Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

HE THONG CAU HOI ON THI TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HAY, THỰC TIỄN MỚI NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.86 KB, 26 trang )

Câu 1a: Đồng chí hãy
phân tích: Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM, làm rõ mối
quan hệ giữa các nguồn gốc đó và khẳng định nhân tố có vai
trò quan trọng nhất.
Câu 1b: Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM (câu 1-đề
6 câu).
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 2a: Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong
tư tưởng giải phóng dân tộc.
Câu 2b: Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong
tư tưởng về Cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu 2c: Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh (câu 2đề 6 câu).
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 3a: Phân tích cơ sở để Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 3b: Làm rõ căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh lựa
chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở VN.

Câu 5a: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trên cơ
sở hiến pháp và pháp luật?
Câu 5b: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà Nước
quản lý xã hội bằng pháp luật (câu 3 - đề 6 câu).
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 7a: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
(Tiên tiến đậm đà bản sắc VH dân tộc; xây dựng con


người mới XH chủ nghĩa; xây dựng đời sống mới; xây dựng
con người mới; XD VH là cuộc cách mạng của toàn dân; đảng
lãnh đạo VH).
Câu 7b: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Câu 7c: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa (vai trò văn
hoá trong đời sống dân tộc).
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 8a: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 4a: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Câu 4b: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm
quyền trong sạch, vững mạnh (câu 4 - đề 6 câu).
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 8b: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức (câu 5 - đề
6 câu).
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 9: Phân tích phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh (câu 6 - đề
6 câu).


2
Câu 1a: Đồng chí hãy phân tích nguồn gốc hình thành tư
tưởng HCM, làm rõ mối quan hệ giữa các nguồn gốc đó và khẳng
định nhân tố có vai trò quan trọng nhất. (Truyền thống dân tộc Tinh hoa văn hóa nhân loại - Chủ nghĩa Mác-Lênin - Chủ quan của

Hồ Chí Minh).
Câu 1b: Nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM.
ĐH Đảng lần IX khẳng định “Tư tưởng HCM là một hệ
thống qua điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CM
VN, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa VH nhân loại” và “tư tưởng
HCM soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân ta giành thắng lợi, là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”.
Nghị quyết 09 Bộ Chính trị (khoá VII) viết: “Chủ tịch
HCM đã sớm nắm bắt sâu sắc bản chất CM và KH tinh thần biện chứng
và nhân đạo của học thuyết Mác-Lênin, vận dụng một cách sáng tạo
học thuyết ấy phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta; đồng thời Người
đã kế thừa phát huy chủ nghĩa yêu nước truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và tinh hoa của nhân loại. Tư tưởng HCM được hình thành từ
những nguồn gốc đó”.
Tư tưởng HCM là sự kế thừa và phát triển những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc VN mà đỉnh cao là chủ nghĩa yêu nước.
Truyền thống yêu nước ý chí độc lập tự cường là chuẩn mực
cao nhất, đứng đầu bản giá trị VH tinh thần VN. Mọi học thuyết đạo
đức tôn giáo du nhập vào VN đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính
của tư tưởng yêu nước đó. Tại ĐH II (1951) của Đảng Chủ tịch HCM
nói: “dân ta có một lòng nồn nàng yêu nước. Đó là truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy
lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
cướp nước”.

Các dân tộc đều có lòng yêu nước. Song truyền thống yêu
nước VN có những nét đặc sắc: một là tinh thần độc lập tự chủ, anh

dũng bất khuất trong đấu tranh dựng nước và giữ nước hiếm thấy một
dân tộc nào trên thế giới ở vào hoàn cảnh lịch sử phải đấu tranh trường
kỳ như thế, gay go quyết liệt như thế để chống ngoại xâm, để bảo vệ
độc lập tự do bản sắc và phẩm giá dân tộc như dân tộc VN. Hai là giàu
tính cộng đồng, tính nhân dân, tính nhân bản trong tư tưởng tình cảm
yêu nước VN ngay thời phong kiến nước chủ yếu không phải là Vua
mà trước hết là dân là đồng bào, là phẩm giá dân tộc và phẩm giá con
người. Ba là do hai đặc tính trên tư tưởng yêu nước truyền thống VN
có xu hướng gắn với tiến bộ XH. Tư tưởng yêu nước VN chứa đựng
khát vọng về tự do công bằng bình đẳng XH của nhân dân. Các vị anh
hùng dân tộc đều có đường lối ít nhiều đáp ứng khát vọng ấy. Nhân dân
VN yêu nước mình nhưng không ít kỷ hẹp hòi dân tộc mà tôn trọng các
dân tộc khác khoan dung và quý trọng tình hoà hiếu.
Dân tộc VN có truyền thống đoàn kết nhân ái tinh thần cộng
đồng lá lành đùm lá rách trong hoạn nạn khó khăn. Dân tộc VN có
truyền thống lạc quan yêu đời trong muôn nguy ngàn khó người LĐ
vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” và tiếng cười
vẫn không ngớt vang lên trong cuộc sống. Dân tộc VN cần cù thông
minh sáng tạo trong SX và chiến đấu đồng thời cũng là dân tộc ham
học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa VH nhân loại. Người VN từ
xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu thói bài ngoại cực đoan.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp
thu cải biến những cái hay, cái tốt cái đẹp của người thành những giá trị
riêng của mình.
Tư tưởng HCM là sự kết tinh trọn vẹn sinh động của những
giá trị truyền thống cao quý đó. Chủ nghĩa yêu nước VN là nguồn gốc
sâu xa của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ tuổi thanh niên HCM đã là một
trong những người con yêu nước ưu tú nhất, tiêu biểu nhất của dân tộc.
Tất cả ý nghĩa cuộc sống đối với người lúc đó là cứu nước giải phóng
dân tộc, cứu đồng bào bị đọa đày đau khổ. Người coi đấy là lẽ sống



3
thiêng liêng nhất, Người nói : “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ
quốc tôi đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những đều tôi
hiểu”. Đối với Người tất cả mọi kế sách đều vô nghĩa nếu không nhằm
tự do cho đồng bào, độc lập cho tổ quốc. Cả cuộc đời Người “chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”. HCM lúc thiếu thời rất khâm phục
tinh thần yêu nước xã thân vì nước của các sĩ phu, văn thân, các chiến
sĩ như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh. Nhưng Người không tán thành đường lối cứu nước của các vị.
Tư tưởng yêu nước của HCM thời trẻ, ngay khi chưa gặp CN MácLênin, đã thể hiện có tầm vượt trước những quan niệm cứu nước đương
thời. Bởi đó là một tư tưởng yêu nước sáng suốt có tính phê phán
không bảo thủ, hướng tới việc tìm con đường thật sự CM và KH dẫn
đến mục tiêu triệt để giải phóng dân tộc. Đó là tư tưởng yêu nước mang
đậm tính nhân dân, tính nhân bản. Cứu nước trước hết là cứu hàng triệu
“đồng bào bị đoạ đày”, những “người cùng khổ”. Trong quan niệm về
mục tiêu cứu nước của HCM (khi chưa là người Mác xít) nước độc lập
phải đi đôi với quyền tự do ấm no hạnh phúc. Rõ ràng mục tiêu ấy
không thể tìm thấy ở con đường cứu nước trên lập trường phong kiến
và cả trên lập trường TS hay tiểu TS. Ở tuổi 13 cũng như một số nhà
yêu nước đương thời HCM đã sớm bị hấp dẫn bởi khẩu hiệu “tự do
bình đẳng bác ái”. Song khác các vị ấy HCM muốn tìm hiểu đến tận
nơi “cái gì ẩn đằng sau” những từ đẹp đẽ ấy không chỉ trên lý thuyết mà
ngay trên thực tế. Với một hoài bảo và lòng yêu nước như thế làm hành
trang HCM ra đi tìm đường cứu nước. Như vậy là chủ nghĩa yêu nước
truyền thống đang đòi hỏi được đổi mới là tiền đề tư tưởng đưa HCM
đến một cách tự nhiên với chủ nghĩa Mác Lênin, đáp ứng yêu cầu bức

xúc của lịch sử lúc đó là phải xác định một đường lối cứu nước đúng
đắn. Tư tưởng yêu nước HCM phản ánh yêu cầu giải phóng của dân tộc
VN và các dân tộc thuộc địa nói chung.

Tư tưởng HCM là sự tiếp thu và phát triển tinh hoa của
VH nhân loại (VH Đông tây)
Tư tưởng càng vĩ đại khi nguồn gốc của nó càng sâu xa, cơ sở
của nó càng rộng lớn. Tư tưởng HCM không chỉ kết tinh những giá trị
dân tộc mà còn bắt nguồn từ tinh hoa VH nhân loại cả phương Đông và
phương Tây mà Người đã thâu thái được. HCM xuất thân trong một gia
đình khoa bản, từ nhỏ đã được hấp thu một nền Nho học vững vàng. Vì
vậy không có gì lạ khi thấy trong tác phẩm của mình Người sử dụng
khá nhiều mệnh đề của Nho giáo nhưng đã đem lại cho nó một ý nghĩa
mới. HCM cũng đã chỉ ra những hạn chế lớn của Nho giáo như phân
chia đẳng cấp, coi thường phụ nữ, khinh LĐ chân tay… HCM căn bản
không dùng học thuyết Khổng tử để cải tạo XH song Người nói: “Tuy
Khổng tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng tử có nhiều
điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”
Người cho rằng để kế thừa những cái hay trong tư tưởng các bậc tiền
bối cần theo phương pháp Lênin. Người nói: “Chỉ có những người CM
chân chính mới thu thái được những hiểu biết quý báu của các đời trước
để lại. Lênin dạy chúng ta như vậy” Từ tuổi thiếu niên, HCM đã tiếp
cận những yếu tố VH phương Tây qua trường học Pháp Việt. Trong
cuộc đời hoạt động CM của mình Chủ tịch HCM đã sống 30 năm ở
nước ngoài mà chủ yếu là ở Châu âu nên Người cũng chịu ảnh hưởng
rất sâu rộng của nền VH dân chủ CM phương Tây. Người đã từng sống
và làm việc ở thủ đô của các nước TB phát triển nhất như Mỹ, Anh và
nhất là Pháp…Tại quê hương của tự do bình đẳng bác ái, Nguyễn Ái
Quốc đã tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm của các nhà triết học khai
sáng như Vonte, Rútxô, Môngtéckiơ… những lý luận gia của CM Pháp.

Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị tư tưởng VH phương Tây
cũng như đối với những giá trị phương đông vớí tinh thần phê phán
Người đã trực tiếp thấy rõ ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp ở
Đông dương, những thống khổ không sao kể siết của đồng bào mình,
đã tận mắt trong thấy tội ác dã man của bọn thực dân ở tất cả các nước
thuộc địa mà Người đi qua, trực tiếp chứng kiến những bất công phổ


4
biến ngay ở những nước “văn minh”. Qua thực tế HCM đã sớm phát
hiện ra mặt trái của nền văn minh phương Tây. Song điều đó không
ngăn cản Người tiếp thu kế thừa những giá trị tốt đẹp của văn minh
phương Tây.
Tư tưởng HCM là sự vận dụng phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin
Trên cơ sở những nhân tố tư tưởng nói trên đặc biệt là chủ
nghĩa yêu nước Nguyễn Aí Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Tư
tưởng HCM là kết quả sự gặp gở giữa chủ nghĩa yêu nước VN và chủ
nghĩa Mác Lênin. Việc Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
tìm thấy ở chủ nghĩa Mác Lênin “cái cần thiết” và “con đường” giải
phóng dân tộc VN, “ngọn hải đăng soi đường cho toàn thể nhân loại bị
áp bức đi tới giải phóng” là bước quyết định trong quá trình hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh. Bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin tư tưởng yêu
nước ở Nguyễn Ái Quốc có bước nhảy vọt về chất-tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch HCM luôn
nhấn mạnh rằng: yêu nước anh dũng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân
tộc không phải phẩm chất riêng có ở những người cộng sản mà là vốn
có ở hàng triệu người trong Đảng cũng như ngoài Đảng. Song chỉ có
Đảng của giai cấp CN được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin mới có
đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc biến chủ nghĩa yêu nước

truyền thống thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại trên cơ sở kết hợp chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa XH KH, chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Được tư tưởng KH của giai cấp CN quốc tế soi
sáng phong trào giải phòng dân tộc VN đã tìm ra đường lối cứu nước
đúng đắn. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chính lý luận Mác Lênin đã cung cấp cho HCM
thế giới quan và phương pháp luận DVBC để tổng kết kiến thức tổng
kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn tìm ra con đường cứu nước đúng
đưa Người vượt hẳn lên phía trước so với những người yêu nước đương
thời, khắc phục căn bản khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.
Theo Lênin một người “chỉ xứng đáng với danh hiệu nhà tư tưởng khi

nào họ đi trước phong trào tự phát chỉ đường cho nó, khi nào họ biết
giải quyết, trước những người khác, tất cả các vấn đề lý luận CT sách
lược và các vấn đề tổ chức mà “những yếu tố vật chất” của phong trào
hút phải một cách tự phát” HCM là một nhân vật kiệt xuất trong những
con người như thế.
Chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy
HCM đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng
chủ nghĩa yêu nước truyền thống ở HCM lên bước phát triển về chất
phù hợp với thời đại mới. Người nói “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu
nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin
theo quốc tế thứ 3. Từng bước một trong cuộc đấu tranh vừa nghiên
cứu lý luận Mác Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được
rằng chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người LĐ trên thế giới khỏi ách nô lệ” Như vậy tư tưởng
HCM là thuộc hệ tư tưởng Mác Lênin. Những phạm trù cơ bản của tư
tưởng HCM cùng nằm trong các phạm trù cơ bản của lý luận Mác
Lênin. Tuy nhiên tư tưởng HCM không phải chỉ là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh và điều kiện VN mà còn là sự

phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác Lênin ở thời đại các dân
tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập tự do.
Cuối cùng phải nói đến những nhân tố chủ quan thuộc về
phẩm chất cá nhân của HCM là nhân tố rất quan trọng để hình
thành và phát triển tư tưởng HCM:
Đó là tư chất bản lĩnh trí tuệ, tâm hồn, phong cách đặc biệt
được tôi luyện trong hoạt động thực tiễn lâu dài. Đó là tư duy độc lập tự
chủ sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong việc
nghiên cứu tìm hiểu phong trào thế giới đặc biệt là các cuộc CM TS rút
ra những kết luận cần thiết để vận dụng vào điều kiện nước ta. Đó là
khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại,
vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong
trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin KH
về CM của giai cấp vô sản quốc tế và đó là tâm hồn của một chiến sĩ


5
nhiệt thành CM một trái tim yêu nước thương dân vô bờ bến sẳn sàng
chịu đựng hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc vì tự do hạnh phúc
của đồng bào. Chính thông qua phẩm chất trí tuệ và năng lực đặc biệt
đó mà truyền thống vẽ vang của dân tộc cùng với các giá trị kim cổ
đông tây được hấp thụ chắc lọc thành một sản phẩm đặc biệt-tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Tóm lại trong các nguồn gốc nói trên chủ nghĩa yêu nước là
cơ sở ban đầu và động lực thúc đẩy Người tự giác đến với chủ nghĩa
Mác Lênin. Còn chủ nghĩa Mác Lênin đã nâng chủ nghĩa yêu nước lên
một bước phát triển mới về chất phù hợp với thời đại mới. Chủ nghĩa
Mác Lênin là nguồn gốc trực tiếp và chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tinh hoa văn hóa nhân loại đã giúp HCM hiểu sâu sắc chủ nghĩa
Mác Lênin, làm phong phú bản sắc tư tưởng của Người do kết hợp

được dân tộc với thời đại, VH phương Đông và phương Tây và nâng
tầm VH CT của Người ngang tầm thời đại…Sự hình thành tư tưởng
HCM không phải là số cộng giản đơn ba bộ phận đó. Ở đây diễn ra một
quá trình tổng hợp chắc lọc qua tư duy độc lập, qua trí tuệ và nhân cách
lớn của HCM trên cơ sở một bản lĩnh CT kiên định và cốt cách VH độc
đáo của Người. Đó cũng là kết quả tổng hợp của cả quá trình lăn lộn
đấu tranh lâu dài trong thực tiễn gian khổ hiểm nguy ở hầu khắp các
châu lục; là một quá trình tự rèn luyện tự học tập tích lũy kiến thức,
kinh nghiệm sống và chiến đấu của Người. /.

-----

câu 2a: Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong tư tưởng giải phóng dân tộc.
Câu 2b: Làm rõ những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong
tư tưởng về Cách mạng giải phóng dân tộc.
Câu 2c: Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Từ giữa thế kỷ 19, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta,
mặc dù các phong trào chống Pháp liên tục nổ ra, người trước ngã
người sau đứng lên nhưng tất cả các cuộc nổi dậy ấy đều thất bại.
Nguyên nhân có nhiều nhưng suy cho cùng nguyên nhân chủ yếu là
chưa có một đường lối đúng.
Bằng thiên tài trí tuệ và nghị lực phấn đấu phi thường
vượt qua những hạn chế của những người yêu nước cùng thời,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành không tán thành chủ
trương cứu nước của cụ Phan Bội Châu, cũng như cụ Phan Chu
Trinh, tuy người hết sức khâm phục tinh thần yêu nước của hai cụ:
“cụ Phan Chu Trinh thì yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương …
chẳng khác gì xin giặc nhủ lòng thương”, “cụ Phan Bội Châu hy
vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, điều đó rất nguy hiểm chẳng khác

gì đưa Hổ cửa trước rướt Beo cửa sau”.
Chính vì thế, Nguyễn Tất Thành quyết định tìm đường cứu
nước khác.
Tháng 6/1911 Nguyễn Tất Thành ra đi với mục đích: “tôi
muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem xét họ làm như thế nào , tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của CM tư sản Pháp đã thúc
dục Nguyễn Tất Thành đi đến những nước có cuộc CM tư sản thắng
lợi.
Suốt nhiều năm xông pha, người đã có mặt ở nhiều nước,
tiếp xúc với nhiều lớp người thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Khi
đến các nước tư bản phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, người nhìn
thấy cảnh giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột thậm tệ. Khi sang
các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ La Tinh người tận mắt thấy


6
nhiều dân tộc, bị thực dân thống trị hết sức hà khắc, giã man. Nhận
ra kẻ thù chung, người đi đến kết luận quan trọng: dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột
và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là
thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (Hồ Chí Minh toàn tập NXB chính
trị QG Hà Nội 1995, tập 1, trang 266).
Từ tấm lòng yêu nước thương dân, đến sự phân biệt XH có
hai giống người, ở người đã có sự chuyển biến sâu sắc, hình thành ý
thức giai cấp rõ rệt khiến người đến một cách rất tự nhiên với chủ
nghĩa Mác - Lê nin đỉnh cao của trí tuệ nhân lọai, khi được đọc luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Những năm hoạt động trong phong trào cộng sản , phong
trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc , tiếp tục nghiên

cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin , học tập kinh nghiệm của các Đảng
cộng sản , kinh nghiệm của Liên xô quê hương của CM tháng 10
Nga, người đã tích lũy những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn
phong phú, hình thành dần đường lối cứu nước. Luận cương của Lê
nin đã giải đáp trúng những vấn đề mà Bác Hồ đang tìm hiểu và
người đi đến khẳng định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường CM vô sản”. Có thể nói
đây là bước ngoặc căn bản sau 10 năm đi tìm chân lý để giải phóng
đồng bào, kết thúc một quá trình chuyển biến trong nhận thức tư
tưởng của Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa Mác
- Lê nin.
Tìm thấy cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng của
dân tộc Việt Nam, ngày 3/2/1930 người chủ trì thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh: muốn thực hiện thành công CM
giải phóng dân tộc, điều kiện đầu tiên đảm bảo phải có Đảng cộng
sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp vô sản, người đại diện
cho dân tộc Việt Nam.
Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do người trực
tiếp sọan thảo như: chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt là mẫu

mực của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành cương lĩnh đầu tiên
của Đảng ta. Đó là chủ trương làm CM tư sản dân quyền, CM và
thỗ địa CM để đi tới XH cộng sản.
Như vậy ngay từ khi thành lập Đảng, tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa XH đã được thể
hiện rất rõ ràng. Đây là luận điểm trung tâm xuyên suốt trong tòan
bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê nin nhận thức được xu thế
phát triển của thời đại, Hồ Chí Minh sớm chỉ ra CM giải phóng dân

tộc phải đi theo con đường của CM vô sản và CM Việt Nam là một
bộ phận khắng khít của CM thế giới. Từ luận điểm coi chủ nghĩa đế
quốc là con đĩa 2 vòi, CM ở chính quốc và CM giải phóng dân tộc ở
thuộc địa là hai cánh của một con chim, là hai dòng thác của trào
lưu CM thế giới. phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào
điều kiện cụ thể một nước thuộc địa , Hồ Chí Minh đã di đến một
luận điểm mới: CM thuộc địa không phụ thuộc vào CM ở chính
quốc , mà cần được tiến hành với tinh thần chủ động sáng tạo, tự
lực đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Hơn nữa lại còn
có thể giúp đỡ được người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm
vụ giải phóng hòan tòan. Do vậy ở những nước thuộc địa phải đặt
lên hàng đầu CM giải phóng dân tộc để đi tới chủ nghĩa XH. Đây là
bài học lịch sử lớn, có ý nghĩa nguyên tắc nói lên nguyên lý: thực
tiễn là tính chất của chân lý , CM là sáng tạo, giáo điều, rập khuôn
sẽ dẫn tới thất bại.
Luận điểm các dân tộc đứng lên tự giải phóng, được Hồ
Chí Minh quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo CM Việt Nam.
Trong CM tháng 8, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải “đem sức ta ra mà tự
giải phóng cho ta” trong kháng chiến chống mỹ là tinh thần “tự lực
cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”… với tinh thần đó Hồ Chí
Minh luôn luôn đề cao sức mạnh động lực dân tộc , xây dựng lực
lượng CM trong nước là yếu tố quyết định thắng lợi cuộc CM. Mặt


7
khác người vẫn hết sức tranh thủ sự đồng tình , giúp đỡ của các lực
lượng CM, lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Người xác định CM giải phóng dân tộc là của tòan dân,
nghĩa là Sĩ, Nông, Công, Thương đều chống lại cường quyền, không
phân biệt giai cấp Đảng phái, địa vị XH, giàu nghèo. Tuy vậy trong

tòan dân , Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định: CM Việt Nam do
giai cấp công nhân lãnh đạo dựa trên nền tảng liên minh Công-Nông
và Trí thức.
Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần yêu nước của bộ phận
tư sản dân tộc Việt Nam. Theo người , công nhân, nông dân, tiểu tư
sản , tư sản dân tộc cùng với các thân sĩ yêu nước hợp thành lực
lượng CM trong CM giải phóng dân tộc. Sắp xếp lực lượng CM của
Hồ Chí Minh vừa đúng với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin ,
vừa phù hợp với đặc điểm của dân tộc, đất nước Việt Nam.
Thấu hiểu sâu sắc chính sách thuộc địa tàn bạo của chủ
nghĩa đế quốc và từ những kết luận rút ra qua khảo sát , nghiên cứu
phong trào giải phóng dân tộc ở một số nước thuộc địa , Hồ Chí
Minh chỉ rõ: muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường
CM bạo lực.
Trong quá trình lãnh đạo CM , người biết kế thừa truyền
thống và kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của dân tộc, vận dụng
sáng tạo lý luận bạo lực CM của chủ nghĩa Mác - Lê nin , tiếp thu
tinh hoa lý luận và những kinh nghiệm quân sự của thế giới , Hồ
Chí Minh đã đề ra và dần dần hoàn chỉnh lý luận bạo lực CM. Đó là
sự tổng hợp các yếu tố chính trị , quân sự , với nhiều bước đi, nhiều
biện pháp , hình thức đấu tranh cụ thể để đạt được mục tiêu của
từng chặng đường tiến tới mục đích cuối cùng là đánh đổ thực dân,
giành độc lập dân tộc tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Khẳng định giải phóng dân tộc phải bằng con đường bạo
lực CM, song Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp
để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của CM. Thực tiễn CM

Việt Nam đã chứng minh tư tưởng này của Hồ Chí Minh là đúng
đắn.
Tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam

khẳng định: công lao to lớn của Hồ Chí Minh là người đã tìm con
đường cứu nước đúng đắn , gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục
tiêu chủ nghĩa XH và cống hiến suốt đời cho mục tiêu đó. Với tư
tưởng này, Hồ Chí Minh chẳng những đã đưa nước Việt Nam đến
độc lập tự do, thống nhất tòan vẹn mà còn góp phần to lớn vào sự
nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. chính vì thế
Hồ Chí Minh đã được nhân lọai tôn vinh là anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Ngày nay Đảng ta và nhân dân ta vẫn kiên định con đường
CM với mục tiêu mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn: “Đảng và nhân dân
ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh…tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”
(VKĐH 9 trang 20, 21).
Đảng ta xác định mục tiêu CM: dân giàu, nước mạnh, XH
dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân mục
đích để phát huy sức mạnh toàn dân tộc để xây dựng đất nước.
Các dân tộc Việt Nam đều có quyền bình đẳng tạo điều
kiện giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ quốc
tế.
Kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.


8
Câu 3a: Phân tích cơ sở để Hồ Chí Minh lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở lý luận.

Câu 3b: Làm rõ căn cứ khoa học để Hồ Chí Minh lựa
chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở VN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một trong những
nội dung cơ bản trong toàn bộ tư tưởng của Người. Trong những thập
niên đầu của thế kỷ 20, cả dân tộc đang bị đoạ đày đau khổ dưới ách
thống trị của thực dân Pháp và tay sai, với tấm lòng yêu nước thiết tha
Người đã ra đi tìm đường cưú nước, giải phóng cho dân tộc khỏi áp bức
bóc lột và Người đã tìm được con đường cứu nước là con đường cách
mạng vô sản. Người nhận thấy “Chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức, những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”. Việc lựa chọn con đường XHCN là một cống hiến to lớn
của Người đối với cách mạng Việt Nam. Vậy cơ sở nào để Hồ Chí
Minh lựa chọn mục tiêu CNXH – CNCS ở Việt Nam? Đó là vấn đề mà
chúng ta sẽ cùng làm rõ dưới đây.
Cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vũ khí tư tưởng và
lý luận cách mạng khoa học của thời đại đã giúp cho Hồ Chí Minh lựa
chọn con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc. Ra đời vào giữa thế
kỷ 19, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đáp ứng được yêu cầu bức thiết giữa
lúc phong trào chủ nghĩa quốc tế đang khủng hoảng đường lối, đã trở
thành lý luận soi đường và phương pháp đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước XHCN đầu
tiên trên thế giới sau cách mạng tháng 10 Nga 1917, là thực tiễn sinh
động chứng minh bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, chứng minh sự đúng đắn của con đường cách mạng vô sản, cách
mạng tháng 10 Nga đã cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu
tranh và ý nghĩa của nó đã được Hồ Chí Minh đánh giá: “Giống như
mặt trời chói lọi, cách mạng tháng 10 chiếu sáng khắp năm châu, thức
tỉnh hàng triệu triệu người bị bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài
người chưa có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn sâu xa như thế”.


Hồ chí Minh cũng đã lựa chọn đi theo con đường cách mạng thế giới để
giải phóng dân tộc và đi lên CNXH. Đó là sự lựa chọn đúng qui luật,
phù hợp xu thế lịch sử. Lý luận về HTKT – XH của chủ nhiã Mác Lênin đã chỉ rõ xã hội loài người phát triển theo xu hướng đi lên trải
qua 5 hình thái kính tế xã hội mà hình thái kinh tế xã hội sau cao hơn,
tiến bộ hơn hình thái kinh tế xã hội trước nó. Và thực tiễn, lịch sử cũng
đã chứng minh loài người đã trải qua hình thái kinh tế xã hội: Công sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện
nay đang là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nếu chế độ tư bản chủ
nghĩa tất yếu ra đời từ chế độ phong kiến thì chủ nghĩa tư bản cũng sẽ
xác lập các tiền đề kết quả để tự phủ định nó, và theo Hồ Chí Minh,
logic tiến lên xã hội cho thấy đã đến lúc chủ nghĩa tư bản mở đường
cho sự ra đời một chế độ xã hội mới là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiến
lên chủ nghĩa xã hội là qui luật vận động kết quả của lịch sử trên phạm
vi toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ là thứ vũ khí lý luận không
gì thay thế được, là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam là mặt trời soi
sáng cho con đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng,
đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở Hồ Chí Minh, Người tiếp
thu chủ nghĩa Mác – Lênin là tiếp thu những nguyên lý cơ bản, tiếp thu
phương pháp biện chứng chứ không sao chép giáo điều. Người vận
dụng sáng tạo lý luận về chủ nghĩa không ngừng vào cách mạng Việt
Nam. Người đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp. Theo Người : “Trong thời đại ngày nay, cách mạng
giải phóng dân tộc là một bộ phận khắng khít của cách mạng vô sản
trong phạm vi toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến lên
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn”. Như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc không phải là mục đích
cuối cùng mà nó chỉ là khúc dạo đầu của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản và chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới thức sự giải phóng
được nhân dân lao động, mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho
mọi người.



9
Chủ nghĩa xã hội là ước mơ của nhân dân lao động trên toàn thế
giới, nó đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa tư bản đầy máu và nước mắt.
Đó là máu và nước mắt của giai cấp vô sản, chính quốc và của nhân
dân thuộc địa : Hồ Chí Minh đã nói: Chủ nghĩa đế quốc là con đĩa hai
vòi, một vòi hút máu nhân dân lao động chính quốc, một vòi hút máu
nhân dân thuộc địa. Và một vòi nhơ nhớp đó đã vươn tới Việt Nam vào
năm 1858 khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta và đặt ách đô hộ trên
toàn cõi Việt Nam. Công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã
làm cho tính chất xã hội Việt Nam thuộc điạ một nhiệm hai màu hai
mâu thuẫn cơ bản la ømâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp và mâu thuẫn nông dân với điạ chủ phong kiến. Từ thực trạng xã
hội Việt Nam đòi hỏi cách mạng Việt Nam phải giải quyết hai mâu
thuẫn đó, phải giành độc lập – tự do, phải xoá bỏ mọi chế độ áp bức
bóc lột bất công, thiết lập một xã hội công bằng nhân ái. Đây cũng là cơ
sở thực tiễn để Hồ Chí Minh lựa chọn mục tiêu Chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Bởi vì chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới xây dựng được
một xã hội tốt đẹp mới giải quyết được hài hòa cả hai mâu thuẫn của xã
hội Việt Nam bấy giờ. Một khía cạnh khác mà Hồ Chí Minh đã nhận
thấy là sự cai trị dã man, những hình thức bóc lột tàn bạo của bọn thực
dân đối với người bản xứ đã làm cho tinh thần cách mạng thêm âm ĩ,
mãnh liệt, làm cho ý thức độc lập , tự chủ, tinh thần yêu nước càng trỗi
dậy, ở các dân tộc Đông Dương. Người đã kết luận : “ Sự tàn bạo của
chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm
cái việc gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Đây là một
luận điểm sáng tạo và hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa
xã hội ra đời chính từ sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Tại các nước
thuộc điạ các hình thức bóc lột, nô dịch của bọn thống trị đã làm bộc lộ

những khuyết tật phản nhân tính bẩm sinh không thể khắc phục được
chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ SMLS
của mình trước vận mệnh quốc gia, dân tộc chủ nghĩa xã hội với tư
cách là một chế độ xã hội có khả năng xóa bỏ mọi xiềng xích, nô dịch,
là một xã hội không có người bóc lột, Người đã trở thành ngọn cờ vẫy

gọi các dân tộc thuộc điạ vùng dậy làm cách mạng giải phóng dân tộc
để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, sự lựa chọn con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa
là xuất phát từ thực trạng xã hội Việt Nam, song bên cạnh đó, sự lựa
chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội còn xuất phát từ thực tiễn của các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới. Trải qua bao năm bôn ba nước ngoài
và khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng
tư sản Pháp 1789, cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách mạng tháng 10
Nga 1917. Người đã rút ra những kết luận quan trọng. Người đã phát
hiện ra rằng các cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng Pháp, Cách
mạng Mỹ là những cuộc cách mạng không triệt để, tuy thành công
nhưng không đến nơi đến chốn vì người lao động vẫn chưa hoàn toàn
được giải phóng, xã hội còn đầy bất công. Đối với Hồ Chí Minh cơ sở
hàng đầu để đánh giá tính triệt để của một cuộc cách mạng là qui mô
giải phóng nhân dân lao động bị áp bức. Cách mạng dân chủ tư sản do
bản chất của nó, chỉ là sự thay thế hình thức áp bức bóc lột khác và đại
bộ phận người lao động vẫn sống cực khổ. Dưới nhãn quan của Hồ Chí
MInh chỉ có cách mạng tháng 10 Nga là triệt để là thành công đến nơi,
nhân dân lao động đã được giải phóng và trở thành người chủ của xã
hội. Người đã nhận định : “ Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng thật, không phải tự do và bình
đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam.
Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, điạ chủ, rồi lại ra sức cho

công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc điạ làm cách mệnh để
đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa, tư bản và thế giới”. Từ đó mà Người
đã lựa chọn con đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo cách mạng
tháng 10. Trên đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn để Hồ Chí Minh
lựa chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Ở đây, không thể không bàn đến một nhân tố đã đóng góp vào sự lựa
chọn đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Nhân tố đó chính là bản lĩnh
cốt cách và tinh thần cách mạng triệt để của Hồ Chí mInh. Trong những


10
thập niên đầu thế kỷ 20 không phải chỉ có Hồ Chí Minh là người Việt
Nam duy nhất được đọc lý luận Mác - Lênin, được biết về cách mạng
tháng 10, nhưng duy nhất chỉ có Hồ Chí Minh là dứt khoát và quyết
tâm theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường cách mạng tháng
10, tinh thần quyết tâm đó của Hồ Chí Minh đã được thể hiện trong
suốt quá trình đấu tranh chủ nghĩa và thực tiễn của cách mạng Việt
Nam đã chứng minh cho sự lựa chọn đó là sáng suốt và đúng đắn. Ngày
nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một là công cuộc đổi
mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn mãi sáng soi cho cả dân tộc đi
đến mục tiêu mà. Người đã lựa chọn cho nhân dân ta từ những năm 30
của thế kỷ 20. Đảng ta củng cố xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và cách mạng Việt nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng
Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên trì với mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, là vấn đề có
tính nguyên tắc. Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình đổi mới, đổi mới để có chủ nghĩa xã hội và hơn chứ không phải để
“đổi màu”. Vết xe đổ của Liên Xô và Đông Âu là bài học xương máu
cho cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới, cần đấu tranh bảo

vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần quí báu của Đảng và dân tộc,
tư tưởng đó luôn sống động mang tính khoa học và cách mạng cho nên
cần được giữ gìn. Mỗi cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng Hồ
Chí Minh và hành động theo tư tưởng của Người. Mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua không thể tách rời tư tưởng
Hồ Chí MInh và ngày nay tư tưởng đó tiếp tục sáng soi cho toàn Đảng
toàn dân trên chặng đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, biết
bao ước mơ cao đẹp “ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” của Người trở thành hiện thực

CÂU 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền.
(“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là độc lập dân tộc, là hòa
bình và ấm no”; Đảng ta là tiêu biểu cho trí tuệ dân tộc và thời đại; là
lương tâm, đạo đức của dân tộc; là ý chí của dân tộc, phát huy quyền
làm chủ của nh.dân gắn bó với nhân dân).
Câu 4a : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm
quyền trong sạch, vững mạnh
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và đã trở
thành một tài sản tinh thấn quí báu của Đảng và của dân tộc. Trong toàn
bộ tư tưởng của Người thì tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CS là một bộ
phận quan trọng, là sự kế thừa, bổ sung và phát triển, sáng tạo tư tưởng
của Mác – Ănghen và nhứt là những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của
Lênin trong điều kiện Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định cách
mạng : “trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững, thuyền mới chạy”. Đảng CSVN ra đời là kết

quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Đảng đã đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu KQ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
đang khủng hoảng đường lối cứu nước. Cách mạng tháng 8 thành công
mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, đưa Đảng ta lên đảng cầm
quyền, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ xã hội. Trên cương vị
mới Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước tiến lên CNXH. Sau đây,
chúng ta cùng tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm
quyền trong sạch vững mạnh.
Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
: “Là Đảng cách mạng, là Đảng lãnh đạo. Ngoài lợi ích của nhân dân và
của giai cấp công nhân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Là một
Đảng cầm quyền, Đảng có chức năng lãnh đạo cùng nhiệm vụ và lãnh
đạo các tổ chức chính trị, xã hội. Sự lãnh đạo đó được thể hiện bằng
đường lối chủ trương, bằng quy hoạch bố trí đội ngũ cán bộ và bằng
việc kiểm tra đôn đốc giám sát, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm
bảo cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


11
Muốn thực hiện được vai trò chức năng của một Đảng cầm
quyền, hoàn thành được sứ mệnh mà giai cấp và dân tộc đã ủy thác,
Đảng ta phải được trang bị lý luận tiên tiến, cách mạng và khoa học. Hồ
Chí Minh cho rằng : “Đảng muốn vững mạnh phải lấy chủ nghĩa làm
cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo CN ấy. Đảng mà
không có CN cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam”. Vào những năm đầu thể kỷ 20, khi Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước, trên thế giới, trên thế giới có

rất nhiều hệ thống lý luận, nhưng sau bao năm bôn ba hải ngoại, lăn lộn
với phong trào công nhân, tìm hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin và cách
mạng T.10 Nga, Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Bây giờ học thuyết và
CN và những chủ nghĩa chân chính nhứt , chắc chắn nhứt, cách mạng
nhứt là chủ nghĩa Lênin” và Đảng ở Việt Nam phải là một Đảng “theo
chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Sự lựa chọn đó là hoàn toàn đúng đắn. Chủ nghĩa Mác –
Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học chỉ ra thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn để giai cấp công nhân và nhân dân các dân
tộc thuộc địa đứng lên làm cách mạng cải tạo thế giới giải phóng cho
giai cấp, cho dân tộc khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Sự đúng đắn của
đường lối cách mạng do Đảng ta vạch ra ngay từ buổi đầu mới thành
lập bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh đã quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác
– Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Đảng ta vượt qua những trận
thử thách … Như vậy, Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh
đạo đó trên mọi lĩnh vực đã đập tan mọi âm mưu của giai cấp tư sản
hòng tranh quyền lãnh đạo cáchmạng với Đảng ta.
Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta đã vạch ra
được lối chủ trương đúng đắn, sát hợp đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác mà thực tiễn cách mạng Việt Nam là
chứng minh hùng hồn nhứt để đảm bảo sứ mệnh dẫn lối soi đường đó
thì việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ xuyên suốt
của Đảng ta và là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch,
kiểu mẫu”. Đảng ta phải thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc về tổ
chức và xây dựng Đảng mà trong đó tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo
cá nhân phụ trách, phê bình và tự phê bình là nguyên tắc bất di bất dịch
của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ bản và
quan trọng nhứt trong học thuyết vì Đảng kiểu mới của Lênin và được
Hồ Chí Minh rất coi trọng và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể để xây

dựng Đảng CSVN. Tập trung nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp
dưới phục tùngcấp trên, tất cả Đảng viên phải chấp hành vô điều kiện

nghị quyết của Đảng. Người nhấn mạnh: “Đảng tuy đông người nhưng
khi tiến hành chỉ như một người”. Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh
dân chủ (trong Đảng) “Dân chủ là của quí báu nhứt của nhân dân”, phải
chú ý thực hành rộng rãi dân chủ của Đảng “Phải thực sự mở rộng dân
chủ để tất cả các Đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình, phải gom góp ý
kiến của Đảng viên để giúp đỡ trung ương chuẩn bị đại hội Đảng cho
thật tốt”. Ở Hồ Chí Minh về nguyên tắc này dân chủ + sinh hoạt Đảng
là sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và tập trung, tập trung trên
nền tảng dân chủ và dân chủ dướisự chỉ đạo tập trung. Nguyên tắc này
là tiêu chí quan trọng để xem xét một Đảng còn là Đảng mác – xít chân
chính nữa hay không ?
Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng ta. Hồ Chí Minh cho rằng : “tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ
trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau. Nếu lãnh đạo không tập thể thì
sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”.
Còn nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ỷ
cho người kia, người kia ỷ cho người nọ, kết quả là không ai thi hành
như tục ngữ có câu : “Nhiều sải không ai đóng cửa chùa”.
Phê bình và tự phê bình được coi là “quy luật” phát triển của
Đảng “Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhứt, nó giúp cho
Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ đó mà chúng ta sửa chữa
khuyết điểm, ưu điểm, tiến bộ không ngừng”.
Hồ Chí Minh cho rằng con người ai cũng có khuyết điểm chỉ
khác nhau ở mức độ và trạng thái biểu hiện mà thôi. “Người đời không
phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm”.
Theo Hồ Chí Minh “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa
chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng

hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Mỗi cán bộ Đảng viên phải
kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa hàng ngày giống như mỗi ngày
phải rửa mặt, và vấn đề này Hồ Chí Minh rất gương mẫu thực hiện.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, còn phải thường
xuyên chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng.
Chỉnh đốn Đảng để lúc khó khăn không bị bi quan dao động, để Đảng
có đủ năng lực lãnh đạo khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới. Hồ
Chí Minh đã nêu lên nhiệm vụ phải “chấn chỉnh” bộ máy càng “chỉnh
đốn”. Các đoàn thể quần chúng và “muốn làm được những việc trên,
trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng”. Chỉnh đốn là để tăng cường sự
đoàn kết nhất trí trong Đảng, để tăng cường sức chiến đấu của Đảng.
Người đã chỉ ra rằng “Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng càng thêm vững


12
chắc bảo đảm cho Đảng ta càng trong sạch, càng mạnh mẽ, đảm bảo
cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của chúng ta càng giành được thắng lợi
to lớn hơn nữa”.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên, Người rất quan tâm
đến giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng viên về tất cả
các mặt trong đó có 03 vấn đề chủ yếu nhứt là: Suốt đời phấn đấu hy
sinh cho Đảng, cho tổ quốc; Đặt quyền lợi của Đảng, của tổ chức lên
trên hết; có một đời tư trong sáng”. Theo Hồ Chí Minh “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”, “Muốn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém”. Người đã so sánh “cán bộ là dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù
chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”. Trong sử dụng cán bộ, Người yêu cầu
phải “hiểu, đánh giá đúng cán bộ”, phải “khéo dùng cán bộ”; “dùng
người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy
chỗ mà dùng được”; phải “chiêu hiền đãi sĩ”, “cần người hiền tài” “có

gan cất nhắc cán bộ”; phải chống bệnh tự phong, cục bộ, đầu óc phe
phái, họ hàng.
Quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân là một nội dung
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan niệm của Người là “Nước
lấy dân làm gốc, bao nhiêu lợi ích vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân”. Đảng, cán bộ Đảng viên “Vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ
trung thành của nhân dân”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng phải gắn
bó máu thịt với dân. Dân là lực lượng vô tận của cách mạng, thắng lợi
của cách mạng là do Đảng đã tổ chức và giải phóng được lực lượng
đó”.
Người đã chỉ rõ giữ chặt chẽ mối quan hệ với dân chúng và
luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng
của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi.
Do vậy cán bộ Đảng viên phải lắng nghe ý kiến của nhân dân,
phải: “Học dân chúng”, phải “nâng cao dân chúng, nâng tầm trí tuệ và
sức mạnh của nhân dân. Cả cuộc đời của Hồ chí Minh là một tấm
gương về gần dân, hiểu dân, và vì dân. Người đã lo vun đắp cho cái
“gốc” nhân dân bền vững để cây đời cách mạng trổ hoa kết trái thắng
lợi, “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng CSVN nói chung
và về xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh là rất phong
phú, là bước phát triển học thuyết Mác – Lênin về Đảng CS vào Việt
Nam. Những dung đó vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay
và mãi mãi là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của

chúng ta. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới
và chỉnh đốn Đảng hiện nay có ý nghĩa then chốt. Đại hội VII của Đảng
đã xác định: “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”. Đảng ta phải thực hiện tốt
những nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, phải xây dựng các tổ chức

cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ Đảng viên phải đảm
bảo nâng cao chất lượng, số lượng, trong sạch về đạo đức, lối sống.
Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới
hiện nay, chúng ta phải kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ và phát triển học
thuyết và tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh chống DSHB, chống đa
nguyên đa đảng đối lập, phủ nhận quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng
CSVN


13
CÂU 5: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước trên cơ sở hiến pháp
và pháp luật ?
(Vị trí của vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật, vì sao?;
Nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, có hệ
thống P.luật hoàn chỉnh, tiến bộ; có đội ngũ cán bộ, công chức...)
Câu 5b : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà Nước
quản lý xã hội bằng pháp luật
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần quý báu của
Đảng và dân tộc. Tư tưởng đó là sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa
nhân loại và của dân tộc, là sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam. Trong toàn bộ nội dung tư tưởng
của Người thì tư tưởng về nhà nước chính là sự kế thừa và phát triển
của Hồ Chí Minh về các kiểu nhà nước trong lịch sử, là sự vận dụng lý
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước vào điều kiện nước ta.
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư
tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, Người đã ra đi tìm đường cứu
nước và đã tìm thấy con đường cách mạng vô sản, đồng thời Hồ Chí

Minh cũng lựa chọn xây dựng một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, một
nhà nước của dân do dân, vì dân khác về bản chất so với nhà nước thực
dân phong kiến. Người đã nhận thức được tất cả các nhà nước trước
cách mạng vô sản đều chỉ là nhà nước của một số ít người, nhà nước
của giai cấp bóc lột. Vì thế Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : “Chúng ta đã hy
sinh làm cách mạng thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng, chớ để trong tay một số ít
người”.
Nhà nước kiểu mới theo Hồ Chí Minh là một nhà nước của
dân, do dân. “Tất cả quyền bính trong lúc này là của toàn thể nhân dân
Việt Nam. Việc nước là việc chung, mỗi một người con rồng cháu tiên,
bất kỳ già trẻ gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh vác
một phần …”. Nhân dân là người bầu ra nhà nước, bầu ra quốc hội và

chính phủ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh “tổng tuyển cử là một dịp cho toàn
thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài có đức để gánh vác
công việc nước nhà” và “hễ là công dân đều có quyền đi bầu cử”. Nhân
dân có quyền kiểm soát, góp ý, phê bình chính phủ, dân có quyền bãi
miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân nếu họ không còn xứng
đáng và làm hại dân.
Nhà nước kiểu mới là phải coi việc đưa lại quyền lợi chính
đáng cho nhân dân là mục tiêu hoạt động của mình. Đó là nhà nước vì
dân, phải đặt quyền lợi của nhân dân trên hết “Việc gì có lợi cho dân ta
phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Nhà
nước phải chịu trách nhiệm trước dân, nhà nước là công bọc, là đầy tớ
của nhân dân, phải yêu dân, kính dân.
Như vậy nhà nước kiểu mới theo Hồ Chí Minh là nhà nước
của dân do dân vì dân, thể hiện rõ quan điểm: “Nước lấy dân làm gốc”.
Đó là nhà nước xây dựng trên khối liên minh chủ nghĩa, trí thức do
Đảng cộng sản lãnh đạo là nhà nước quản lý xã hội bằng hiến pháp và

pháp luật. Vấn đề xây dựng một nhà nước pháp quyền dựa trên cơ sở
phục vụ nhân dân, đã được thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người có ý thức rất sớm về tầm quan trọng của pháp luật trong việc
quản lý xã hội, trong bảng yêu sách của nhân dân An Nam do Người
soạn thảo gởi đến hội nghị Vecsây 1919 đã thể hiện tư tưởng pháp
quyền của Hồ Chí Minh. Người đã yêu cầu “Cải cách nền pháp lý ở
Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng
những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu Châu” “Thay chế độ ra
sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Trong quan niệm của Hồ Chí
Minh, pháp luật phải là ý chí của giai cấp công nhân đồng thời là ý chí
của nhân dân lao động, là văn kiện của một giai cấp thống trị. Luật
pháp của chế độ thực dân phong kiến, đặt ra là để bảo vệ lợi ích cho
giai cấp bóc lột…còn hiến pháp, pháp luật của ta là bảo vệ quyền lợi
cho nhân dân lao động. Pháp luật là phải lấy chữ nhân làm trọng và
phải thấy mối quan hệ giữa đức trị và pháp trị. Đây là điểm rất đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một tư tưởng thắm đượm chủ nghĩa nhân


14
đạo, chủ nghĩa nhân văn, luôn chú trọng đến con người, vì sự nghiệp
giải phóng con người, luôn tìm cách hướng con người đến cái chân
thiện mỹ. Người bao giờ cũng nhấn mạnh đến cả hai yếu tố “có lý có
tình”. Người đã kết hợp nhuần nhuyễn cả “đức trị” và “pháp trị”. Người
dùng sức cảm hóa để ngăn ngừa tiêu cực có thể xảy ra với phương
châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng
bao dung, nhân hậu nhưng Người cũng rất nghiêm khắc bỏ qua sai lầm,
khuyết điểm, không bao che, luôn đòi hỏi sự bình đẳng trước pháp luật.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền Người
đã có ý trước hết tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực nhà nước. Khi
nhà nước Việt Nam mới ra đời năm 1945, Người muốn làm nhanh

“càng sớm càng tốt” cuộc tổng tuyển cử để bầu ra quốc hội và sau đó là
ủy ban soạn thảo hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Trong 24 năm làm chủ tịch nước (1945 – 1969) Hồ Chí Minh đã
chủ trì soạn thảo hai hiến pháp năm 1946 và 1959. Đó là cơ sở pháp lý
của quyền lực nhà nước. Người cũng thường xuyên nhắc nhỡ hoạt động
của bộ máy hành pháp, trị pháp phải dựa trên cơ sở vững chắc của hiến
pháp và pháp luật.
Hồ Chí Minh không theo thuyết “tam quốc dân lập”, đây là lý
luận xây dựng nhà nước tư sản được nhà nước áp dụng từ trước đến
nay. Quan điểm của Hồ Chí Minh là không có sự chia sẻ quyền lực mà
quyền lập pháp (quốc hội) hành pháp (chính phủ), tư pháp (viện kiểm
sát tòa án) phải thống nhất chặt chẽ với nhau để tất cả quyền lực đều
thống nhất là quyền lực của nhân dân. Nhưng giữa các quyền đó có sự
phân công, phối hợp nhau, tránh chòng chéo và phản quyền.
Nhà nước quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật là tư
tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Tư tưởng
này được thể hiện rất sớm qua bản yêu sách 8 điểm gởi đến hội Nghị
Vec-sây 1919. Người chú trọng đặc biệt đến việc xây dựng pháp luật và
việc đưa pháp luật vào thực hiện có kết quả trong cuộc sống. Theo
Người, phải tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân, làm cho dân
nắm được pháp luật, hiểu được luật và làm theo luật. Người yêu cầu các

cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức kể cả cán bộ chủ chốt phải gương
mẫu chấp hành. Ngay cả Đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm
gương về chấp hành hiến pháp và pháp luật, không có ngoại lệ nào dù
đó là chủ tịch nước.
Về xây dựng bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh nhất quán quan
điểm xây dựng ở Việt Nam. Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực cao
nhất; chính phủ là cơ quan hành chính cao nhứt. Với một nền hành

chính quốc gia hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ đặt dưới sự
kiểm soát chặt chẽ của nhân dân. Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng tổ
chức tư pháp hiện đại và dân chủ. Tòa án được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc độc lập với cơ quan hành chính, trong xét xử có phụ
thẩm nhân dân tham gia, thẩm phán do chính phủ bổ nhiệm, phiên tòa
xét xử công khai, quyền bào chữa của các bị cáo được bảo đảm trong
xét xử. Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không có
quyền can thiệp. Tóm lại, một bộ máy nhà nước kiểu mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là một bộ máy nhà nước hiện đại, dân chủ, có hiệu
lực, tránh tùy tiện. Hồ Chí Minh cũng coi trọng vấn đề cán bộ, công
chức nhà nước, đề cao vị trí và vai trò của họ. Người cho rằng: “Cán bộ
là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì
động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những
người đem chính sách của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân
dân, nếu cán bộ dỡ thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”.
Người có quan điểm nhất quán về tiêu chuẩn cán bộ – viên chức nhà
nước là phải vừa có đức, có tài, vừa hồng “vừa chuyên”. Hai mặt đó
phải luôn luôn đi đôi với nhau mà đức phải là gốc. Theo Hồ Chí Minh
tiêu chuẩn người cán bộ – công chức nhà nước có những yêu cầu là :
phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng (là yêu cầu đầu tiên
phải có), thành thạo công việc, phải có mối liên hệ mật thiết với dân,
phải dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm nhất là
trong những tình huống khó khăn, thất bại không hoang mang, thắng lợi
không kiêu ngạo, phải trung thực, luôn có chí tiến thủ, luôn luôn tự phê


15
bình và phê bình, biết người, biết việc, không thành kiến, không bao
che.
Trong việc lựa chọn người vào đội ngũ cán bộ – công chức

nhà nước, Hồ Chí Minh coi trọng biện pháp thi tuyển đội ngũ cán bộ –
công chức. Điều này thể hiện rõ trong hai sắc lệnh do Người ký 1948,
1950 hoặc sắc lệnh năm 1946 qui định tiêu chuẩn chuyên môn hóa cán
bộ tư pháp. Những qui định về thi tuyển, về tiêu chuẩn hoá đội ngũ viên
chức nhà nước của Người vẫn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình cải
cách hành chính hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước và
pháp luật trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải xây dựng một nhà
nước và đảm bảo cho nhà nước thật sự là của dân do dân, vì dân, phát
huy hơn nữa vai trò và quyền lực của nhân dân trong xây dựng nhà
nước của mình. Bộ máy nhà nước phải hoạt động có hiệu lực từ quốc
hội đến chính phủ và cơ quan tư pháp. Xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, khắc phục tình trạng pháp luật thiếu, sơ hở, bất cập đồng
thời đưa pháp luật vào thực thi có kết quả, tuyên truyền giáo dục pháp
luật cho nhân dân. Tiếp tục đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước, nâng cao trình độ mọi mặt để không bị “đuối tầm”,
trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa
hiện đại hóa. Tổ chức thi tuyển công chức, phòng ngừa và khắc phục
tình trạng một bộ phận cán bộ công chức tham ô, những nhiễm, thoái
hóa, biến chất.
Trong thời kỳ chống Pháp 1945 – 1954, do không có điều
kiện họp đoàn thể quốc hội, Hồ Chí Minh với tư cách là chủ tịch nước,
buộc phải ra những sắc lệnh nhưng Người luôn tôn trọng tính hợp hiến
của các sắc lệnh bằng cách xin ý kiến ban thường trực quốc hội.

CÂU 6: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết (cơ sở của việc xác định
khối đại đoàn kết; nguyên tắc, phương pháp xây dựng khối đại đoàn
kết).
Bài làm
Tư tưởng ĐĐK HCM là một hệ thống những luận điểm,

những nguyên tắc, những phương pháp giáo dục và tập hợp tổ chức
lực lượng cách mạng, nhằm phát huy với mức cao nhất sức mạnh
của dân tộc và sức mạnh của thời đại vào sự nghiệp đấu tranh vì độc
lập dân tộc và CNXH.
Đoàn kết là truyền thống quí báu, là sức mạnh vô địch của
dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Vì vậy, tư tưởng
ĐĐK HCM là nội dung xuyên suốt và nhất quán trong toàn bộ hệ
thống tư tưởng HCM nói chung và là cơ sở cho chiến lược của
Đảng ta, nhờ đó mà đã dẫn tới những thành công của cách mạng
Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ và XHCN.
Tư tưởng ĐĐK HCM được hình thành trên cơ sở truyền
thống đoàn kết, nhân ái, tình cảm trong lối sống tự nhiên và triết lý
nhân sinh của người Việt Nam. Đoàn kết dựa vào dân là tư duy
chính trị và là kế sách giữ nước của ông cha ta (biểu hiện trong thơ
ca văn học), và HCM đã kế thừa có chọn lọc những tư tưởng văn
hóa của phương đông có giá trị hợp lý như: tư tưởng nhân ái, tư
tưởng đại đồng, tinh thần từ bi bác ái và những trào lưu dân chủ tư
sản phương tây về tư tưởng tự do bình đẳng, bác ái. Mặt khác HCM
tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết và tập hợp lực lượng. Người đã thấm
nhuần quan điểm cách mạng của Mác: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, cho nên cách
mạng muốn mạnh phải đoàn kết các dân tộc, các giai cấp và các
tầng lớp khác thành lực lượng hùng mạnh để chống thực dân đế
quốc và áp bức bất công. Những quan điểm này được đúc kết thành


16
các khẩu hiệu trong phong trào cộng sản như “GCVS và các dân tộc
bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”.

Xuất phát từ thực tiễn XH Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX lúc này XH bị phân hóa sâu sắc, các giai cấp khác
thì có thái độ khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc, thực dân
Pháp dùng chính sách chia rẽ để tự làm cho mâu thuẫn XH gay gắt
thêm. Phong trào quần chúng chống pháp của Việt Nam lúc này rất
sôi nổi nhưng đều thất bại (hệ tư tưởng phong kiến, tư sản dân chủ
Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu…). HCM đã khảo sát tình hình thế
giới và đi đến kết luận rất quan trọng gắn liền với tư tưởng ĐĐK:
trên thế giới có hai loại người là người bóc lột và người bị bóc lột,
họ có cùng cảnh ngộ, cùng tâm tư nguyện vọng. Vì vậy, họ đoàn kết
lại với nhau để chống kẻ thù chung. HCM cho rằng các phong trào
giải phóng dân tộc chưa thành công là do các nước thuộc địa chưa
đoàn kết trên phạm vi toàn thế giới, HCM đã nghiên cứu các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới như Công xã Paris (1871), vì tổ
chức không khéo léo, không liên lạc với dân cày nên họ bị thất bại;
còn cuộc cách mạng tháng Mười Nga (1917) dạy chúng ta muốn
cách mạng thành công phải dân chúng là gốc. Mặt khác tư tưởng
ĐĐK HCM được hình thành từ những nhân tố chủ quan của Người
như môi trường giáo dục của gia đình, tư chất thông minh, bản lĩnh
chính trị vững vàng và tính năng động sáng tạo của HCM, Người
sớm tiếp thu với các nhà tiền bối yêu nước (Phan Chu Trinh, Phan
Bội Châu…), có tinh thần phấn đấu vươn lên không ngừng trong
học tập. Trong nắm bắt tri thức của Người, HCM có bản chất nhân
văn, đạo đức trong sáng, lòng rộng lượng bao dung, lo cho dân, lo
cho nước, yêu thương con người và có sức thu hút rất lớn với mọi
người, thu hút được sức mạnh ĐĐK.
Tư tưởng ĐĐK HCM định hướng cho việc xây dựng củng
cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự nghiệp đấu
tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng XH, giải phóng con
người. Đoàn kết là truyền thống quí báu của dân tộc ta, đã được


HCM nâng lên tầm cao mới “Đoàn kết, ĐĐK, thành công đại thành
công”, ở đây muốn nói lên phạm vi và đối tượng ĐĐK rất rộng,
nhiều tầng, nhiều lớp.
Đối với Đảng, thì việc đoàn kết trong Đảng là nhân tố hạt
nhân của mọi sự đoàn kết, vì Đảng là người lãnh đạo toàn diện, chỉ
có đoàn kết nhất trí cao trong Đảng thì mới có thể tập hợp đoàn kết
các tầng lớp khác. Đây là một quan điểm luôn được HCM quan tâm
và đã khắc ghi trong di chúc thiêng liêng của Người “Đoàn kết là
cực kỳ quí báu của Đảng ta. Các đồng chí từ TW đến cơ sở phải giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình”.
Đoàn kết trong nước (toàn dân) là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng, đoàn kết toàn dân là đoàn kết tất cả những
người Việt Nam yêu nước, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, đảng
phái, lứa tuổi…thể hiện trong đường lối tập hợp lực lượng, xác định
lực lượng cách mạng rất rộng rãi, bao gồm không chỉ nhân dân,
công nhân, nông dân mà còn cả tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú
nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc được biểu hiện
thông qua lời kêu gọi toàn dân (đặc biệt là lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến).
Tư tưởng đoàn kết quốc tế được HCM rất coi trọng, mặc
dù yếu tố nội lực là chính, nhưng cũng phải đoàn kết với phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và
đoàn kết với phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Bởi vì trong
thời đại mới, kẻ thù mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước là một
bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới, cho nên lực lượng cách
mạng không thể là một lực lượng của một dân tộc mà là phải có lực
lượng to lớn của quốc tế đồng tình ủng hộ.
Tư tưởng ĐĐK HCM phải được xây dựng trên cơ sở

nguyên tắc bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền lợi
cơ bản của nhân dân lao động. Trong XH, dân tộc và quốc tế có rất
nhiều mối quan hệ lợi ích chồng chéo: giữa cá nhân và tập thể, giữa
gia đình và XH, giữa bộ phận và toàn thể, giữa giai cấp và dân tộc,


17
giữa quốc gia và quốc tế. Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ lợi ích này sẽ dẫn đến có đoàn kết hay không đoàn kết. Giải
quyết đúng mối quan hệ dân tộc, giai cấp HCM phát huy những
điểm tương đồng để tập hợp lực lượng cách mạng và khắc phục
những hạn chế, những điểm khác biệt và mâu thuẫn giữa các quốc
gia và các bộ phận. Tư tưởng ĐĐK HCM dựa vào dân, tin tưởng
vào dân, vai trò và khả năng cách mạng của nhân dân, trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân, cho nên
Đảng và Nhà nước ta phải dựa vào dân, phải lấy dân làm gốc và coi
nhân dân là mục tiêu của đường lối chủ trương chính sách của
Đảng. Tư tưởng ĐĐK toàn dân HCM được xây dựng trên nguyên
tắc lấy liên minh công, nông, trí thức làm nền tảng dưới sự lãnh đạo
của Đảng, vì nó đảm bảo tính giai cấp của khối ĐĐK, bảo đảm lợi
ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên cơ sở liên minh
công nông làm nòng cốt. Liên minh công nông còn là xương sống
của khối ĐĐK, nhằm đảm bảo vững chắc của khối ĐĐK dân tộc.
Khối ĐĐK của chúng ta là một tập hợp các lực lượng XH
có định hướng chính trị rõ rệt và có tổ chức chặt chẽ, tổ chức cao
nhất là mặt trận dân tộc thống nhất có sự lãnh đạo của Đảng CS
Việt Nam, nó vừa là vấn đề lâu dài và chiến lược, nhưng cũng
không được tuyệt đối hóa vai trò liên minh và mặt trận.
Tư tưởng đại đoàn kết HCM được xây dựng trên các
phương pháp cụ thể sau:

Phương pháp tuyên truyền giáo dục và vận động quần
chúng: yêu cầu phương pháp này là nội dung, cách thức tuyên
truyền, giáo dục và vận động quần chúng phải thật sự khoa học
nhằm mục đích làm cho mọi người tự nhận thức được sự cần thiết
phải tập hợp lại, đoàn kết lại để tự giác tham gia gánh vác công việc
của cách mạng. Vì muốn cho dân làm cách mạng phải cho dân hiểu,
dân tin và vận động quần chúng thì phải nói đi, nói lại nhiều lần.
Nội dung tuyên truyền phải cụ thể hóa đường lối chính sách của
Đảng và của Nhà nước thành những mục tiêu chính trị cụ thể để đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân, nội dung phải sát hợp đối tượng
nhằm đánh vào tâm lý thói quen, công việc tuyên truyền phải thích
hợp, cách nói và cách viết phải cụ thể làm cho nhân dân dễ hiểu.
Phương pháp XD và kiện toàn hệ thống chính trị tức là
xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất từ thấp đến cao phù hợp với
trình độ của quần chúng nhân dân. Mặt trận là tổ chức rộng rãi liên
quan đến việc tập hợp, đoàn kết dân tộc. Do vậy mặt trận dân tộc
càng rộng rãi, chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối ĐĐK mạnh

mẽ và bền chặt bấy nhiêu, mặt trận và các đoàn thể phải có cương
lĩnh, có ch.trình hành động rõ ràng đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng
của nh.dân, cán bộ đoàn thể phải gương mẫu, phải yêu dân, tin dân,
học hỏi nhân dân và kính trọng nhân dân.
Phương pháp kế hoạch đồng bộ các giải pháp ứng xử
nhằm mở rộng tối đa lực lượng cách mạng và thu hẹp tối đa lực
lượng đối địch. Theo HCM, chia lực lượng thành ba tuyến (tuyến
cách mạng, tuyến trung gian và tuyến phản cách mạng). Đối với lực
lượng cách mạng phải phát huy điểm tương đồng để tập hợp lực
lượng; đối với lực lượng trung gian phải khơi gợi lòng yêu nước,
xóa bỏ mặc cảm, hợp tác và trọng dụng họ một cách trung thành;
đối với lực lượng phản cách mạng phải chia rẽ, phải phân tán họ để

thu hút những bộ phận nào có thể thu hút được.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 70 năm qua thể hiện
sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng ĐĐK HCM. Từ
chỗ là tư tưởng của lãnh tụ kính yêu trở thành chiến lược ĐĐK của
Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh của cả dân tộc. Sức mạnh đó
là nguồn gốc sâu xa của thắng lợi trong cách mạng Tháng 8 năm
1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu nước
(1954-1975).
Bước vào c.cuộc đổi mới, ĐCS Việt Nam ngày càng nhận thức
đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng
ĐĐK HCM.
Đặc biệt là hơn 15 năm đổi mới vừa qua càng cho phép Đảng và
nhân dân ta nhận thức rõ ràng, lúc nào, nơi nào tư tưởng ĐĐK
HCM được quá trình và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách
mạng phát triển mạnh mẽ thuận lợi; lúc nào, nơi nào xa rời tư tưởng
ĐĐK HCM thì khi đó, nơi đó cách mạng gặp nhiều khó khăn, tổn
thất. Đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta thể
hiện sâu sắc sự quá trình tư tưởng ĐĐK HCM: “thực hiện ĐĐK các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần KT, mọi giới , mọi
lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài
Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên
trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước
ngoài. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống
yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc, lấy mục tiêu
giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, XH công
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý
kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc
cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, hướng tới tương lai.



18
Khối ĐĐK toàn dân trong mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn
được củng cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Xây dựng khối ĐĐK toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ
trong đời sống XH dưới sự lãnh đạo của d. Thực hiện dân chủ trên
các lĩnh vực chính trị, KT, văn hóa, XH ở tất cả các cấp các
ngành.”(VK NQĐH IX – trang 123,124).

Hiện nay, chúng ta đang đứng trước những vận
hội mới đồng thời cũng có những thách thức mới.
Những vận hội và thách thức đó tác động hàng ngày
hàng giờ đến khối ĐĐK dân tộc. Để tiến lên chúng ta
chỉ có con đường là phải kiên trì, vững vàng, quán
triệt và thực hiện tư tưởng ĐĐK HCM, đồng thời
chúng ta cũng phải đổi mới, phát triển những nội
dung, phương pháp ĐĐK HCM cho phù hợp với sự
vận động, biến đổi của đời sống KT XH trong nước
và thế giới. Kế thừa, phát triển tư tưởng ĐĐK HCM
trong sự nghiệp đổi mới đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu sâu sắc toàn diện tất cả các vấn đề chính trị, KT,
XH và quốc tế. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước cần luôn luôn quán triệt và
vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM về ĐĐK.
CÂU 7a: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa .
(Tiên tiến đậm đà bản sắc VH dân tộc; xây dựng con người
mới XH chủ nghĩa; xây dựng đời sống mới;xây dựng con người mới;
XD VH là cuộc cách mạng của toàn dân; đảng lãnh đạo VH).
Câu 7b: tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa .
Câu 7c : Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa (vai trò văn

hoá trong đời sống dân tộc)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh hoa văn hóa Việt
Nam, danh nhân văn hóa thế giới, kế thừa truyền thống văn hóa kim,
cổ, đông, tây, đặc biệt là tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, đỉnh cao của tư

tưởng nhân văn của nhân loại nhờ đó đã kết tinh ở Người những giá trị
văn hóa vừa dân tộc, vừa hiện đại, vừa nhân văn. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa là một trong những di sản quí báu mà Người đã để lại
cho chúng ta hôm nay.
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: “Ở
Hồ Chí Minh, nhà chính trị hòa quyện với nhà nhân văn, nhà đạo đức,
nhà văn hóa hình thành một diện mạo, một nhân cách riêng của Hồ Chí
Minh… tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó thống nhất của những quan
điểm tư tưởng chính trị với tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức, tư
tưởng văn hóa…”. Năm 1987 trong nghị quyết kỷ niệm 100 năm ngày
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghị quyết của UNESCO có viết: “Sự
đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các
lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống
văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của
Người là hiện thân những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng
định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu
biết lẫn nhau”.
Hồ Chí Minh đã sớm thu nhận những giá trị văn hóa của dân
tộc Việt Nam như chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân văn, xu thế kết
cấu cộng đồng. Đồng thời Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là văn hóa TQ, văn hóa Aán Độ, Nga, Mỹ,
Pháp…Người đã khai thác, tiếp thu văn hóa phương đông, phương tây:
đạo nhân trong Nho giáo, tư tưởng từ bi trong Phật giáo, chủ nghĩa
nhân văn phương tây…
Chủ nghĩa Mác-Lênin là tinh hoa văn hóa quan trọng nhất để

làm giàu trí tuệ văn hóa Hồ Chí Minh. Nguồn tri thức văn hóa này trang
bị cho Người phương pháp tư duy biện chứng, thế giới quan khoa học,
nhận thức được con đường cách mạng đúng đắn của dân tộc và nhân
loại. Những đóng góp của Hồ Chí Minh trong toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Người thật xứng đáng là một “vị anh hùng giải phóng dân
tộc” và là một “nhà văn hóa kiệt suất”.


19
Một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa là xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
Nền văn hóa mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh chứa
đựng nhiều nội dung phong phú rộng lớn, liên quan tới các vấn đề như
ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chống chủ nghĩa cá nhân, luôn
biết đặt lợi ích của nhân dân, của tổ quốc lên trên hết, trước hết; quyền
làm chủ, bình đẳng, tự do, hạnh phúc tức là dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Đó là mối quan hệ giữa giáo dục đạo đức và
pháp luật, khai thác truyền thống dân chủ xóm làng, để xây dựng một
xã hội mới, một nền văn hóa mới được điều hành bằng luật. Trong xã
hội mới, người dân phải biết nghĩa vụ, quyền lợi và biết hưởng hạnh
phúc, quyền dân chủ mà mình được hưởng. Từ đó xuất hiện một nền
dân chủ cao, thật sự, chứa đựng quan hệ tốt đẹp giữa người với người.
Khẳng định nền văn hóa mới, chế độ mới, Hồ Chí Minh viết: “Chỉ ở
trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có được điều kiện để
cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường
riêng của mình. Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem
xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn
bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”.
Những vấn đề trên chính là nội dung của một nền văn hóa
mới có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng trong thời kỳ cách

mạng dân tộc dân chủ. Ngày nay những tính chất ấy không những được
kế thừa mà còn được nâng cao thành tính chất tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Nói tổng quát và ngắn gọn, nền văn hóa mới là xác lập quan hệ
giá trị mới trên nền tảng và kế tục giá trị truyền thống, bù đắp những
thiếu hụt những giá trị truyền thống và tạo tiền đề để hình thành giá trị
tương lai. Có thể nói văn hóa là toàn bộ những giá trị về vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn lịch sử của
mình. Hồ Chí Minh cho rằng văn hóa là linh hồn, là bản sắc của dân
tộc. Hệ thống giá trị tinh thần của mỗi dân tộc hình thành nên bản sắc
của mỗi dân tộc, văn hóa thực chất là cái để phân biệt dân tộc này với
dân tộc khác. Hồ Chí Minh cho rằng phải giữ gìn và phát huy bản sắc

dân tộc, lấy văn hóa xưa để bồi đắp cho văn hóa nay. Người ca ngợi
truyền thống yêu nước, thương người, tinh thần dân chủ, tinh thần quốc
tế, đoàn kết, yêu đời, lạc quan, nhất là ca ngợi các anh hùng và danh
nhân Việt Nam. Người giáo dục “dân ta phải biết sử ta cho tường gốc
tích nước nhà Việt Nam”. Đồng thời Người khẳng định khi phát huy
vốn cũ quí báu của văn hóa dân tộc tức là khôi phục những gì tốt đẹp,
phải loại dần ra cái gì là không tốt, không phù hợp.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra là chúng ta phải biết học tập cái hay, cái
tốt của văn hóa thế giới, trên cơ sở phát huy cái gốc của văn hóa dân
tộc. Như vậy xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến đậm đà bản sắc văn
hóa dân tộc theo Hồ Chí Minh là kết hợp giữa tinh thần yêu nước với
tinh thần quốc tế vô sản. Đối với Hồ Chí Minh, bảo tồn và phát triển
văn hóa dân tộc, đồng thời phải tẩy trừ mọi ảnh hưởng nô dịch của văn
hóa đế quốc, tôn trọng phong tục, tập quán, văn hóa các dân tộc ít
người. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
còn là một việc đưa khoa học vào cơ cấu lại nền kinh tế, là việc xây
dựng nền văn hóa pháp lý mọi người sống và làm việc theo pháp luật.
Xây dựng nền văn hóa mới bao gồm cả việc xây dựng và sử dụng tốt

đội ngũ trí thức để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh phải xây dựng nền văn hóa mới, phải đi đôi với
xây dựng con người mới –con người xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh
quan niệm “Văn hóa là tất cả những gì không phải thiên nhiên nghĩa là
tất cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp
nhất đến con người”. người dạy “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích
trăm năm tròng người”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Con người mới là con người kế thừa những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, con người có văn hóa, có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, có
năng lực làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. để có được những phẩm
chất ấy, con người mới cần được học tập, đào tạo để có trình độ nhất
định về chuyên môn, khoa học, đạo đức, pháp luật,...


20
Xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam còn là xây dựng đời sống
mới. Từ lúc mới giành độc lập cho đất nước (1945), Hồ Chí Minh đã đề
xướng việc “chống giặc dốt”, chống thói quen lạc hậu, xây dựng “đời
sống mới”, giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính. Người còn đi tiên phong trong lời nói và việc làm thực hiện
trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ thiên nhiên.
Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng văn hóa là một cuộc cách mạng
của nhân dân, do đó phải biết phát động phong trào cách mạng của
nhân dân. Văn hóa phụng sự nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của
dân tộc là cơ sở là một quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa. Đồng thời theo Hồ Chí Minh quần chúng là những
người không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là người
sáng tác nữa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp đổi

mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó có một
vấn đề quan trọng là xây dựng và phát triển nch tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc.
Nghị quyết hội nghị lần thứ V BCH TW khóa VIII đã khẳng định:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy kinh tế –xã hội”. Nghị quyết đã ghi rõ “Làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người,
vào từng gia đình, từng tập thể cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta
tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội”. thực hiện xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần nghị quyết hội nghị lần
thứ 5 của BCH TƯ khóa VIII là sự kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Việt Nam của Đảng ta trong điều
kiện hiện nay.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa có ý nghĩa to lớn cả về
mặt lý luận và phát triển việc xây dựng nền văn hóa mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là vấn đề hết sức phong phú. Đặc biệt là trong tình hình
hiện nay khi mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tìm mọi
cách chống phá chủ nghĩa xã hội. đồng thời đấu tranh loại bỏ những
ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường.
Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo công cuộc xây dựng
nền văn hóa mới vì vậy bản thân tocha đảng và mỗi đảng viên, cán bộ
phải thật sự gương mẫu, đảng phải tiêu biểu cho lương tâm, cho trí tuệ
của dân tộc và thời đại./.

CÂU 8a: Tư tưởng đạo đức HCM (Vai trò; vị trí; nội dung

đạo đức).
Câu 8b : Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực
XH, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi và cách ứng xử trong
quan hệ với nhau và quan hệ với XH nhằm bảo đảm quan hệ lợi ích của
cá nhân và cộng đồng XH. Đạo đức là một hình thái ý thức XH. Điều


21
đó nói rằng đạo đức nảy sinh do nhu cầu XH, phản ánh tồn tại XH và
hình thức biểu hiện là nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực XH mà những
nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực này định hướng, đánh giá, điều chỉnh
hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của XH nhất định. Góp
phần bảo vệ trật tự kỷ cương XH. Bất cứ một chế độ XH nào cũng đặt
ra việc điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp yêu cầu XH được
xem là đạo đức khi nó phản ánh xu hướng tiến bộ XH.
Trong suốt cuộc đời hoạt động CM, Hồ Chí Minh luôn luôn
quan tâm giáo dục tư tưởng CM và đạo đức CM cho mọi người. Đồng
thời, Người cũng là hiện thân của đạo đức CM, tấm gương sáng cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Hồ Chí Minh là người có nhiều cống
hiến về tư tưởng đạo đức CM – và đây cũng là một trong những điểm
đặc sắc nổi bật nhất của Người. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng ta nhận thấy có sự thống nhất, hòa quyện giữa chính trị đạo đức,
VH, nhân văn. Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét
với mọi đối tượng từ vấn đề chung nhất là đạo đức công dân, đến lĩnh
vực Người quan tâm nhiều nhất là đạo đức của người cán bộ, đảng
viên. Đạo đức đối với Người là tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, từ việc tư đến việc công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến
chiến đấu, phục vụ chiến đấu ngoài tiền tuyến, từ học tập, công tác đến
sinh hoạt hàng ngày, từ trong gia đình ra ngoài XH, từ giai cấp đến dân

tộc, từ quốc gia đến quốc tế… được xem xét trong ba mối quan hệ: đối
với mình, đối với người và đối với việc. Hồ Chí Minh xem xét vấn đề
đạo đức một cách toàn diện, mang tính khách quan, phù hợp với hoạt
động phong phú, đa dạng của đời sống XH và mỗi con người. Hồ Chí
Minh không chỉ bàn về đạo đức mà chính Người đã thực hiện trước
nhất, nhiều nhất những tư tưởng đạo đức do mình nêu lên. Đạo đức
truyền thống của dân tộc ta khuyên mọi người sống có tình nghĩa, có
đức, có nhân, có thủy có chung, có trước có sau, biết trung, biết hiếu.
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã sớm có ý thức cộng đồng, biết đoàn
kết đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Đoàn kết là một tư tưởng chính
trị, đồng thời là một đạo đức lớn. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có

đạo lý làm người, trong đó chủ nghĩa yêu nước giữ vị trí chuẩn mực cao
nhất và đứng đầu bảng thang giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam.
Hồ Chí Minh rất chú trọng chắc lọc tinh hoa đạo đức nhân loại: Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo, đạo đức phương tây. Trong tất cả mọi vấn đề
Người đều khai thác yếu tố tích cực, tìm kiếm những “hạt nhân hợp lý
phục vụ cho sự nghiệp CM của dân tộc và xây dựng XH mới. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Hồ Chí Minh cho rằng “Một tấm gương sống còn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Có thể nói, những phẩm chất
đạo đức cao đẹp đã cuốn hút HCM thực sự trở thành định hướng, tạo
nên cuộc CM trên lĩnh vực đạo đức, dẫn tới việc hình thành những
chuẩn mực đạo đức mới, đạo đức CM ở Việt Nam.
Đạo đức CM là gốc, là nền tảng của người CM. Ngay ở trang
đầu tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã nêu lên 23 điều về tư cách
một người CM, giải quyết ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người,
đối với việc. Trong di chúc, Người nhấn mạnh: Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức
CM, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn đảng

ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân… Người coi đạo đức như gốc của cây,
như nguồn của sông: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người CM phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo
đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì”. Người CM phải có đạo đức CM làm nền tảng, mới hoàn thành
nhiệm vụ được vẻ vang. Nhưng có đức mà không có tài thì làm việc dễ
cũng khó thành công. Hồ Chí Minh không tách rời đức và tài, cũng
không nhấn mạnh mặt này, hạ thấp mặt kia, người luôn kết hợp chặt
đức tài, tài đức không thể thiếu mặt nào.
Đạo đức còn có ảnh hưởng đến sự nghiệp biến đổi XH cũ
thành XH mới và xây dựng thuần phong mỹ tục. Có đạo đức CM thì
khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi
bước… khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ tinh thần gian khổ, chất
phát, khiêm tốn, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ… không kèn cựa về


22
mặt địa vị, hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu
ngạo, không hủ hóa.
Trung với nước hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm,
quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung, hiếu là những
khái niệm đạo đức trong XH phong kiến phương đông. Trên cơ sở kế
thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, khắc phục,
vượt qua những hạn chế của truyền thống đó, Hồ Chí Minh khẳng định:
Trung với nước, hiếu với dân. Hồ Chí Minh không gạt bỏ từ “trung,
hiếu” đã ăn sâu, bám rể trong con người Việt Nam với một ý nghĩa

trách nhiệm, bổn phận của người dân, con người. Người đưa vào đó
một nội dung mới, CM, phản ánh đạo đức cao rộng hơn, không phải
trung với vua và chỉ có hiếu với cha mẹ mà phải “trung với nước, hiếu
với dân”. Đây là cuộc CM trong quan niệm đạo đức. Người gạt bỏ cái
cốt lõi nhất trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với chế độ
phong kiến và ông vua phong kiến. “Trung với nước” thể hiện mối
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, XH; thể hiện trách nhiệm với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Ở
đây nước là nước của dân và dân là chủ nhân của nước. “Trung với vua,
hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước, hiếu với dân” là một
sự đảo lộn trong quan niệm đạo đức truyền thống. Trước đây, Quan là
phụ mẫu của dân thì nay đảng, cán bộ, đảng viên là đầy tớ trung thành
của nhân dân. Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân
chủ, dân nắm mọi quyền hạn, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đảng, Nhà
nước hoạt động phải gần dân, thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân,
phải biết làm học trò dân mới làm được thầy học của dân, có thực hiện
được như thế thì người CM mới được dân tin yêu, CM mới đi đến
thành công.
Một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với
dân” là gắn liền với cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phẩm chất
đạo đức này, lấy chính bản thân mỗi người làm đối tượng điều chỉnh.
Nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt. Cần, kiêm,
liêm, chính, chí công vô tư là những khái niệm đạo đức phương đông,
đạo đức truyền thống Việt Nam, được Hồ Chí Minh cải biến nội dung,
đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Người nói: “Bọn phong kiến
ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm chính, nhưng không bao giờ làm mà lại
bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng…Ngày
nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho
nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân”. “Cần tức là siêng năng, chăm
chỉ, cố gắng dẻo dai. Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí.

Liêm là trong sạch, không tham lam… Tham tiền của, tham địa vị,

tham danh tiếng, tham ăn ngon, tham sống yên đều là bất liêm. Chính
nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, không thẳng thắn tức là tà. Một người phải cần, kiệm, liêm, nhưng
còn phải chính mới là người toàn diện. Đối với cán bộ đảng viên cần,
kiệm, liên, chính vô cùng cần thiết bởi vì cán bộ các cơ quan, các đoàn
thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có
quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, dễ trở
nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Cần, kiệm, liên, chính là thước
đo văn minh tiến bộ của một dân tộc: Một dân tộc biết cần, kiệm, biết
liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc
văn minh tiến bộ, là đặc điểm của một XH hưng thịnh, những điều trái
lại là những đặc điểm của XH suy vong. Chí công vô tư là không nghĩ
đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là lòng mình chỉ biết vì đảng, vì tổ
quốc, vì đồng bào. Thực hành chí công vô tư là phải kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao đạo đức CM. Chủ nghĩa cá nhân là
một thứ rất gian xảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống
dốc, nó là một thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh tham ô, hủ
hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự
cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc
quyền, quan liêu, mệnh lệnh… Vì vậy, đạo đức CM là vô luận trong
hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa XH. Ở đây cần có nhận
thức về sự thống nhất giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa chủ
nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”, nếu những lợi ích cá nhân
đó không trái với lợi ích của tập thể. Chủ nghĩa cá nhân còn là mối
nguy hại cho đảng, cho cả dân tộc: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định

hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta chí công vô tư, mình vì mọi người,
lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động, những người thợ
thuyền, dân cày, lao động trí óc kiên quyết, hăng hái, tận tâm tận lực
phụng sự tổ quốc và nhân dân là những người giàu sang không thể
quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất
phục. Đấy là những phẩm chất đạo đức không thể thiếu ở người CM,
nhất là người cộng sản, những con người “quang minh chính đại” gần
như đủ cả năm đức: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Nhân là thật thà,
thương yêu hết lòng, giúp đỡ đồng chí, đồng bào, không ham giàu sang,
không e cực khổ, không sợ uy quyền. Nghĩa là ngay thẳng không có


23
tâm tư, không làm việc bậy, thấy việc phải thì làm, thấy điều phải thì
nói. Trí là đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dũng là gặp việc phải có gan
làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa.
Với người CM, thì phải trên nền tảng lợi ích của nhân dân và
chỉ nhằm tới nhân dân mà định chí: sự giàu sang không thể làm cho
mình thèm muốn, ham mê, sự nghèo khó không thể làm cho mình nao
núng, các uy quyền, vũ lực không thể làm cho mình khuất phục, đầu
hàng. Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng mà
chúng ta phấn đấu hy sinh xây dựng một XH ai cũng ấm no, sung
sướng.
Ngoài những phẩm chất đạo đức cơ bản nêu trên, chúng ta
còn có thể nhận thấy nhiều phẩm chất khác mà Hồ Chí Minh đã nêu lên
như tinh thần quốc tế trong sáng; khiêm tốn, thật thà, nhân ái… Có
nghĩa là, ngoài những phẩm chất cơ bản nhất, thì tùy đối tượng, tùy thời
gian, hoàn cảnh và yêu cầu của nhiệm vụ CM, mà Người nhấn mạnh

phẩm chất đạo đức này hay phẩm chất đạo đức khác.
Theo Hồ Chí Minh “đạo đức CM không phải trên trời sa
xuống. No do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức CM để góp
phần xứng đáng vào việc xây dựng XH chủ nghĩa và giải phóng loài
người”, tư tưởng đạo đức CM phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện,
dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Người
CM phải ý thức được đạo đức CM là nhằm giải phóng con người và
đạo đức của những con người được giải phóng. Đã hoạt động CM thì
khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Tu dưỡng đạo đức mới, phải
gắn với thực tiễn, bền bỉ mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, phải rèn
luyện gian khổ mới có được, còn chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì
phải rửa hàng ngày”. Lời nói phải đi đôi với việc làm và thực hành đạo
làm gương là đạo đức của người CM. “Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản “ mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ quí mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước… hô hào
dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”. “ Đảng viên đi trước, làng
nước theo sau” là như vậy. Đạo làm gương phải được quán triệt trong
tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực: từ đảng, nhà nước, các đoàn thể đến
nhà trường, gia đình, XH… Đạo làm gương của Hồ Chí Minh, lời nói
đi đôi với việc làm, thực sự có sức thu hút mãnh liệt, khiến cho cả dân
tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng XH đều tin tưởng đi theo tiếng gọi của
Người. Đạo đức CM là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết

tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu, quyết không chịu khuất phục. Đối với từng người “Trước hết phải
đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Với việc, với người thì nhất
thiết phải phê phán, đấu tranh, loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức,

tàn dư đạo đức cũ. Hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra thì
phải tiêu diệt, vì đó là cản trở lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa
XH. Nhưng phải thấy rằng chống là nhằm xây, chống đi liền với xây và
lấy xây làm chính, lấy gương người tốt việc tốt để hàng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng đảng, xây dựng
các tổ chức CM, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Tu dưỡng
bền bỉ suốt đời thông qua thực tiễn CM; nêu gương đạo đức; xây dựng
đạo đức mới, đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức là ba nguyên
tắc cơ bản là một thể thống nhất, gắn bó với nhau một cách chặt chẽ.
Đó là các nguyên tắc rèn luyện của cá nhân để trở thành người có đạo
đức CM. Đó cũng là những nguyên tắc để đảng ta xây dựng nền đạo
đức mới Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, tình hình có nhiều thay đổi, nhưng nhiều cái
xấu, cái ác, cái sai, cái vô đạo đức mà Hồ Chí Minh nêu ra đến nay vẫn
tiếp tục tồn tại dưới nhiều biểu hiện khác nhau. Nhiệm vụ của chúng ta
là phải phê bình và tẩy trừ những biểu hiện đó ra khỏi đời sống. Đó là
các bệnh: tham lam, kiêu ngạo, hiếu dâm, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc
địa phương, óc lãnh tụ, hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh “cá
nhân”, tị nạnh, xu nịnh, a dua, bệnh cấp bậc, quan liêu, tham ô, lãng
phí, công thần, địa vị… Việc chống những bệnh đó phải thường xuyên
và rất cần thiết. Hiện nay, vấn đề đạo đức phải được đặc biệt quan tâm,
nhất là đối với cán bộ, đảng viên. Chúng ta vui mừng trong những
thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới, tuy nhiên nền kinh tế thị
trường, giao lưu mở cửa với bên ngoài thì mặt trái của nó cũng đang đặt
ra những vấn đề đạo đức cần phải giải quyết. Nền văn minh hiện đại
cũng cần đạo đức tương ứng. Đạo đức ấy không ở đâu khác, mà nền
tảng của nó nằm chính trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Hơn lúc
nào hết, cần lấy tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để giáo
dục cho cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, đẩy lùi chủ nghĩa
cá nhân, xu hướng chạy theo đồng tiền, địa vị, danh lợi, bất chấp nhân

phẩm con người, trách nhiệm với nhân dân, với tổ quốc. Tư tưởng và
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng
nhân loại. Hồ Chí Minh là con người xa lạ với chủ nghĩa cá nhân; là
người có lòng nhân ái cao cả, không ham muốn công danh, phú quí,
giản dị, khiêm tốn; con người của quần chúng, vì quần chúng; có tinh


24
thần quốc tế trong sáng, thủy chung là một con người tiêu biểu với ba
đức tính: liêm khiết, nhân đạo, vô cùng khiêm tốn.

Câu 9 : Phân tích phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong
phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Câu 9 : Phân tích phương châm “Di bất biến ứng vạn
biến” trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. (Soạn lại.MX.)
Bài làm
Phương pháp cách mạng là một bộ phận đặc biệt quan trọng
trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tiến trình cách mạngViệt
Nam, đường lối cách mạng và tư tưởng chính trị đúng đắn của Hồ Chí
Minh có vị trí vô cùng quan trọng. Song chỉ có sự đúng đắn của tư
tưởng chính trị, của lý luận cách mạng cũng chưa đủ để đưa cách mạng
tiến đến thành công. Tư tưởng chính trị, chiến lược cách mạng có được
hiện thực hoá hay không, có trở thành phong trào cách mạng của quần
chúng, có được quần chúng tiếp nhân như một nhu cầu thiết yếu hàng
ngày, định hướng hành động, biến thành sức mạnh vật chất trong đấu
tranh của họ hay không là còn phụ thuộc vào phương pháp cách mạng.
Hồ Chí Minh nhận thức rất sâu sắc về điều đó. Người thường nhắc nhỡ
những người cách mạng Việt Nam phải luôn chú ý tới phương châm:
chủ trương một, kế hoạch phải hai và biện pháp phải ba. Quá trình vạch
đường chỉ lối và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã hình thành

trong tư duy Hồ Chí Minh một phương pháp cách mạng thích hợp, đầy
tính sáng tạo và nhạy bén.

Ta có thể hiểu phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh theo
nghĩa rộng là sự vận động của tư tường Hồ Chí Minh trong thực tiễn.
Nói cách khác đó là những qui luật hoạt động mà theo đó tư tưởng
chính trị của Người được hiện thực hoá. Theo nghĩa hẹp, phương pháp
cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống các cách thức, biện pháp, qui trình
hợp thành các nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các
lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây
dựng CNXH ở Việt Nam.
Tóm lại, có thể hiếu ngắn gọn phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh là phương pháp khoa học của Hồ Chí Minh trong tiến hành
CN phương pháp cách mạng - Hồ Chí Minh, có cơ sở hình thành từ
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, từ những phạm
trù biện chứng của VN và phương Đông về thời và thế, bỉ và thái, binh
và biến… từ kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh dựng và giữ nước của
dân tộc và các cuộc cách mạng tiêu biểu trên thế giới và nhất là không
thể thiếu vai trò của nhân tố chủ quan - Hồ Chí Minh. Trên cơ sở nắm
vững lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm vững phép
biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng
Việt Nam những kinh nghiệm đã tiếp thu được. Người đã tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm qui báu của dân tộc, những phương pháp
điều hành có hiệu quả của các nhà chính trị, quân sự lổi lạc trong và
ngoài nước để xác lập cho mình một phương pháp cách mạng thích
hợp. Có thể tìm thấy trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh tính
nguyên tắc, bản chất khoa học và cách mạng triệt để của chú nghĩa Mác
– Lênin, cách thức của người Việt Nam trong đánh giặc giữ nước cũng
như trong sản xuất xây dựng đất nước, kinh nghiệm lịch sử hoá thân
trong hiện đại, sức mạnh dân tộc hoà nhập với sức mạnh thời đại, lợi

ích dân tộc bằng với lợi ích giai cấp.
Như vậy, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là phương
pháp cách mạng và khoa học, nó thuộc phạm trù phương pháp cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.


25
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là bí quyết, là linh hồn
sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh để giành độc lập
cho dân tộc, Hồ Chí Minh cũng như những nhà cách mạng yêu nước
Việt Nam cùng thời đều xác định cùng mục tiêu độc lập dân tộc, đều
xác định được phải đánh đuổi để giải phóng dân tộc và lại khác nhau ở
chỗ xác định ai đánh và đánh như thế nào. Chính sự khác nhau này,
khác nhau về phương pháp cách mạng mà Phan Bội Châu đã “Một trăm
thất bại không một thành công”, các nhà yêu nước khác cũng không
mang về độc lập cho dân tộc; trong khi Hồ CHí Minh bằng phương
pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam đã mang vinh quang
về cho đất nước, đã đem ánh sáng độc lập xua tan đêm trường nô lệ trên
dãi đất Việt Nam. Phương pháp cách mạng đúng đắn, đã giúp đưa tư
tưởng Hồ Chí Minh đi vào thực tiễn, vận dụng vào cuộc sống.
Trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh đã nổi lên
phương pháp xử lý tình huống, đó là phương châm: “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, phương châm này xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh (Tháng 5/1946. Hồ chủ tịch đi thăm Pháp trong
hoàn cảnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Người giao cho Cụ Huỳnh
Thúc Kháng làm quyền chủ tịch nước với lời dặn “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến”). “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lấy cái không thay đổi để đối phó
với vạn cái thay đổi. Nó là bí quyết đảm bảo thắng lợi của cách mạng,
trong xử lý tình huống cách mạng. Phương châm này của Hồ Chí Minh
hàm ý là trên thế giới cái gì cũng thay đổi nhưng những cái là chân lý

thì không bao giờ thay đổi. Người cách mạng phải đứng vững trên chân
lý cách mạng để đối phó với những tình huống phức tạp. Đó là những
chân lý như: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Định lý
thống nhứt đất nước là không thay đổi, định lý dân tộc ắn liền CNXH là
chân lý của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư
tưởng là kim chỉ nam là mặt trời chân lý của chủ nghĩa vô sản. Từ
những chân lý, đòi hỏi người làm cách mạng phải sáng tạo ra các hình
thức, biện pháp để xử trí các tình huống cách mạng, để đưa cách mạng
đến thành công. Vận dụng trong đấu tranh cách mạng, phương châm

này đòi hỏi phải nắm vững nguyên tắc cách mạng đồng thời phải có sự
khôn khéo, mềm dẽo, linh hoạt về sách lược để đối phó với những âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù.
Ở Hồ Chí Minh, Người đã vận dụng phương châm này ở mức
độ nghệ thuật cao, sau khi CMT.8 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà ra đời, nhà nước công nông do Hồ chủ tịch đứng đầu đã phải
đương đầu với bao thế lực thù trong giặc ngoài đang lăm le bóp chết
chính quyền cách mạng non trẻ. Đó là 20 vạn quân Tưởng tràn vao
miền Bắc để giải giáp quân Nhật, là quân Anh vào tước vũ khí quân
Nhật ở miền Nam và theo sau là quân Pháp muốn trở lại xâm chiếm
nước ta một lần nữa. Đó là bọn vIệt quốc, Việt cách bám gót quân
Tưởng về nước chống phá cách mạng là bọn tay sai của thực dân, bọn
địa chủ phong kiến phản cách mạng… Trước tình cảnh đất nước như
ngàn cân treo sợi tóc, vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến”, Hồ Chí Minh đã phân hoá và lần lượt gạt bỏ từng kẻ thù, phá thế
lưỡng đầu thọ địch, giữ vững được chính quyền cách mạng. HỒ Chí
Minh đã đứng vững trên chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”,
lúc này là “dân tộc trên hết”, “tổ quốc trên hết”. Hồ chủ tịch và Đảng ta
đã chủ trương hoà với Tưởng để đối phó với Pháp ở miền Nam, sau đó
lại tạm hòa với Pháp để đuổi Tưởng ra khỏi miển Bắc, và như vậy là

đuổi luôn bọn Việt Quốc, Việt Cách theo đuôi quân Tưởng. Còn lại kẻ
thù chính là thực dân Pháp, Hồ chủ tịch lại ra sách lược “hoà để tiến”
bằng hiệp định sơ bộ ngày 06/ 3/ 1946 và sau đó là tạm ước ngày 11/ 9/
1946, đã tạo thời gian quí báu cho chính quyền cách mạng củng cố lực
lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài với thực dân Pháp. Hiệp
định sơ bộ là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo “Một mẫu mực tuyệt
vời của sách lược Lêninít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch
và về nhân nhượng có nguyên tắc”. Như vậy, với những sách lược
ngoại giao tài tình, sáng suốt Hồ Chí Minh đã lèo lái con thuyền cách
mạng vượt qua được bão tố phản cách mạng của năm 1946, đưa cách
mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên giành thắng lợi mới.


×