn được đánh giá bằng sự tin
tưởng của ông. Tôi vẫn thường nghĩ, chẳng riêng gì việc làm của tôi, mà bất
cứ ai, làm bất cứ việc gì ở đời, nếu có công học hành cẩn thận, chăm chỉ một

cách bài bản, hệ thống, chắc chắn cũng sẽ được người đời tin tưởng, cũng sẽ
thu được kết quả có ích.
Nay nói về kinh nghiệm chữa cơn đau quặn gan này, tôi xin nói thêm cơ
chế phương huyệt, điều mà ngày gặp ông bác sỹ Đạm ấy, tôi đ• không có
điều kiện nói với ông. Cơ chế đó là, do tác dụng hợp thành từ mỗi huyệt vị
trong phương như sau : Huyệt Khí hải – Chủ trị : sán khí ở bụng dưới; các
loại bệnh khí lâu ngày không khỏi; bẩy thứ sán khí ở tiểu trường, bàng
quang, thận, âm chứng co dịch hoàn; Huyệt Thái xung – Chủ trị : hai dịch
hoàn co lên; tiểu trường sán khí; Huyệt Nội đình – Chủ trị : đau bụng; dau
sa ruột; Huyệt Thiên khu – Chủ trị : Đau bụng; trướng bụng; sôi ruột, ỉa
chảy, lỵ, táo bón, liệt ruột; bí đại tiện; trường sán; Huyệt Túc tam lý – Chủ
trị :Bệnh đường ruột; đau bụng, lỵ, tiêu hoá kém; ỉa chảy; táo bón;
Tổng hợp tác dụng của số huyệt kể trên, có thể cắt cơn đau quặn gan
nhanh chóng. Thật đúng như ông bác sỹ đ• nói với tôi : “ vì anh (tức là tôi)
có sách chữ Hán cổ của các cụ.”

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


6. Chữa bệnh đau liên sườn cấp tính
Mùa hè năm 1966, đoàn sinh viên thực tập của chúng tôi nhận nhiệm vụ
làm giúp làng Nam Ngạn, phía bờ nam cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá một
tượng đài “Nam Ngạn chiến thắng”, để cổ vũ tinh thần chiến đấu chống Mỹ
của quân và dân địa phương.
Tối hôm đó, như mọi buổi tối khác, thanh niên dân quân Nam Ngạn
thường tập trung sinh hoạt tinh thần ở sân chùa làng, gần nơi đang xây bệ
tượng đài. Tập trung như thế, cũng là để sẵn sàng nhận lệnh đi tu sửa các
trận địa, dọn dẹp hậu quả bom đạn, sau một ngày chiến đấu ác liệt với máy
bay địch. Chúng tôi cũng có mặt đầy đủ để giao lưu văn hoá giữa sinh viên
với thanh niên địa phương, và nghe tin tức mới nhất trong vùng. Khi hồi

còi báo yên của một cuộc tập kích bằng máy bay Mỹ vừa dứt, mọi người từ
nơi trú ẩn lần lượt trở lại. Tôi thấy bà Huê, bí thư chi bộ làng Nam Ngạn đi
tới, bà lên tiếng hỏi một cô dân quân : “Huệ ơi, o có thấy o Tuyển ở đó
không ?.” O Huệ đáp : “Thưa chị, chị Tuyển vừa dẫn hai tiểu đội vào thị x•
làm nhiệm vụ rồi.”
Lúc này bà Huê d• nhìn thấy tôi cũng ở gần đó, bà quay sang nói với tôi:
“Gay quá ann Sửu à, anh Đ (tôi không còn nhớ rõ tên anh, nên xin cứ để tên
anh là Đ trong câu chuyện này) là x• đội trưởng dân quân đ• tái ngũ, hiện
làm cán bộ trên tỉnh đội. Chiều nay anh tranh thủ về qua nhà, để ngày mai ăn
tết mồng năm tháng năm với vợ con. Chẳng may, anh lại vừa bị bệnh gì đó
nặng lắm. Tôi ra đây tìm o Tuyển, nói với hắn bố trí người, đưa anh Đ đi
bệnh viện ngay. Nhưng tình hình thế này thì bí bách quá.” Bà ngập ngừng
một lát rồi nói với tôi : “Hay là anh sang xem giùm bệnh của anh Đ, rồi góp
ý cho tôi cách giải quyết.”
Khi tôi và bà Huê vừa leo qua bậc thềm, bước lên hiên, trước cửa gian
giữa nhà, tôi đ• nhận ra tư thế người bệnh là đau thần kinh liên sườn cấp.
Anh nằm dựa lưng lên một đống chăn màn mà cứ như tư thế đang ngồi.
Thấy chúng tôi vào, anh có vẻ muốn ngồi dậy để chào hỏi, nhưng không thể
nào dậy được. Mặt mày anh nhăn nhó, gượng gạo. Tôi ngồi xuống ghế đ•
đặt sẵn, đối mặt với anh, định hỏi thêm anh đôi điều cho chắc chắn. Nhưng
anh vội vàng nói ngay, nói từng tiếng một như muốn đứt hơi : “Khổ lắm anh
ạ, tôi đau cả sườn và ngực, nói to cũng đau, ho càng đau hơn, cựa mình cũng
đau. Bệnh đến nhanh quá chừng. Miệng thì đắng, nước bọt như dẻo lại.”
Tôi và bà Huê sang chỗ anh nằm, cùng đỡ anh từ từ ngồi xoay lưng lại phía
tôi. Tôi kéo áo may ô ba lỗ lên, ấn vào huyệt Chí dương để thử phản ứng.
Anh vội kêu lên : “ái chà.”

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn



Kiểm tra như thế đ• đủ, tôi lấy kim ra, sát trùng kim và các huyệt. Tôi
bắt đầu châm theo thứ tự : Chí dương, Can du, Đảm du ở sau lưng . Các
huyệt tiếp theo là : Thực đậu, Đại bao, tôi phải di chuyển về hai bên cạnh
anh để châm. Kế đó, tôi châm các huyệt : Chiên trung, Kỳ môn, Nhật
nguyệt, rồi đến Chi câu, Dương lăng tuyền. Tôi châm huyệt nào thì làm thủ
pháp tả ngay, rút kim ra luôn để châm sang huyệt khác, không lưu kim.
Thời chiến mà, ai dám cắm hàng loạt kim trên thân người bệnh, lại găm
nguyên ở đó. Nếu có báo động, làm sao kịp rút hết số kim, kịp cho bệnh
nhân chạy xuống hầm tránh bom đạn.
Công việc tôi làm vừa xong, vợ anh Đ đ• bê ra thau nước, kèm theo bánh
xà phòng thơm. Chiếc khăn mặt thì gấp gọn gẽ, để ngay ngắn vào lòng một
cái đĩa sắt tráng men. Tất cả được bầy ở ngoài hiên. Chị mời tôi ra rửa tay
để vào uống nước dừa, chị vừa chặt dừa từ cây nhà, pha thêm chút đường và
bày sẵn trên bàn. Tôi ngồi vào uống nước và nhìn về phía anh, thấy anh
đang thử xoay người, thử giơ tay lên, đưa tay ra phía trước, phía sau. Anh
nói với tôi : “Đỡ rồi anh ạ, tôi thở được sâu hơn, xoay người tuy còn khó,
nhưng không đau dữ dội nữa.”
Để kịp thời phục vụ chiến đấu và công tác, tôi hẹn với anh sáng mai sẽ
sang sớm, châm thêm cho anh.
Sớm hôm sau, tôi sang nhà anh lúc trời vừa hửng sáng, con lớn của anh ra
cổng đón tôi. Tôi vào tới sân đ• thấy anh rón rén, gương nhẹ đi lại ở ngoài
hiên. Anh nói năng cũng mạnh dạn hơn và đ• có thể ngồi xoay các phía cho
tôi châm.
Trưa ngày hôm ấy, khi tôi vừa ngừng việc, hai bàn tay còn bám đầy thạch
cao trộn đ• bị khô lại, tôi đang định về ao chùa để rửa tay chân, chợt nghe
tiếng đứa con nhỏ của anh tới gọi to : “Chú ơi, mẹ cháu sai cháu sang mời
chú đến ngay, xem cho bố cháu. Bố cháu đau lại như chiều qua rồi, mẹ cháu
sợ lắm!.” Tôi vội v• cứ để nguyên tay chân chưa kịp rửa, chộp lấy hộp kim,
theo cháu đi thật nhanh sang nhà anh Đ. Nào ngờ, tôi tới nơi đ• thấy anh
ngồi trên trường kỷ ở gian giữa, trên mặt bàn dài là cái mâm đậy lồng bàn

kín mít. Anh tươi cười nói với tôi như xin lỗi : “Mong anh thông cảm, tôi
phải dặn cháu sang nói dối với anh như thế, anh mới đến ngay. Xin mời anh
theo cháu ra bể nước rửa tay, rồi vào ăn tết mồng năm với gia đình tôi.
Chẳng có gì là bầy vẽ đâu mà anh ngại, chỉ có thịt vịt và bánh cuốn thôi, lệ ở
làng này như thế anh ạ.”
Chuyện là như thế, nhưng đáng nhớ lắm, tôi làm sao có thể quên đi được.
Lại càng không thể quên tác dụng của từng huyệt theo du huyệt học, khi tôi
phải phân tích phương huyệt trong các bài giảng sau này. Nội dung phân
tích như sau : Huyệt Chí dương – Chủ trị : viêm gan; viêm túi mật; đau liên
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


sườn; Huyệt Can du – Chủ trị : các bệnh ở tạng can; viêm gan cấp, mạn;
viêm túi mật; đau thần kinh liên sườn; Huyệt Đảm du – Chủ trị : Viêm
gan;...đau sườn ngực; viêm túi mật; Huyệt Thực đậu – Chủ trị : Sườn ngực
trướng đau; Huyệt Đại bao – Chủ trị : Đau liên sườn; toàn thân đau đớn;
Huyệt Chiên trung – Chủ trị : đau ngực; dau thần kinh liên sườn; cách khí;
trong ngực như tắc; Huyệt Kỳ môn – Chủ trị : dau thần kinh liên sườn; viêm
gan; gan sưng to; viêm mạc lồng ngực ( lá thành màng phổi ); viêm túi mật;
sườn trướng; Huyệt Nhật nguyệt – Chủ trị : Đau liên sườn; viêm gan cấp,
mạn tính; viêm túi mật; co thắt cơ hoành; Huyệt Chi câu – Chủ trị : Đau
sườn ngực; viêm mạc lồng ngực; sườn, nách cấp đau; Huyệt Dương lăng
tuyền – Chủ trị : đau sườn; viêm gan; viêm túi mật; đau thần kinh liên sườn;.
Tổng hợp lực của đội ngũ đông đảo huyệt vị trong phương, đúng như khẩu
hiệu “ Tất cả cho tiền tuyến” ở thời chiến chống Mỹ lúc đó. Cũng nhờ có thế
mà bệnh nhân đ• ráng chịu nỗi đau đớn, khi bị châm ngần ấy mũi kim vào cơ
thể của mình. Chỉ vì, anh đang mong sớm được về đơn vị công tác cùng với
anh em.

Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn



7 - Chữa cơn đau tim choáng ngất
Từ mùa xuân năm 1968, đến đầu năm 1969, một khoảng thời gian khá
dài, tôi ra tiền phương công tác, cùng với các đội võ trang tuyên truyền của
huyện Lạc Dương. Ban ngày, chúng tôi vào mấy ấp vừa giải phóng, cách
thành phố Đà Lạt không xa lắm. Chính quyền cơ sở của ngụy ở đây mới tan
r•, chúng tôi làm công tác xây dựng cơ sở cách mạng trong các ấp ấy. Ban
đêm, chúng tôi lại rút lên rừng thông quanh vùng để bảo đảm an toàn. Công
việc căng thẳng tinh thần, làm cho sức khoẻ của tôi sút kém. Tôi đ• được
Tỉnh uỷ cho phép tạm nghỉ, về trạm xá huỵên Đơn Dương ở hậu cứ, giáp với
tỉnh Bình Thuận, để điều trị bệnh và an dưỡng.
Mới ngay mấy ngày đầu ở trạm xá, chúng tôi đ• phải dời địa điểm nhiều
lần, vì những trận càn quy mô lớn của quân biệt kích Mỹ, có kết hợp với biệt
kích ngụy địa phương. Mỗi lần di chuyển địa điểm như thế rất vất vả, nặng
nề. Tiếng là bệnh xá huyện, nhưng biên chế chỉ có một bác sỹ, một y tá
trưởng. Còn có khoảng 4- 5 y tá được đào tạo cấp tốc ở căn cứ của tỉnh trở
về. Cùng với họ, có hai gia đình cơ sở từ ấp Ca Đô, do bị lộ diện, nên đ• ra
đây, vừa để tránh bị đàn áp, đồng thời giúp trạm xá chăm nuôi, phục vụ
thương, bệnh binh.
Một hôm, vào buổi chiều, sau khi cùng mấy y tá đi đón thương binh từ
trạm giao liên đưa về, y tá trưởng Minh bỗng nằm lăn ra đất, bất tỉnh nhân
sự. Hai bàn tay anh nắm chặt, ngón tay cái nằm gọn trong bốn ngón tay còn
lại đ• quắp chặt lấy nó, nó chỉ thò chút đầu ngón cùng với đầu móng tay ra, ở
khe hai đốt gốc của ngón giữa và ngón nhẫn. Cổ tay thì cong lại, nổi rõ gân
nơi cổ tay. Hai cánh tay thì ôm chặt lấy ngực. Nét mặt anh trông thật đau
khổ, mũi anh thì đ• ngưng thở, như đang nín hơi gắng sức.
Tôi đứng nhìn anh, nhìn thấy tất cả sự khẩn trương chuẩn bị cấp cứu của
các y tá, họ làm theo lệnh của bác sỹ trưởng trạm. Sau khi được tiêm thuốc
chừng vài ba phút, người bệnh có mấy lần oằn mình, thở ngắn, hơi thở rất

nông. Còn tư thế gò bó, nín hơi vẫn như cũ.
Trước tình thế nguy cấp, tôi liền đề nghị với bác sỹ trưởng trạm cho phép
tôi giải quyết tiếp theo, ông đồng ý ngay.
Tôi lấy ra một cây kim, y tá thì chuẩn bị sát trùng vào nơi tôi chỉ, lau cồn
cây kim giúp tôi. Phải khéo léo lắm, cố gắng lắm, tôi cùng với y tá mới
xoay được bệnh nhân nằm ngửa hẳn lên, cởi được mấy cái khuy áo trước
ngực của anh. Tôi châm đứng kim vào huyệt Cự khuyết. Khi kim đ• sâu
chừng 2 phần 3 thốn, tôi vê kim ngược chiều đồng hồ. Sức vê kim nhanh và
mạnh, vê liên tục. Vê được chừng hơn một trăm lần, bỗng thấy trong vùng
bụng trên của người bệnh, nơi giáp với ngực, có tiếng kêu sôi lên ọc ọc,
Bản quyền thuộc Http://www.dokinhlac.com.vn


×