Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn huyện đảo lý sơn, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.92 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG TRUNG VIỆT

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN,
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 60.34.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

HÀ NỘI, năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả tiếp thu kiến thức của tôi sau hai năm theo học
chương trình đào tạo Thạc sỹ của Học viện Khoa học xã hội. Trước tiên tôi
xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong khoa Chính sách
công và các thầy cô giáo trong và ngoài Học viện Khoa học xã hội đã hết lòng
giúp đỡ, truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập
tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Đình Hảo,


là người đã hướng dẫn tận tình, giúp đỡ, chỉ bảo cho tôi trong quá trình hoàn
thành luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành bày tỏ lời cảm ơn đến các
cơ quan, các tổ chức, các cá nhân ở huyện đảo Lý Sơn; các tổ chức, cơ quan
ban ngành ở tỉnh Quảng Ngãi đã hỗ trợ, cung cấp, giúp tôi thu thập số liệu để
viết và hoàn thành luận văn này.
Với thời gian có hạn, trong luận văn này không thể tránh khỏi những
sai sót, khiếm khuyết, hạn chế, chính vì vậy bản thân tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô cùng tất cả bạn đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Dương Trung Việt


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các tư
liệu và trích dẫn được sử dụng trong luận văn này là trung thực và chính xác,
có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Kết quả Luận văn này là những ý tưởng của
riêng tôi và không trùng lắp với nội dung các công trình có liên quan đã được
công bố.
Tác giả luận văn

Dương Trung Việt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM ................................................................. 7
1.1. Các khái niệm văn hóa, chính sách và chính sách phát triển văn hóa ....... 7

1.2. Vấn đề chính sách phát triển văn hóa ...................................................... 14
1.3. Mục tiêu, chủ thể, công cụ và giải pháp chính sách phát triển văn hóa .. 19
1.4. Thể chế chính sách phát triển văn hóa ..................................................... 30
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển văn hóa ...................... 37
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA TẠI HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG
NGÃI .............................................................................................................. 42
2.1. Khái quát về lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội của huyện đảo Lý Sơn ..... 42
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển văn hoá tại huyện đảo Lý
Sơn................................................................................................................... 46
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG THỜI GIAN TỚI .. 60
3.1. Mục tiêu chính sách phát triển văn hóa tại huyện đảo Lý Sơn trong
thời gian tới ..................................................................................................... 60
3.2. Phương hướng phát triển về văn hóa ở huyện đảo Lý Sơn...................... 65
3.3. Giải pháp thực hiện chính sách phát triển văn hóa tại huyện đảo Lý
Sơn trong thời gian tới .................................................................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý Sơn là một huyện đảo nằm trên vùng biển Đông Bắc tỉnh Quảng
Ngãi, trong phạm vi 15o32’04’’ đến 15o38’14’’vĩ độ Bắc và 109o05’04’’ đến
109o14’12’’ kinh độ Đông. Với đặc thù là huyện đảo nằm án ngữ trên tuyến
đường từ Bắc vào Nam, là con đường ra Biển Đông của khu vực kinh tế trọng
điểm miền Trung qua cửa khẩu Dung Quất, là một trong những của ngõ ra
biển của các tuyến hành lang Đông - Tây nối với tuyến hàng hải quốc tế qua
Biển Đông. Tuy là một đảo nhỏ nhưng Lý Sơn có vị trí chiến lược quan trọng

về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng.
Đảo Lý Sơn được hình thành dưới sự kiến tạo địa chấn phun trào nham
thạch của núi lửa cách đây khoảng 25 đến 30 triệu năm tục danh là Cù Lao
Ré. Vẻ đẹp do thiên tạo với cấu trúc địa chất gắn liền với lịch sử hình thành
vỏ trái đất tạo cho Lý Sơn sự độc đáo riêng từ sự hình thành của 5 miệng núi
lửa, các vách núi xung quanh đảo giáp mặt nước biển...hình thành những danh
lam thắng cảnh, những tuyệt tác thiên nhiên giữa biển [32] như Hang Câu,
chùa Hang, chùa Đục, miệng núi lửa Giếng Tiên và Thới Lới, cổng Tò Vò,
hang Kẻ cướp (xã An Bình), giếng Vua (giếng Gia Long), Hòn Đụn, các vách
núi dựng đứng với chiều cao hàng trăm mét so với mặt nước biển và mới đây
nhất còn phát hiện “cổng Tò Vò” dưới biển, … tạo nên vẻ đẹp kì diệu cho hòn
đảo còn tương đối nguyên sơ này.
Lý Sơn Về mặt hành chính, khu vực đảo Lý Sơn được tổ chức thành
đơn vị cấp huyện: Huyện đảo Lý Sơn có 3 xã An Vĩnh, An Hải (trên đảo Lớn)
và xã An Bình (trên đảo Bé). Có khoảng 60% dân số sống bằng nghề biển,
30% sống bằng nghề nông, còn lại sống bằng các ngành nghề khác.
Lý Sơn đang còn lưu trữ một nền văn hoá dân gian mang đầy bản sắc
1


dân tộc, độc đáo của vùng ven biển miền Trung và các di tích lịch sử quan
trọng liên quan đến chủ quyền quốc gia và nhiều thắng cảnh hoang sơ chưa
được giữ gìn, bảo tồn và khai thác hiệu quả.
Trong những năm qua, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã được
Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển về kinh tế, an ninh - quốc phòng, tuy
nhiên trên lĩnh vực phát triển văn hóa chưa được quan tâm đúng mức, nhất là
trong việc triển khai thực hiện chính sách phát triển văn hóa để bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa và phát triển con người của địa phương, góp phần đấu
tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Mặt khác trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập toàn cầu, sự bùng nổ về công
nghệ thông tin, … thì những thách thức mới trong phát triển văn hóa đang đặt
ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhằm đảm bảo giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa của huyện đảo Lý Sơn nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Từ những thành công và cả những hạn chế trong thực tiễn phát triển
văn hóa của Lý Sơn, đề tài sẽ làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận, đề ra các mục
tiêu, phương hướng và giải pháp phát triển văn hóa ở Lý Sơn nói riêng và
nước ta nói chung.
Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Chính sách phát
triển văn hóa từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” để làm luận
văn tốt nghiệp cao học chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu Lý Sơn từ
nhiều góc độ về di sản vật thể, phi vật thể, lịch sử, du lịch… Nhưng đến nay
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về chính sách phát
triển văn hóa ở huyện đảo Lý Sơn. Đối với Lý Sơn, đã có những công trình,
hội thảo, khảo cứu về văn hóa, lịch sử, du lịch như sau:
2


- Một số nghi lễ, phong tục về Hải đội Hoàng Sa trên biển đảo Lý Sơn,
Quảng Ngãi, của Dương Thị Thanh Huyền (2011), Đề tài tốt nghiệp, Hà Nội.
- Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, của Nguyễn Nhã (1992), Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hồ
Chí Minh. Tác giả nghiên cứu về lịch sử hình thành đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, về việc ra đời đội Hoàng Sa tại Lý Sơn.
- Lý Sơn - Đảo du lịch lí tưởng, của Lê Trọng chủ biên (2007), Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
- Chính sách phát triển du lịch từ thực tiễn huyện đảo Lý Sơn, của
Nguyễn Hồng Phong (2014), Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ, Hà Nội.

- Cơ sở văn hóa Việt Nam, của Trần Ngọc Thêm (1999), Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
- Nghiên cứu bảo tồn và định hướng phát triển văn hóa vật thể và phi
vật thể ở huyện Lý Sơn, của Nguyễn Thanh Tùng và cộng sự (1999 - 2000),
Đề tài nghiên cứu khoa học, Quảng Ngãi. Trong đó chủ yếu nói về các di tích
lịch sử - văn hóa tại huyện đảo Lý Sơn.
Bên cạnh đó, còn có các nguồn tư liệu là các văn bản của cơ quan Nhà
nước, các văn kiện của Đảng bộ, HĐND, UBND tỉnh Quảng Ngãi, của huyện
Lý Sơn và các nguồn thông tin chính thống khác...thể hiện khá bao quát về
tình hình phát triển văn hóa ở Lý Sơn. Đây là nguồn tư liệu quan trọng để
luận văn có cơ sở đánh giá về thực trạng và đề xuất các giải pháp có liên
quan. Mặt khác, vấn đề nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những lý luận mang
tính chất chuyên ngành về văn hóa, các quan điểm, đường lối của Đảng và địa
phương về phát triển văn hóa... Đây vừa là những tài liệu quý gợi cho học
viên nhiều ý tưởng giúp triển khai và làm cơ sở lý luận để luận văn đối chiếu,
đánh giá cụ thể về thực trạng phát triển văn hóa ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi.
3


Tóm lại, đề tài nghiên cứu về Lý Sơn chưa nhiều và chủ yếu nghiên
cứu về văn hóa, lịch sử, du lịch. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về chính sách phát triển văn hóa tại huyện đảo
Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức lý luận chuyên ngành, đề tài đánh giá một cách
tổng quát thực trạng thực hiện và các vấn đề còn tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển văn hóa tại
huyện đảo Lý Sơn và của Việt Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận liên quan đến chính sách phát triển
văn hóa.
- Đánh giá, phân tích thực trạng chính sách phát triển văn hóa tại huyện
đảo Lý Sơn trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách phát triển văn
hóa trong thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến chính sách
phát triển văn hóa ở huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: huyện Đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 1998 đến 2015 và định hướng đến năm
2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp so
4


sánh; thống kê, điều tra, khảo sát thực tế; phân tích, tổng hợp xử lý thông tin
nhằm minh chứng cho những luận điểm của Luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp, được sử dụng
để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến
đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của
Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình
nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn
thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách
phát triển văn hóa ở nước ta nói chung và thực tế huyện đảo Lý Sơn nói riêng.

Đồng thời, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả quốc tế liên quan
đến đề tài trong thời gian qua.
Thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã
hội liên quan đến vấn đề chính sách văn hóa.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học Chính sách công để làm rõ
vấn đề khoa học và thực tiễn của một chính sách cụ thể là: chính sách phát triển
văn hóa.
- Đề tài cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại huyện
đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi, qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống
lý luận của khoa học Chính sách công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu chính sách phát triển văn hóa tại huyện đảo
Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi, chỉ ra được những khó khăn, hạn chế trong việc
hoạch định và thực thi chính sách, đồng thời kết quả nghiên cứu giúp cho
Lãnh đạo UBND tỉnh và UBND huyện, các bộ phận liên quan, các nhà hoạch
5


định chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh chính
sách và tổ chức thực hiện chính sách phát triển văn hóa tại huyện đảo Lý Sơn
một cách hiệu quả hơn.
- Hoàn thiện những chính sách của Nhà nước và địa phương về chính
sách phát triển văn hóa và làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về chủ
đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính sách phát triển văn hóa ở

Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển văn hóa tại
huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển
văn hóa trong thời gian tới

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
1.1. Các khái niệm văn hóa, chính sách và chính sách phát triển
văn hóa
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a
critical review of concept and definitions, trong đó tác giả đã trích lục khoảng
160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác
nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp. [22]
“Điều đặc biệt là các định nghĩa ấy có xu hướng tăng dần theo thời
gian. Chẳng hạn, theo Kroeber và Kluckholn, số lượng định nghĩa về khái
niệm văn hóa xuất hiện, từ năm 1871 đến 1920, là sáu; trong thập niên 1920,
là 22; trong thập niên 1930, là 35; còn trong thập niên 1940, là một trăm.
Theo chiều hướng phát triển ấy, người ta có thể đoán số lượng các định nghĩa
mới về văn hóa kể từ lúc Kroeber và Kluckhohn xuất bản công trình nghiên
cứu của họ hẳn còn nhiều hơn nữa. Giới nghiên cứu thường sắp xếp các định
nghĩa ấy theo một số khuynh hướng chính như sau:
Theo đề tài (topical approaches): nhìn văn hóa theo từng phạm trù như
tôn giáo, ẩm thực, văn học, điêu khắc, kiến trúc, v.v...
Theo lịch sử (historical approaches): nhìn văn hóa như một truyền

thống hay di sản vốn được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Theo cách ứng xử (behavioural approaches): nhìn văn hóa như những
phong thái ứng xử được học tập và chia sẻ trong một cộng đồng.
Theo chức năng (functional approaches): nhìn văn hóa như những cách
thức ứng xử nhằm thích nghi hoặc đối phó lại môi trường và những điều kiện
7


sống nhất định.
Theo quy phạm (normative approaches): nhìn văn hóa như những lý
tưởng hoặc quy luật cần thiết cho cuộc sống.
Theo tâm thức (mental approaches): nhìn văn hóa như những thói quen
được di truyền từ đời này sang đời khác.
Theo cấu trúc (structural approaches): nhìn văn hóa như hệ thống các
biểu tượng, ý tưởng và thực hành.
Theo biểu tượng (symbolic approaches): nhìn văn hóa như một hệ
thống ý nghĩa tuy mơ hồ nhưng được cả xã hội chia sẻ.
Trong tất cả các khuynh hướng ấy, quan niệm được nhiều nhà nhân học
và văn hóa học đồng ý và sử dụng nhiều nhất là quan niệm cho văn hóa, trước
hết, là một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa (system of symbols and meanings)
mà một cộng đồng đã tạo ra, và đến lượt nó, góp phần tạo ra cộng đồng, trong
đó, mọi người tồn tại không phải như những cá nhân riêng lẻ mà là những
thành viên của cộng đồng. Tất cả đều sử dụng một khung nhận thức và một
bảng tiêu chí chung để diễn dịch và đánh giá thực tại, để phán đoán quan hệ
giữa người và người, từ đó, phân biệt thiện và ác, đạo đức và vô luân, đẹp và
xấu, hay và dở, những điều thích và những điều không thích, v.v... Chính trên
cơ sở hệ thống biểu tượng và ý nghĩa như vậy, người ta mới dần dần tạo dựng
và củng cố các hệ thống niềm tin và giá trị; và trên cơ sở các hệ thống niềm
tin và giá trị ấy, xây dựng các hệ thống thiết chế xã hội và chính trị cũng như
các phong cách ứng xử, bao gồm từ ngôn ngữ thân thể đến cách ăn mặc, ăn

uống và các phong tục tập quán khác; cuối cùng, dần dần hình thành các sản
phẩm văn hóa như văn học, âm nhạc, nghệ thuật, văn hóa dân gian, v.v...”[19]
Theo cựu Tổng Giám đốc UNESCO (1987 - 1999) Federico Mayor đã
nêu: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ
8


cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành
một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó
từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Theo tuyên bố của UNESCO năm 1982 về những chính sách văn hóa
tại Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 6 tháng
8 năm 1982 tại Mêhicô:
- Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ
và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội.
- Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản
thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặt biệt
nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính
nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình
là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản
thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những
công trình mới mẻ, những công trình vượt trội bản thân.
Theo Trần Ngọc Thêm “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội”,.. [21]

Tóm lại, có rất nhiều khái niệm về văn hóa, tuy nhiên năm 2002,
UNESCO đã đưa ra định nghĩa mới tương đối toàn diện về văn hóa như sau:
“Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về
tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người
trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
9


phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”. [30]
1.1.2. Khái niệm về chính sách
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ
thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế mà đề ra”.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp
được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra,
trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến
lược phát triển của một hệ thống xã hội”. [8]
Trong tài liệu chuyên khảo về Chính sách công do Học viện Khoa học
xã hội xuất bản, Chính sách công được định nghĩa: “Chính sách công là một
tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn
mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội
theo mục tiêu tổng thể đã xác định”. [31]
1.1.3. Khái niệm về chính sách văn hóa
Theo UNESCO thì “Chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên
tắc hoạt động, các cách thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và
phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn
hóa, nghệ thuật”.
Hội nghị của các chuyên gia văn hóa tại Monaco năm 1967 đã đưa ra
khái niệm về chính sách văn hóa như sau: “Chính sách văn hóa là một tổng

thể những thực hành xã hội hữu thức và có suy tính kỹ về những can thiệp hay
không can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động văn hóa nhằm vào việc đáp
ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, bằng cách sử dụng tối ưu tất cả những
nguồn vật chất và nhân lực, mà một xã hội nào đó sắp đặt vào một thời điểm
thích hợp”.
10


Các chính sách văn hóa đều là các thực hành Nhà nước dựa trên các
nguồn lực về tài chính, vật lực, nhân lực trong những điều kiện có thể có của
thời điểm đó. Các tổ chức văn hóa dựa vào các nguồn lực này để triển khai
các hoạt động thực thi chính sách.
Vì vậy, để can thiệp vào văn hóa Nhà nước cần có những công cụ khác
nhau gồm: luật pháp và các phương pháp hành chính; ngân sách và hệ thống
thuế, trong đó, các bộ luật, luật, văn bản pháp quy; cách thức đầu tư từ ngân
sách, hệ thống thuế là những công cụ quan trọng nhất để quản lý, điều hành
sự phát triển của văn hóa theo mục tiêu đã xác định.
Trong bối cảnh Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được xác
định dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trò của văn hóa trong đấu
tranh giành độc lập và phát triển đất nước, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa. Xác định được văn hóa là một trong những trụ cột trong công cuộc
đấu tranh dành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Hiện nay, Đảng đã xác định phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển
kinh tế là chủ trương rất đúng đắn và phù hợp. Vì như chúng ta đều biết, phát
triển văn hóa và phát triển kinh tế có mối liên hệ bản chất nhưng không phải
là đồng nhất. Đời sống văn hóa có sự phát triển độc lập tương đối. Thay đổi
kinh tế sẽ làm thay đổi văn hóa, song văn hóa cũng có tác động tích cực hoặc
tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Một nền văn hóa chưa có cơ chế phát triển
những năng lực tiềm tàng của cá nhân, chưa có cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ cho
thương mại, tiềm ẩn rất nhiều thành kiến và lối sống tiểu nông... chắc chắn sẽ

có ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế thị trường và hôi nhập quốc
tế. Ngược lại, nếu một nền văn hóa đã xác lập được những hệ thống chuẩn
mực, luật pháp rõ ràng minh bạch, ổn định, dễ hiểu, có cơ chế gìn giữ nội lực,
duy trì được những nguồn nhân lực, tài lực, trí lực... sẽ có tác động tích cực
đến sự phát triển kinh tế. Do đó, phạm vi điều chỉnh trong chính sách văn hóa
11


của chúng ta trước hết phải làm cho cả kinh tế lẫn văn hóa đều phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (1991) đã xác định nền văn hóa
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện
của Đảng sau này. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII đã chỉ rõ: “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền
văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị lần thứ Năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết chuyên đề về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. [3]
Tháng 7/2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX đã ra Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4/2006) khẳng định: “Tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. [4]
Theo nghĩa rộng về văn hóa được nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa tán
thành thì Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất, tinh thần do lao động của
con người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định, tích lũy lại, tạo ra bản sắc
12


riêng của từng tộc người, từng xã hội. Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định Văn hóa Việt Nam là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần “qua hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới
để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”.
Qua đó có thể xây dựng khái niệm về chính sách phát triển văn hóa
chung phù hợp với đặc điểm của Việt Nam như sau “Chính sách phát triển
văn hóa là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước
nhằm lựa chọn các mục tiêu, công cụ chính sách và giải pháp để giải quyết
các vấn đề có liên quan đến phát triển văn hóa theo các mục tiêu đã xác định
trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng
thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng trong 85 năm qua.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ
và các giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những yêu cầu cấp bách và cần thiết để
tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho việc triển khai
và thực hiện các nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập với thế giới sâu rộng như hiện nay. Đồng thời, đây cũng là cơ
sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý luận này để xây dựng
13


và phát triển văn hoá Việt Nam trong thời gian đến.
1.2. Vấn đề chính sách phát triển văn hóa
1.2.1. Vai trò của chính sách văn hóa
Trong vài thập kỷ trước đây, có một số quốc gia cho rằng chỉ cần tăng
trưởng kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát
triển sử dụng khoa học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian
thực hiện, kết quả cho thấy các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng
trưởng kinh tế nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy
thoái về đạo đức và văn hóa ngày càng tăng. Từ đó, kinh tế phát triển chậm
lại, mất ổn định xã hội tăng lên, làm phá sản của các kế hoạch phát triển kinh
tế và đất nước rơi vào tình trạng suy thoái, không phát triển được. Đây là quan
niệm phát triển nhanh bằng cách hi sinh các giá trị văn hóa - xã hội cho sự
phát triển.
Hiện nay, các lý thuyết hiện đại đã được chứng minh trong thực tiễn
nhấn mạnh về trụ cột cho sự phát triển bền vững gồm có ba yếu tố là kinh tế
thị trường, Nhà nước và xã hội dân sự. Trong khi kinh tế thị trường có chức
năng điều tiết các hoạt động kinh tế tạo ra của cải vật chất cho xã hội, xã hội
dân sự giải quyết các vấn đề vi mô của nhóm xã hội, cộng đồng thì Nhà nước
đóng vai trò điều tiết vĩ mô các mối quan hệ xã hội, xây dựng thể chế phát
triển, tổ chức các hoạt động kinh tế vĩ mô, đối nội, đối ngoại…Trong ba yếu
tố này, chính sách của Nhà nước trong việc định hướng phát triển, xây dựng
các mô hình, tập trung nguồn lực của mọi lực lượng xã hội để phát triển một

lĩnh vực nào đó của xã hội là quan trọng và mang tính quyết định sự thành
công của chính sách. Tuy nhiên cũng cần có sự tham gia của xã hội dân sự
trong thực hiện chính sách của Nhà nước
Các thay đổi lớn của xã hội đều có nguồn gốc từ sự thay đổi chính sách,
mở đường cho những thể chế mới đi vào cuộc sống. Công cuộc đổi mới của
14


Việt Nam từ năm 1986 đã là chứng minh cho sự đi trước của chính sách trong
sự phát triển của đất nước, khắc phục được khủng hoảng kinh tế - xã hội, huy
động và phát huy được nguồn lực của xã hội, giải quyết được các xung đột,
từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết được các vấn đề an sinh
xã hội. Đồng thời coi trọng và phát triển văn hóa phục vụ đời sống tinh thần
của nhân dân, xem văn hóa là động lực cho sự phát triển. Vì các chính sách
văn hóa đã thể hiện được các vai trò sau:
Một là, định hướng phát triển cho toàn bộ đời sống văn hóa hay từng
lĩnh vực của văn hóa nghệ thuật.
Hai là, điều hòa các mâu thuẫn, các vấn đề phát sinh mang tính tiêu cực
trong quá trình phát triển văn hóa.
Ba là điều tiết sự phát triển bằng các công cụ chính sách được thể hiện
được tính minh bạch, công khai và hệ thống các cơ quan công quyền về văn
hóa hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
Bốn là, thể hiện các ưu tiên trong phát triển thông qua ưu tiên đầu tư
cho mỗi lĩnh vực trong từng thời kỳ, thông qua tài trợ của Nhà nước, các
chính sách thuế, ưu đãi và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân về phí, lệ phí đối với
các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa.
Năm là, tập trung các nguồn lực cho phát triển văn hóa bằng các
chương trình, kế hoạch và dự án phát triển của từng giai đoạn, của mỗi lĩnh
vực văn hóa không dàn trải và có định hướng phù hợp với đặc thù của từng
dân tộc, từng vùng, miền.

Sáu là, hạn chế các xu hướng phát triển văn hóa không có lợi cho tiến
trình phát triển, kiểm soát, kiểm duyệt các tác phẩm văn hóa độc hại, đi ngược
lại thuần phong, mỹ tục và các giá trị tích cực của văn hóa.
Tuy nhiên sự can thiệp của Nhà nước nên mang tính định hướng bằng
chính sách, các nguồn lực và các công cụ quản lý để phát triển văn hóa theo
15


hướng tích cực. Bởi vì, nếu chính sách văn hóa sai lầm, đi ngược lại với thực
tiễn khách quan sẽ không tạo ra môi trường kích thích sự sáng tạo và phát huy
các khả năng tiềm ẩn của con người, sẽ làm cản trở sự phát triển của văn hóa
nói riêng và của cả xã hội nói chung.
1.2.2. Các đặc tính của chính sách văn hóa
Cũng như các loại chính sách khác như chính sách chính trị, chính sách
kinh tế, chính sách xã hội…, chính sách văn hóa cũng thực hiện mục tiêu thúc
đẩy sự phát triển của xã hội, bởi vì văn hóa là môi trường để nuôi dưỡng sự
sáng tạo của con người, định hướng cho con người đến chân - thiện - mỹ (cái
đúng, cái tốt, cái đẹp), là một trong những nền tảng của xã hội. Văn hóa hiện
đại có tính bao quát, liên quan và tác động đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành
nghề và nhiều thành phần trong xã hội để thúc đẩy các tiến trình dân chủ nên
không thể sử dụng các biện pháp mang tính răn đe, ép buộc, trừng phạt … mà
là mang tính bảo trợ, hỗ trợ, thúc đẩy và hạn chế tính chất hành chính.
Bên cạnh đó, chính sách văn hóa mang tính “nhạy cảm” do nó có tác
động đến một bộ phận trí thức có trình độ cao, đến giai cấp tinh hoa trong xã
hội có tính độc lập cao, nên trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách
văn hóa cần thận trọng và có tính thuyết phục, tránh sự cưỡng ép.
Cuối cùng, tuy có tính chất thúc đẩy, hỗ trợ, bảo trợ nhưng chính sách
văn hóa cũng cần có sự can thiệp của Nhà nước mang tính định hướng, do
Nhà nước chủ động thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư, tài trợ, đặt
hàng và sử dụng các công cụ hành chính nhưng phải đảm bảo sự cân bằng

giữa Nhà nước và xã hội dân sự.
1.2.3. Các loại chính sách văn hóa
- Xây dựng con người, lối sống văn hóa: nhằm xây dựng con người
toàn diện, có đủ phẩm chất (về tư tưởng, đạo đức, lối sống và nhân cách văn
hóa) đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
16


nhập quốc tế theo những chuẩn mực nhất định kết hợp các chuẩn mực riêng
của dân tộc và của thế giới.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa lành mạnh: có
quan hệ chặt chẽ với phát triển con người một cách toàn diện: do đó cần xác
lập các thể chế dân chủ ở cơ sở, khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người
dân được tổ chức và tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng; hình thành
truyền thống xã hội học tập; giáo dục sức khỏe cộng đồng, lối sống thân thiện
và bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường sinh thái; thực hiện nghiêm
pháp luật, phòng chống tham nhũng, ngăn chặn và trấn áp tội phạm, tệ nạn xã
hội và những hành vi vi phạm pháp luật, gìn giữ kỷ cương và cuộc sống yên
bình của nhân dân gắn với những hoạt động xây dựng đời sống văn hóa với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng khu vực, từng vùng,
từng dân tộc, tôn giáo; xây dựng cộng đồng văn hóa, gia đình văn hóa. Đồng
thời, hoạt động văn hóa phải góp phần thiết thực vào việc đảm bảo an ninh,
trật tự xã hội; củng cố khối đại đoàn kết dân tộc; giáo dục nhân cách văn hóa;
nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho nhân dân, ... góp phần thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc và dân tộc thiểu số: Tập
trung nghiên cứu, sưu tầm, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và văn hóa phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn
hóa dân gian của từng địa phương, từng vùng văn hóa, từng vùng dân tộc;
nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán Nôm. Kết hợp hài
hòa việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với các hoạt động phát

triển kinh tế, du lịch bền vững.
- Phát triển văn học, nghệ thuật vì nó có vai trò rất quan trọng đối với
quá trình hình thành và hoàn thiện phẩm chất đạo đức và nhân cách của con
người chính là vì văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt nhạy
17


cảm và tinh tế của văn hóa, là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân,
thiện, mỹ của con người, có tác dụng đặc biệt trong việc bồi dưỡng tâm hồn,
tình cảm, nhân cách đạo đức cho các thế hệ công dân.
- Đối với tôn giáo: Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của
tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích những giá trị lành mạnh, hướng thiện,
nhân đạo, có ý nghĩa tiến bộ. Tạo điều kiện cho những hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng phù hợp với văn hóa và lợi ích chung của dân tộc; xây dựng môi
trường văn hóa, thực hiện tốt trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc; đấu
tranh chống việc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu.
Thực hiện xếp hạng di tích và hỗ trợ việc bảo tồn đối với những công trình
kiến trúc tôn giáo có giá trị tiêu biểu.
- Hệ thống thông tin đại chúng: là phương tiện chuyển tải các giá trị
văn hóa đến công chúng, đồng thời, bản thân thông tin cũng là một dạng thức
văn hóa đặc thù, có tác động mạnh mẽ, sâu rộng đối với công chúng nên ngày
càng quan trọng trong nền văn hóa của đất nước. Do đó, cần quản lý chặt chẽ
vừa cởi mở, thông thoáng về hình thức để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
nguồn thông tin của nhân dân trong và ngoài nước theo định hướng chính trị
của Đảng và Nhà nước.
- Hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa: Ngày nay, việc giao lưu, hợp
tác văn hóa không chỉ thuần túy vì mục đích phát triển văn hóa, mà thông qua
đó, mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác, đồng thời việc giao lưu văn hóa là
tất yếu, góp phần làm đa dạng, phong phú thêm nền văn hóa thế giới, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm nền văn hóa Việt Nam, tiến kịp với

thời đại. Qua đó, giới thiệu, trao đổi và phổ biến sâu rộng những tác phẩm văn
học, nghệ thuật mang đậm bản sắc, tâm hồn, cốt cách của người Việt Nam với
các nước. Tuy nhiên cũng cần ngăn chặn, loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực,
mặt trái của toàn cầu hóa đối với văn hóa nước ta, nhất là thông qua mạng
18


Internet.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa. Đây là yêu cầu rất
quan trọng trong phát triển văn hóa, do đó, cần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện
hệ thống các văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật
một cách toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa phù hợp
với đường lối của Đảng, Nhà nước và thực tiễn phát triển của đất nước và với
những cam kết quốc tế; Thực tiễn đồng bộ, tạo được bước chuyển biến rõ rệt
trong công tác cải cách hành chính, chấn chỉnh lề lối và đổi mới phương thức
làm việc của các cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ làm công tác quản lý về
văn hóa. Đầu tư xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa cộng đồng.
1.3. Mục tiêu, chủ thể, công cụ và giải pháp chính sách phát triển
văn hóa
1.3.1. Mục tiêu phát triển văn hóa
1.3.1.1. Mục tiêu chung
Với vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội
đồng thời là mục tiêu của sự phát triển. Vì mọi sự phát triển đều do con người
quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun đắp ngày càng cao các giá trị,
chuẩn mực của xã hội trong từng giai đoạn phát triển, qua đó văn hóa khơi
dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động sức mạnh
nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát triển xã hội, đây vừa là
mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển.
Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai

thác các yếu tố lao động nhiều hay ít, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên
nhiên.., nhưng chưa coi trọng yếu tố quyết định là con người. Tuy nhiên, ngày
nay do sự phát triển của khoa học, nên yếu tố quyết định cho sự phát triển là
trí tuệ, là thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng của con người, đó
19


là tiềm năng vô hạn của con người, tiềm năng đó là các yếu tố cấu thành
văn hóa gồm ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, tâm hồn, đạo lý,
lối sống, trình độ thẩm mỹ …của mỗi cá nhân nói riêng và của cả cộng
đồng nói chung.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố
cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người:
văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa
trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngoài xã hội, văn hóa trong
giao lưu và hợp tác quốc tế… Phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
các nhân tố khách quan và chủ quan bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa,
cân đối, bền vững.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam hội nhập toàn cầu, phát triển
kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa làm thay đổi kỹ
năng lao động, nhiều giá trị truyền thống bị mai một, làm biến dạng và biến
mất nhiều tập quán văn hóa tốt đẹp đã tạo nên thuần phong mỹ tục…của Việt
Nam. Do đó, bên cạnh việc duy trì những giá trị văn hóa còn nhiều sức sống
nhưng lại đang có nguy cơ mất đi, phát huy các chuẩn mực giá trị của văn hóa
Việt Nam là chân, thiện, mỹ, tiếp thu các giá trị văn hóa của nước ngoài một
cách có chọn lọc để người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến
kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều
với chất lượng ngày càng cao để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đồng thời, cần
hạn chế các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, các giá trị văn hóa của
nước ngoài không phù hợp với văn hóa của Việt Nam bằng chính các chuẩn

mực và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta
xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng
20


với việc xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Trong đó, mục tiêu
chung phát triển văn hóa là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. [6]
1.3.1.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở mục tiêu chung về phát triển văn hóa con người Việt Nam
trong thời gian đến, để hiện thực hóa mục tiêu chung cần định hướng một số
mục tiêu cụ thể.
Một là, phát triển văn hóa là xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện theo các chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam, không chỉ tạo
môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, cư xử, ứng xử,
lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã
hội và đất nước, mà còn phải gắn liền với giới tính, với các tầng lớp xã hội,
các khu vực dân cư, các hoạt động nghề nghiệp, văn hóa nông nghiệp, văn
hóa công nghiệp, văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa gia đình…
mà phải gắn với việc tăng trưởng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nhân
ca cho mọi thành viên trong xã hội; tìm kiếm, nuôi dưỡng các tài năng xuất

sắc, phát triển văn hóa đỉnh cao. Đồng thời, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái
xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực
ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người và có giải
pháp khắc phục những mặt hạn chế về văn hóa của con người Việt Nam trong
21


×