Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Thực trạng VN sau 6 năm ra nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.98 KB, 20 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BỘ MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN

BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM SAU 6 NĂM RA NHẬP WTO VÀ NHỮNG ĐIỂM YẾU
CỦA NƯỚC TA VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

GVHD : BÙI THỊ HẢI ANH
Lớp : Ca 1 thứ 4 D4

HÀ NỘI
Tháng 10- 2012


Danh sách sinh viên thực hiện:
1. Đặng Đình Cương.
2. Phạm Mỹ Hạnh.
3. Lê Thị Bích Hằng.
4. Dương Thục Huyền.
5. Nguyễn Thi Hường (nhóm trưởng).
6. Phạm Quang Hưng.
7. Vũ Thị Ngọc Huyền.
8. Nguyễn Thị Thanh Mai.
9. Đặng Thị Như Quỳnh.
10. Nguyễn Thị Thơm.
11. Nguyễn Thị Thơm Thịnh.
12. Nguyễn Thị Phương.
13. Trương Thị Xen.


Lời mở đầu
MỤC LỤC.
I.
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu.
1. Năng lực cạnh tranh.
1.1 Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia.
1.2 Năng lực cạnh tranh cấp địa phương.
1.3 năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp.
2. WTO và tiến trình ra nhập WTO của Việt Nam.
II.
Thực trạng về năng lực cạnh tranh và những điểm yếu về năng lực cạnh
tranh của Việt Nam.
1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
1.1 So sánh tình hình VN trước và sau khi ra nhập WTO.

1.2 So sánh về năng lực cạnh tranh của nước ta với một số nước.

III.

Lời mở đầu

2. Những điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
2.1 Điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.2 Điểm yếu tỏng năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Những giải pháp khắc phục những điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của
Việt Nam.
1. Ổn định nền kinh tế vĩ mô.
2. Cải thiện tăng trưởng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.



Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát triển của nền
kinh tế thị trường. Do vậy, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là xu thế tất yếu khách
quan.
Từ sau đổi mới , nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện phát triển đất nước, Việt
Nam đã tiến hành tham gia hội nhập kinh tế thế giới. Đánh dấu cho một trong những cột
mốc quan trọng của tiến trình hội nhập là: Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của WTO. Từ sau khi ra nhập WTO, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
được thế giới ghi nhận và đã khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế.
Tuy hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều cơ hội nhưng cũng
đem lại không ít khó khăn thử thách, bởi Việt Nam còn có những hạn chế về năng lực
cạnh tranh như đội ngũ cán bộ quản lý vĩ mô, quản trị sản xuất, kinh doanh và thực hành
trong nhiều lĩnh vực và còn nhiều bất cập khác so với yêu cầu trình độ khu vực và quốc
tế… Đã có nhiều cuộc nghiên cứu về quá trình hội nhập kinh tế cũng như năng lực cạnh
tranh của Việt Nam sau khi ra nhập WTO, như các cuộc điều tra của Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương hay các cuộc điều tra về năng lực cạnh tranh của WEF… Đó
cũng là lý do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của Việt Nam sau 6
năm ra nhập WTO để chúng ta hiểu rõ hơn về thực trạng năng lực cạnh tranh của nước ta
hiện nay cũng như những giải pháp khắc phục những hạn chế đó.

I. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu.
1.

Năng lực cạnh tranh.

Năng lực cạnh tranh được xem xét ở ba cấp độ là: Cạnh tranh cấp quốc gia, cấp địa
phương, cấp doanh nghiệp.
1. 1. Cạnh tranh cấp quốc gia:
Mục tiêu chính yếu của một quốc gia là tạo ra một mức sống cao và ngày càng cao
cho các công dân của mình. Dựa trên điều đó, năng lực cạnh tranh quốc gia được định

nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu


tư, đảm bảo ổn định được kinh tế xã hội nâng cao đời sống của nhân dân. Khái niệm có ý
nghĩa duy nhất về năng lực cạnh tranh cấp quốc gia là năng suất sản xuất quốc gia, bởi
chính năng suất xác định mức sống bền vững thể hiện qua mức lương, tỉ suất lợi nhuận từ
vốn bỏ ra, tỉ suất lợi nhuận thu được từ tài nguyên thiên nhiên,... Năng lực cạnh tranh
không phải là việc một quốc gia cạnh tranh trong lĩnh vực gì để thịnh vượng mà là quốc
gia đó cạnh tranh hiệu quả như thế nào trong các lĩnh vực.
Năng lực canh tranh quốc gia phụ thuộc vào: năng suất sử dụng nguồn lực con
người, tài nguyên và vốn của một quốc gia, năng lực đổi mới và nâng cấp của các ngành
công nghiệp trong quốc gia đó, năng lực xác định mục tiêu, hoạch định và tổ chức thực
hiện chính sách của chính phủ.
Năng lực cạnh tranh quốc gia được đo lường bởi chỉ số GCI (chỉ số năng lực cạnh
tranh toàn cầu) xác định bởi 3 nhóm sau: Nhóm chỉ số điều kiện cơ bản (A), Nhóm chỉ số
nâng cao hiệu quả (B), Nhóm chỉ số về sự đổi mới và phát triển của các nhân tố (C).
Trong đó:
A gồm:
1.

Thể chế

2.

Kết cấu hạ tầng

3.

Môi trường kinh tế vĩ mô


4.

Y tế và giáo dục tiểu học

B gồm:
1.

Đào tạo và giáo dục bậc đại học

2.

Hiệu quả thị trường hàng hóa

3.

Thị trường lao động: tính linh hoạt và năng suất

4.

Sự phát triển thị trường tài chính

5.

Sự sẵn sàng công nghệ

6.

Quy mô thị trường

C gồm:

1.

Sự tinh tế của kinh doanh


2.

Đổi mới

1.2

Cạnh tranh cấp địa phương(cấp tỉnh).

Được đo lường bằng chỉ số PCI (Provincial Competitiveness Index) là chỉ số
đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh và thành phố trong việc xây dựng môi trường
kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh. Chỉ số này tập trung đánh giá về chất
lượng điều hành của bộ máy chính quyền cấp tỉnh. PCI phản ánh được thực trạng điều
hành kinh tế của chính quyền các tỉnh, các điểm mạnh điểm yếu, cũng như xác định được
chính quyền nào có chất lượng điều hành kinh tế tốt và các doanh nghiệp hài lòng. Từ đó
chính quyền tỉnh sẽ nhận biết được môi trường kinh doanh của mình hiện đang còn những
yếu kém gì cần phải khắc phục để đáp ứng yều cầu của doanh nghiệp và tỉnh trở nên cạnh
tranh hơn so với các tỉnh thành khác của Việt Nam.
Có tất cả 10 chỉ số thành phần (với thang điểm 100) để đánh giá và xếp hạng các
tỉnh dựa trên thái độ và ứng xử của chính quyền tỉnh đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Những chỉ số đó là :


Chính sách phát triển kinh tế tư nhân.




Tính minh bạch.



Đào tạo lao động.



Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo.



Chi phí thời gian để thực hiện quy định của Nhà nước.



Thiết chế pháp lý.



Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước.



Chi phí không chính thức.



Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất.




Chi phí ra nhập thị trường.
1.3 Cạnh tranh cấp doanh nghiệp


Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng
có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển kinh
tế bền vững.
2. WTO và tiến trình ra nhập WTO của Việt Nam.
WTO là tổ chức thương mại thế giới chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-11995, là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia
trên thế giới. Tính đến ngày 16 tháng 12 năm 2011, WTO có 155 nước thành viên.
Quá trình ra nhập WTO của Việt Nam:
-

1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.

-

1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định thương mại song phương (BTA) với

Hoa Kỳ.
-

1998-2000: Tiến hành 4 phiên họp với Ban Công tác về Minh bạch hóa các

chính sách thương mại.
-


7/2000: Ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ. Tháng 12/2001: BTA có hiệu

-

4/2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác.

-

10/2004: Kết thức đàm phán song phương với Eu-đối tác lớn nhất.

-

5/2006: Kết thúc đàm phán dong phương với Hoa Kỳ.

-

7/11/2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của ĐẠi Hội Đồng tại Geneva

lực.

để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
-

11/1/2007: Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.

II. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ NHỮNG ĐIỂM YẾU
VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM.
1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của VN.
a. So sánh tình hình VN trước và sau khi ra nhập WTO



Tính toán từ số liệu của vụ tài khoản quốc gia, Tổng cục thống kê.
Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng GDP của khu vực
nông, lâm nghiệp, thủy sản; tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Trong
2 năm 2008 và 2009, do chịu tác động của suy thoái kinh tế thế giới nên cơ cấu GDP theo
ngành có sự chuyển dịch chậm hơn, nhưng về cơ bản, vẫn diễn ra theo chiều hướng tích
cực. Kết quả đó một phần không nhỏ là do tác động của WTO thể hiện qua các cam kết về
mở rộng thị trường, giảm thuế hàng nghìn sản phẩm hàng hóa xuất khập khẩu, tạo thế
bình đẳng của hàng hóa, dịch vụ Việt Nam trên thị trường thế giới.
Nông nghiệp có sự khởi sắc toàn diện, chất lượng tăng trưởng khá ổn định. Tốc độ
tăng trưởng GDP của khu vực này bình quân thời kỳ 2007 - 2011 tăng trên 2,59%/năm.
Trong đó, năm 2009 tăng 1,83%, năm 2010 tăng 2,78% và năm 2011 ước tăng 3%. Sản
xuất nông nghiệp phát triển góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an ninh lương thực,
thực phẩm quốc gia trong mọi tình huống, đặc biệt vào thời điểm trên thế giới diễn ra


khủng hoảng lương thực, giá lương thực tăng cao. Sản lượng lương thực có hạt năm 2010
đạt 44,6 triệu tấn, tăng 4 triệu tấn so với năm 2007 (10%); năm 2011 ước đạt 45 triệu tấn.
Lượng gạo tiêu dùng trong nước ổn định, mặc dù dân số tăng bình quân 1 triệu
người/năm; lượng gạo hỗ trợ đồng bào vùng bị thiên tai tăng cao nhưng vẫn đáp ứng đủ
nhu cầu cơ bản của đời sống dân cư, không để dân đói. Lượng gạo xuất khẩu bình quân 5
năm qua đạt trên 5,9 triệu tấn/năm, trong đó năm 2009 và 2010 đạt trên 6 triệu tấn, năm
2011 ước đạt 7 triệu tấn. Các mặt hàng khác như cà phê, cao su, hạt tiêu, chè... cũng có xu
hướng tương tự. Nhờ tác động của WTO, thị trường xuất khẩu nông sản được mở rộng,
các loại thuế mang tính áp đặt như trước đây bị bãi bỏ hoặc hạn chế, chất lượng nông sản
tăng lên nên nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam đã đứng vững trên các thị trường khó
tình như Mỹ, Nhật, EU.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007
tăng 16,7%; năm 2008 và 2009 do suy thoái kinh tế thế giới nên có mức tăng thấp hơn,

nhưng đến năm 2010 đã hồi phục và tăng trên 14%; năm 2011 ước tăng 13%. Nét khởi
sắc đáng ghi nhận là: giá trị sản xuất công nghiệp khu vực ngoài nhà nước và khu vực
công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh trong 5 năm qua. Ví dụ:
năm 2007, khu vực công nghiệp ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tăng 18%. Cơ cấu sản phẩm và chất lượng sản phẩm công nghiệp có nhiều chuyển
biến tích cực: tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng từ 78% năm 2000 lên 83,2% năm 2005;
84,5% năm 2007 và 89% năm 2010 và 2011. Trong thời gian đó, tỷ trọng công nghiệp
khai thác giảm dần từ 15,7% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2009 và 11% năm 2010.
Nhiều mặt hàng công nghiệp Việt Nam đã đứng vững trên thị trường trong nước, nhiều
mặt hàng đã được xuất khẩu ra thị trường các nước, trong đó có thị trường EU, Mỹ, Nhật
Bản. Sản phẩm công nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng nhanh cả về số
lượng, chủng loại, mẫu mã, chất lượng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các tầng lớp dân cư,
giảm tỷ trọng hàng nhập khẩu, giảm nhập siêu hàng tiêu dùng…
Các ngành sản xuất và dịch vụ tăng trưởng khá. Hoạt động tín dụng, ngân hàng,


chứng khoán có nhiều khởi sắc. Giá trị đồng tiền Việt Nam được giữ vững trong mọi tình
huống, không xảy ra tình trạng sốt, mất cân đối giả tạo tiền - hàng.
Từ khi ra nhập WTO, tăng trưởng của Việt Nam có những thay đổi đáng chú ý.

Giai đoạn từ 2000-2007- Trước khi ra nhập WTO tốc độ tăng trưởng GDP của Việt
Nam cao và tăng nhanh qua các năm: năm 2000 tăng 6.79% đến năm 2007 tăng 8.46%.
Giai đoạn 2007-2011- Sau khi ra nhập WTO: tốc độ tăng trưởng GDP của Việt
Nam giảm nhanh và có nhiều biến động so với trước khi ra nhập WTO (năm 2007 tăng
8.84% đến năm 2009 tăng có5.32% và đến năm 2011 tăng 5.89%.
Lý giải cho những biến động trên là tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới vào
năm 2008. Nhưng nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam luôn ở mức cao,
bình quân 5 năm 2007-2011 là 7%/năm.
b. So sánh năng lực cạnh tranh của Việt Nam với các nước cùng khu vực.



Với những thành tựu được ghi nhận trong công cuộc đổi mới, Việt Nam bắt đầu
được đưa vào danh sách các nền kinh tế có khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của WEF,
Việt Nam đã được đưa vào báo cáo thường niên của “Báo cáo cạnh tranh toàn cầu” nhưng
thứ hạng cạnh tranh toàn cầu GCI còn khiêm tốn. Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
được nhóm lại thành 3 nhóm chỉ tiêu chính: môi trường kinh tế vĩ mô, khoa học công
nghệ và thể chế kinh tế; các chỉ tiêu này được tường minh cụ thể theo các tiêu chí khác
nhau thông qua các báo cáo thống kê và phỏng vấn theo bảng hỏi đối với các doanh
nghiệp.
Nói chung, các tiêu chí kinh tế vĩ mô đạt khá cao nên mức đánh giá về kinh tế vĩ
mô của nước ta cũng vào loại khá (nhóm thứ 2 theo “ngũ phân vị”): đứng thứ 38 so với 80
nước so sánh. Tuy nhiên, khi so sánh theo 2 chỉ tiêu khác về khoa học công nghệ và về
thể chế công thì thứ hạng của Việt Nam thuộc loại kém: Việt Nam là nhóm cuối về khoa
học công nghệ (đứng thứ 68/80) và nhóm thứ 4 về thể chế công (đứng thứ 62/80). Điều
này cho thấy khi so sánh với mức chung của thế giới về khoa học công nghệ (như phát
triển công nghệ thông tin và viễn thông) và về thể chế công (như hệ thống pháp luật, tình
hình chống tham nhũng và chống tội phạm có tổ chức) mức độ đạt được còn thấp so với
nhiều nước trong khu vực. Theo các so sánh quốc tế, hiện nay Việt Nam có thứ hạng cạnh
tranh cao hơn Indonesia, nhưng là nước yếu kém nhất về trình độ khoa học công nghệ so
với các nước ASEAN-6 và Đông Bắc Á. Vì vậy, chúng ta phải có những nỗ lực vượt bậc
để thực hiện thành công những chính sách đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với cạnh tranh các ngành hàng, có thể thấy chúng ta có một số sản phẩm có
mức xuất khẩu cao trong khu vực và trên thế giới, và đóng vai trò quan trọng như các sản
phẩm thuộc nông lâm ngư nghiệp (gạo, thủy sản, cây công nghiệp… chiếm 30% giá trị
xuất và có vị thế cao trên thế giới) và một số mặt hàng công nghiệp, chủ yếu là công
nghiệp chế biến (chiếm 70% giá trị xuất khẩu). Thêm vào đó, tỷ trọng giá trị xuất khẩu
chiếm gần 50% GDP, cao hơn nhiều so với các nước Đông Bắc Á và chỉ thua Singapo,
Malaysia. Tuy nhiên, đối với ngành công nghệ thông tin và viễn thông (ICT) là ngành
ASEAN đang có thế mạnh hơn so với Trung Quốc thì trong khi xuất khẩu của khối



ASEAN đạt 150 tỷ USD (chiếm 25% giá trị xuất khẩu của khối) thì Việt Nam chỉ xuất
khẩu sản phẩm ICT dưới 1 tỷ USD (chiếm khoảng 5% giá trị xuất khẩu của Việt Nam).
Mặc dù vậy, khi đánh giá về khả năng cạnh tranh tầm vĩ mô, các tổ chức quốc tế đều ghi
nhận thành tựu trung bình của Việt Nam vào tốp 3 trong ngũ phân vị (xếp thứ 38/80
nước), nhất là đánh giá tốt việc triển khai mạnh các dự án FDI kèm theo chuyển giao công
nghệ và việc thi hành Luật Doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực ngoài Nhà
nước phát triển bình đẳng.
Đối với cạnh tranh các sản phẩm, trên thực tế, thứ hạng của một số sản phẩm của
Việt Nam cũng khá (về giá cả, chất lượng và đôi khi cả quy mô thị trường), trở thành
nguồn động lực để tăng nhanh cả quy mô và tốc độ xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên,
cần xem xét các vấn đề cạnh tranh trong điều kiện động, có nghĩa là cần tính đến những
nhân tố mới phát sinh về thị trường, về khoa học công nghệ, về các quy định thể chế kinh
tế, trong đó có tiến trình tự do hóa thương mại – đầu tư trong ASEAN (AFTA, AIA),
APEC, ASEM, việc Việt Nam gia nhập WTO và việc thực hiện các thỏa thuận song
phương khác bởi chúng có tác động nhiều chiều tới sự phát triển của đất nước, của các
ngành, các sản phẩm.

Biểu đồ GDP bình quân đầu người Việt Nam giai đoạn 1999-2011 (nguồn từ
WEF).


Biểu đồ cho thấy GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng dần qua các năm
nhưng khoảng cách so với mức bình quân của các nước đang phát triển ở châu Á ngày
càng xa.
Ngày 5/9/2012, Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) vừa công bố Bảng xếp hạng năng
lực cạnh tranh toàn cầu năm 2012 - 2013, theo đó, Việt Nam tụt xuống thứ 75 trong số
144 nền kinh tế. Trong 12 tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh, Việt Nam tụt hạng về 9
tiêu chí. Trong đó, Việt Nam tụt 41 bậc về môi trường kinh tế vĩ mô xuống vị trí thứ 106
sau khi tăng 20 bậc vào năm 2011. Các chỉ tiêu khác gồm có cơ sở hạ tầng (thứ 95), chất

lượng đường xá (thứ 120), cầu cảng (130). Theo nhận định của WEF, cơ sở hạ tầng vẫn là
thách thức lớn đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mặc dù đã có dấu hiệu cải thiện
trong những năm gần đây.
Về điểm mạnh của Việt Nam, thị trường lao động được đánh giá khá hiệu quả (xếp
thứ 51), quy mô thị trường lớn (xếp thứ 32), chất lượng giáo dục đại học và chăm sóc y tế
xếp thứ 64. Top mười nước đứng đầu năm nay vẫn là các nước châu Âu, trong đó Thụy
Sỹ tiếp tục đứng đầu. Trong top 10 này còn có Mỹ (thứ 7) và 3 nền kinh tế châu Á gồm
Singapore (thứ 2), Hong Kong (thứ 9) và Nhật Bản (thứ 10).
2. Những điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của nền kinh tế VN
2.1 Điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Về vốn của doanh nghiệp: Đa phần các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình
trạng không đủ vốn cần thiết, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh
cũng như năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp
Việt Nam có quy mô nhỏ chiếm tới 95% trong hơn 450.000 doanh nghiệp. Theo Hiệp hội
Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam (Vinasme.vn), các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt
Nam có vốn dưới 1 tỉ đồng chiếm tới 41% trong khi doanh nghiệp có vốn hơn 10 tỉ đồng
chỉ chiếm 13%. Việc tiếp cận nguồn vốn hạn chế gây ra tình trạng phổ biến là các doanh
nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau, làm lây nhiễm rủi ro giữa các doanh nghiệp.


Về nhân lực trong các doanh nghiệp: Lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt
Nam bởi chi phí lao động rẻ, tuy nhiên, năng suất lao động chỉ ở mức thấp, chủ yếu là lao
động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém. Chất lượng nguồn nhân lực thấp
được biểu hiện rõ nhất là trình độ chuyên môn, kỹ năng ngành nghề, khả năng sử dụng vi
tính hạn chế, khả năng ngoại ngữ chưa cao...
Năm

Việt Nam

Đông Nam Thế giới

Á và châu Á

2011

0,593

0,671

0,682

2010

0,590

0,666

0,679

2009

0,584

0,658

0,676

2008

0,580


0,651

0,674

2007

0,575

0,642

0,670

2006

0,568

0,631

0,664

2005

0,561

0,622

0,660

2000


0,528

0,581

0,634

Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP.

Trong bảng xếp hạng nguồn nhân lực của WB, Việt Nam đang đứng ở mức thấp.
Lấy thang điểm 10 thì Việt Nam đạt 3,79 xếp thứ 11/12 các nước châu Á tham gia xếp
hạng, trong khi đó, Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia: 5,59 và Thái Lan: 4,94.
Vấn đề được đặt ra là cần sớm khắc phục tình trạng này để lao động nước ta được đào tạo
có chuyên môn, kỹ thuật, tạo ra năng suất cao để lao động nước ta thực sự trở thành một
lợi thế cạnh trạnh so với các nước trong khu vực.
Về hoạt động nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu: Công tác
nghiên cứu thị trường còn hạn chế, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác, nhiều


doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào nghiên cứu
thị trường, bởi chi phí cho việc nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài rất hạn chế vì
chi phí cho khá tốn kém, hiệu quả không cao . Thêm nữa khả năng tìm kiếm, khai thác và
xử lý thông tin của cán bộ còn yếu. Do vậy, đa số các doanh nghiệp kinh doanh thụ động,
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của nhà quản lý.
Về chiến lược sản phẩm: Đây là một trong những thách thức lớn đối với các doanh
nghiệp lựa chọn sản phẩm chính của mình. Theo các nhà kinh tế thế giới, chu kỳ sống của
sản phẩm ngày càng rút ngắn (từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, chu kỳ sống của sản
phẩm rút ngắn tới 40%). Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường, các doanh nghiệp
Việt Nam đã quan tâm đến chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên, các sản phẩm đó có hàm lượng tri
thức và công nghệ thấp, chủ yếu dựa vào lợi thế lao động (như gạo, thuỷ sản) hoặc điều

kiện tự nhiên. Ngoài một số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa như hàng
thủ công mỹ nghệ, phần lớn các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có tính
độc đáo, luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, giá trị gia tăng sản phẩm
trong tổng giá trị của sản phẩm thấp chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Việc
xây dựng kế hoạch kinh doanh cũng như kế hoạch giá thành của các doanh nghiệp Việt
Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, tỷ giá hối đoái...
do nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm.
Khả năng Marketing: thực tế đã chứng minh rằng: Marketing có vai trò rất quan
trọng đối với tồn tại và sự phát triển của một doanh nghiệp dù doanh nghiệp đó quy mô
nhưng thế nào. Nhưng Marketing của các doanh ngiệp ở nước ta còn có những bất cập:
nguồn nhân lực về Marketing còn non trẻ và khan hiếm, các doanh nghiệp còn chưa thực
sự quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên sâu về
Marketing; nội dung Marketing của các ngân hàng chưa thực sự có tính chuyên nghiệp,
hiện đại. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn thực hiện Marketing cổ điển hay chưa thực hiện tốt
Marketing hiện đại…


2.2Điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Ổn định kinh tế vĩ mô từng được coi là điểm cộng cho Việt Nam trên bảng xếp
hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Nhưng nay, những yếu tố như lạm phát, tiền tệ, sức
sản xuất kinh doanh sa sút đã khiến cho Việt Nam bị tụt hạng về năng lực cạnh tranh.
Theo giáo sư Michael Porter, mô hình phát triển của Việt Nam hiện nay đang nổi lên một
số vấn đề: Thứ nhất, giá trị gia tăng thấp của khu vực xuất khẩu cùng với nhu cầu nội địa
tăng làm gia tăng thâm hụt thương mại. Thứ hai, sự lên giá thực của VNĐ góp phần thêm
vào mất cân bằng cán cân thương mại. Thứ ba, các dòng vốn lớn đổ vào làm kích thích
tăng cầu nội địa và lạm phát. Thứ tư, chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng càng gây
thêm áp lực lạm phát. Thứ năm, tỷ lệ tăng trưởng GDP so với đầu tư ngày càng giảm, làm
tăng sự phụ thuộc vào các dòng vốn nước ngoài để duy trì tăng trưởng. Thứ sáu, tăng
trưởng nhu cầu đang vượt quá năng lực vi mô của nền kinh tế về mặt kỹ thuật lao động và
hạ tầng kỹ thuật.

Bên cạnh đó, thể chế pháp lý cũng góp phần làm hạn chế sự phát triển và nâng cao
năng lực cạnh tranh của nước ta. Mặc dù, nước ta đã có những nỗ lực lớn trong việc ban
hành và hoàn thiện khung pháp lý nhưng một số luật và văn bản dưới luật vẫn có chất
lượng không cao. Nội dung nhiều văn bản vẫn chưa hoàn chỉnh, có sự chồng chéo, thiếu
rõ ràng, chưa thực sự khắc phục được những bất cập, một số văn bản còn điều chỉnh
nhiều lần, gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn có nhiều văn bản luật
quy định mang tính chung chung, dẫn đến tình trạng khó hiểu và giải thích luật không
thống nhất. Những điều đó dẫn đến việc áp dụng luật tùy tiện, thiếu trách nhiệm. Đôi khi,
đây còn là nguyên nhân dẫn đến những hành vi tham nhũng. Hay việc bộ máy nhà nước
vẫn còn hoạt động chưa thực hiệu quả: tình trạng tham nhũng và sách nhiễu của cán bộ
các cơ quan nhà nước trở thành khá phổ biến, hay việc chảy máu chất xám từ khu vực nhà
nước sang khu vực tư nhân…
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu khoa học công nghệ (KH &CN) nhất định
nhưng nhìn chung KH &CN nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, còn có khoảng cách khá xa
với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và là động lực phát triển


kinh tế- xã hội. Thứ nhất, đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu cán bộ giỏi,
đặc biệt thiếu cán bộ KH&CN trẻ có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực KH&CN theo ngành
nghề và lãnh thổ còn bất hợp lý. Thứ hai, đầu tư cho KH&CN, đặc biệt là đầu tư từ khu
vực doanh nghiệp vẫn chưa đạt hiệu quả cao và chưa được quan tâm đúng mức. Trang
thiết bị của các viện nghiện cứu, trường đại học nói chung còn thiếu, không đồng bộ, lạc
hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, còn thiếu sự liên kết hữu cơ
giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục-đào tạo và sản xuất- kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt
chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu- phát triển…
III.

Giải pháp khắc phục những điểm yếu trong năng lực cạnh tranh của Việt
Nam.


Để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như ngày càng nâng cao vị thế của mình
trên trường quốc tế, nhà nước ta cần đề ra những giải pháp trong ngắn hạn cũng như trong
dài hạn. Dưới đây là một số giải pháp khắc phục những điểm yếu trong năng nực cạnh
tranh của nước ta.
1.

Có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế để có đủ năng lực cạnh tranh

với nước ngoài
1.1

Ổn định kinh tế vĩ mô

Để nền kinh tế phát triển bền vững cần đảm bảo nền kinh tế vĩ mô một cách vững
chắc và có đủ năng lực cạnh tranh đối với các nước khác. Đổi mới mô hình tăng trưởng
và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững là yêu cầu cấp bách sẽ giải quyết được
những bất ổn vĩ mô. Một trong những phương pháp cụ thể là cần tái cấu trúc lại hệ thống
ngân hàng, loại bỏ những ngân hàng quá yếu kém, gây bất ổn và rủi ro cho toàn bộ hệ
thống làm giảm khả năng cạnh tranh của nước ta trong ngành ngân hàng, tài chính. Thực
hiện chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô một cách linh hoạt, kịp thời và hợp lý, chú trọng
tính đồng bộ của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa cũng như xử lý hữu hiệu các
quan hệ vĩ mô trên nền tảng lựa chọn mục tiêu tăng trưởng hợp lý trong từng thời kỳ dựa
trên thông tin phân tích và dự báo có tính chính xác, có căn cứ khoa học, công cụ chính


sách phù hợp, cần có sự phối hợp trong đề xuất, giải trình các điều chỉnh chính sách một
cách đầy đủ, hợp lý, nhất quán và chặt chẽ.
Chính phủ và doanh nghiệp cần phối hợp để giải quyết thâm hụt trong thương mạimột trong những cân đối vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế. Bên cạnh các chính sách tỷ
giá, công cụ hành chính hay phát triển công nghiệp thì mấu chốt cần xử lý là chênh lệch
đầu tư và tiết kiệm trong nền kinh tế. Đồng thời, giảm thâm hụt ngân sách và ổn định nợ

công là yếu tố quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô bởi thâm hụt ngân sách và lãi
suất cao sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự điều chỉnh của chính sách tài khoá và chính
sách tiền tệ khiến các biện pháp của Chính Phủ khó phát huy hiệu quả.
1.2

Tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các ngành.

Để nâng cao cạnh tranh, trước hết các ngành, các doanh nghiệp phải thực sự lớn
mạnh và tạo chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Các ngành, doanh
nghiệp cần coi trọng và nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến
tiêu thụ và biến động thị trường, rà soát, sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, nâng cao khả
năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp; tạo điều kiện và thúc đẩy việc hình thành
mô hình công nghiệp nhằm thay thế nhập khẩu đi liền với chế độ bảo hộ mậu dịch. Doanh
nghiệp phải có những chính sách khuyến khích chủ thể đầu tư vốn vào sản xuất kinh
doanh, phát triển các loại hình doanh nghiệp, chính phủ cần có chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ như giãn thuế, giảm thuế, hỗ trợ lãi suất vay… Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cần thực hiện tốt Marketing hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như
phát triển bền vững.
1.3

Chuẩn bị chủ động và tích cực cũng như ứng phó kịp thời với các chính

sách và đề ra các giải pháp cho việc phát triển kinh tế bền vững.
Nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý, tạo ra
môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính
phủ cần có những biện pháp hỗ trợ đối với một số lĩnh vực, sản phẩm, đồng thời cần có


các biện pháp kiên quyết nhằm năng chặn hiện tượng bán phá giá để tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh. Chính phủ cũng cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện

thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia thị trường thuận lợi.
Đối với doanh nghiệp thì cần chủ động đề ra các kế hoạch ngắn hạn cũng như dài
hạn phù hợp để phát triển. Cần tìm hiểu kỹ những điều mà luật cho phép và không cho
phép để thực hiện cho đúng và tạo ra những điều kiện tốt nhất để thực hiện mục tiêu đã đề
ra.
Ngoài ra, Chính phủ và doanh nghiệp cần cùng nhau giải quyết linh hoạt các vấn
đề khi chịu ảnh hưởng từ những cuộc khủng hoảng hay những biến động về kinh tế thế
giới.
2.

Cải thiện chất lượng tăng trưởng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài

2.1

Tăng trưởng kinh tế.

Để tăng trưởng kinh tế, ngoài cải thiện chất lượng lao động, cần có những chính
sách thu hút vốn và nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp, đồng thời cần chú trọng tới
các nhân tố phi kinh tế bởi các yếu tố đó ảnh hưởng sâu rộng và đa dạng đến sự tăng
trưởng kinh tế. Phát triển văn hóa nên được coi trọng bởi trình độ văn hóa là yếu tố cơ bản
quyết định nguồn nhân lực, nhân tố quan trọng quyết định tăng trưởng kinh tế. Do đó, đầu
tư phát triển văn hóa được coi trọng là những đầu tư cần thiết nhất và phải đi trước một
bước so với đầu tư cho sản xuất. Để tăng trưởng kinh tế, ngoài ra chính phủ cần tạo ra
một thể chế ổn định và linh hoạt tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển.
2.2

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Trong khi nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự lớn mạnh, khả năng tích lũy thấp thì
việc tăng cường huy động nguồn vốn nước ngoài để bổ sung cho tổng vốn đầu tư phát

triển có ý nghĩa rất quan trọng. Chính phủ cần hoàn thiện hơn về luật đầu tư nước ngoài
và các văn bản dưới luật, xây dựng hệ thống quản lý đầy đủ và đồng bộ. Vấn đề thuế cần
có sự cân nhắc, đặc biệt trong thuế lợi tức và thuế xuất nhập khẩu. Cần có những biện


pháp bảo đảm đầu tư tạo an toàn cho các cá nhân, tổ chức, tạo môi trường thuận lợi cho
các chủ đầu tư.
LỜI KẾT
Sau 6 năm gia nhập WTO, mở cửa thị trường đã đem lại nhiều lợi ích Việt Nam,
như: phúc lợi xã hội tăng lên khi người tiêu dùng được mua những hàng hóa chất lượng
tốt hơn với giá rẻ hơn, thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng hơn, tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cơ sở hạ tầng cũng được nâng
cao….
Nhìn tổng quát, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã xúc tiến với bước
đi khá vững chắc và đạt được những kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Dù trong bất cứ
tình huống nào, Việt Nam cũng nỗ lực hết mình để biến những thách thức thành thời cơ,
hội nhập thành công, khai thác những lợi thế và cơ hội đồng thời hạn chế rủi ro, thách
thức từ những điều kiện khi tham gia WTO để đưa nước ta ngày càng phát triển. Nước ta
cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các yếu tố kinh tế thị trường, để được công nhận là nước
có nền kinh tế thị trường trước thời hạn 31/12/2018; đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục đào tạo
với chiến lược dài hạn nhằm xây dựng nguồn nhân lực có kỹ năng, đáp ứng yêu cầu của
bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp ở tầm cao mới.
Tài liệu tham khảo:


: Cổng thông tin các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
: Tổng cục thống kê.
: Nguồn nhân lực Việt Nam
Báo cáo năng lực cạnh tranh năm 2011.
: Cổng thông tin bộ tài chính.





×