Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Điều chỉnh chính sách thương mại của trung quốc trước và sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.58 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------

TRẦN THỊ HOÀNG NGÂN

ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI
CỦA TRUNG QUỐC TRƢỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP
TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

Chuyên ngành: KTTG&QHKTQT
Mã số: 60 31 07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS BÙI TẤT THẮNG

Hà Nội - 2008


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

----------

TRẦN THỊ HOÀNG NGÂN



ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI CỦA
TRUNG QUỐC TRƢỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP
TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Hà Nội – 2008


3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài luận văn
Vào khoảng những năm 90 của thế kỷ XX, quá trình toàn cầu hóa bước vào thời
kỳ có những thay đổi mạnh mẽ. Hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước
lớn đều đã điều chỉnh chính sách kinh tế để phù hợp với quá trình toàn cầu hóa nhanh
chóng. Quá trình điều chỉnh đang tiếp tục sang những năm đầu của thế kỷ XXI. Việc tổ
chức lại cơ cấu kinh tế của các nước đã và đang thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển. Cũng
giống như các quốc gia, Trung Quốc đã có những điều chỉnh quan trọng trong chính sách
thương mại của mình để thích hợp với những thay đổi đó.
Sự điều chính chính sách thương mại của Trung Quốc phản ánh xu thế chung của
kinh tế thế giới, đó là xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Điều này chịu sự tác động của tình hình
kinh tế, chính trị quốc tế và khu vực, đó là: chiến tranh lạnh kết thúc; các cuộc khủng
hoảng kinh tế - tài chính diễn ra trong những năm 1990; sự phát triển nhanh chóng của
khoa học công nghệ; nhịp độ toàn cầu hóa tăng nhanh; chính trị thế giới và quan hệ quốc tế
nảy sinh những vấn đề mới… Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định: “mục tiêu cải cách
thể chế ở Trung Quốc là xây dựng thể chế thị trường xã hội chủ nghĩa” và hội nhập kinh tế
thế giới. Có thể nói, sự điều chỉnh chính sách thương mại ở Trung Quốc từ sau năm 1986
(thời điểm Trung Quốc nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới) là sự tiếp nối
công cuộc cải cách mở cửa bắt đầu từ năm 1978. Và nhờ vậy, Trung Quốc đã có những

bước tiến quan trọng mang tính đột phá trong việc điều chỉnh chính sách kinh tế, bước đầu
đã xây dựng được thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, và đã trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới năm 2001. Để phù hợp với những yêu cầu của
WTO, Trung Quốc tiếp tục điều chỉnh chính sách thương mại của mình để thực thi các cam
kết sau khi gia nhập WTO.
Sự điều chỉnh trong chính sách thương mại nhằm đảm bảo cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, giải quyết những thách thức của tiến trình toàn cầu hóa đem lại. Chính
điều này đã đem lại cho Trung Quốc những thành công ngoài dự kiến. Sau 5 năm gia
nhập WTO, Trung Quốc luôn là nước có mức tăng trưởng thương mại nhanh nhất thế
giới. Họ trở thành nước có giá trị thương mại lớn thứ 3 sau Liên minh châu Âu (EU) và


4
Mỹ; Kim ngạch mậu dịch từ chỗ chiếm 40% GDP trong năm 2001, đến năm 2006 chỉ
tiêu này đã chiếm tới 80%...
Như vậy, vấn đề đặt ra là Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách của họ như thế nào
từ sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới để đạt được những thành công như vậy?
Và Việt Nam học hỏi được những gì từ kinh nghiệm điều chỉnh chính sách thương mại
tạo nên sự phát triển nhanh của Trung Quốc? Đặc biệt là sau khi Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của WTO (11/2006) và lộ trình thực thi các cam kết và quy định
của WTO đang là vấn đề hoàn toàn mới, đặt ra các yêu cầu cấp thiết mà chúng ta phải
quan tâm. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Điều chỉnh chính sách thƣơng mại
của Trung Quốc trƣớc và sau khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO)” có
ý nghĩa hết sức quan trọng và là một hướng nghiên cứu mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trung Quốc hiện đang được nhìn nhận như một nền kinh tế tăng trưởng năng động
nhất thế giới. Vì vậy, những nghiên cứu không chỉ của các tác giả Trung Quốc mà cả trên
toàn thế giới về nền kinh tế Trung Quốc nói chung, về sự điều chỉnh chính sách kinh tế của
Trung Quốc nói riêng là hết sức phong phú. Điển hình là những công trình như:
Ở nƣớc ngoài: Supachai Panitchpakdi và Mark L.Cliford (2002) với: “Trung

Quốc và WTO - Trung Quốc đang thay đổi, thương mại thế giới đang thay đổi”;
Anderson K., Huang J., and Ianchovichina E (2004): “The impacts of WTO Accession on
Chinese Agriculture an Rural Poverty”. In Battasali, Li, Martin (eds). China and the
WTO: Accession, Policy Reform, and Poverty Reduction Strategies; Changhong Pei
(2005), “Analysis of China’s Foreign Trade Growth and Discussion of Related Policies”,
China & World Economy, Vol. 13, No. 2, pp. 26-38 v.v…
Ở Việt Nam: Cho đến nay, đã có một số công trình viết về sự điều chỉnh chính
sách kinh tế của Trung Quốc như: “Trung Quốc gia nhập WTO. Kinh nghiệm với Việt
Nam” (2005), của TS. Đỗ Tiến Sâm (Chủ biên) ;“Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương
mại thế giới - Thời cơ và thách thức” (2004), của PGS. TSKH. Võ Đại Lược (Chủ biên);
Dự án VIE 01/012 của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung Ương (CIEM) và UNDP:
“Chính sách phát triển kinh tế - Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc”; “Điều chỉnh


5
một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc (giai đoạn 1992-2010)” (2004), của TS. Nguyễn
Kim Bảo (Chủ biên) v.v…
Nhìn chung, các công trình trên đã phân tích về các nhân tố đòi hỏi Trung Quốc
phải điều chỉnh chính sách kinh tế và tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối
với bản thân Trung Quốc trên các lĩnh vực: cải cách chính sách kinh tế vĩ mô, cơ cấu
ngành kinh tế chủ chốt, khu vực doanh nghiệp, các vấn đề xã hội, hoàn thiện hệ thống
luật pháp và tác động đến các nền kinh tế trên thế giới. Như vậy, theo sự tìm hiểu của tác
giả, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về sự điều chỉnh chính sách thương
mại của Trung Quốc trong quá trình từ sau khi nước này nộp đơn gia nhập WTO cho đến
nay một cách chi tiết, hệ thống. Mặt khác, sau khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ
150 của Tổ chức Thương mại thế giới, việc điều chỉnh chính sách thương mại của chúng
ta sao cho phù hợp với tình hình mới là điều mà không chỉ giới nghiên cứu quan tâm. Do
đó, luận văn này được viết với mục đích tìm hiểu những nội dung chính trong việc điều
chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc trước và sau khi gia nhập WTO và rút ra
một số kinh nghiệm trong quá trình điều chỉnh chính sách thương mại mà Việt Nam có

thể tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh chính sách thương mại của Trung
Quốc trước và sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), luận văn đề xuất
một số khuyến nghị, gợi ý chính sách cho Việt Nam nhằm giảm những tác động bất lợi từ
quá trình hội nhập đem lại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu một số nội dung cơ bản về thương mại trong khuôn khổ WTO.
Thứ hai, xem xét quá trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc
trước và sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Và,
Thứ ba, trên cơ sở đó, đưa ra một số gợi ý cho Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


6
Nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc trước và sau khi
ra nhập WTO.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu về quá trình điều chỉnh chính sách
thương mại của Trung Quốc.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ khi Trung Quốc
nộp đơn gia nhập WTO (1986) đến khi gia nhập WTO (2001); và tư khi gia nhập WTO
đến năm 2007.
- Về không gian: Luận văn chỉ nghiên cứu về chính sách thương mại của Trung Quốc Đại lục
chứ không nghiên cứu thêm cả chính sách thương mại của Hồng Kông, Ma Cao…
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích
quá trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc.

Bên cạnh đó, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp được sử dụng
nhằm làm nổi bật hiệu quả của quá trình điều chỉnh chính sách thương mại ở Trung Quốc
trước và sau khi gia nhập WTO. Tác giả cũng sử dụng phương pháp so sánh để cho biết
Trung Quốc đã thành công đến đâu trong công cuộc điều chỉnh chính sách thương mại và
vị trí của quốc gia này trên thế giới. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp thống kê,
thu thập, xử lý tài liệu như là một công cụ phân tích số liệu để minh chứng cho các vấn
đề nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn cũng còn sử dụng phương pháp chuyên gia tức là tham
khảo các ý kiến đánh giá của các chuyên gia kinh tế, đặc biệt là các chuyên gia nghiên
cứu về Trung Quốc.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa quá trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung
Quốc trước và sau khi gia nhập WTO, bước đầu đưa ra một số gợi ý cho Việt Nam.
7. Nội dung và kết cấu của đề tài
Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 Chương sau
đây: Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về thƣơng mại trong khuôn khổ WTO. Trọng


7
tâm của phần này là hệ thống hóa một số vấn đề liên quan đến những quy định về thương
mại và chính sách thương mại trong khuôn khổ của WTO.
Chƣơng 2: Điều chỉnh chính sách thƣơng mại của Trung Quốc để gia nhập Tổ
chức Thƣơng mại thế giới (WTO), chương này tập trung nghiên cứu những điều chỉnh
trong hệ thống các chính sách thương mại của Trung Quốc từ khi Trung Quốc nộp đơn gia
nhập WTO (1986) đến khi Trung Quốc được kết nạp vào WTO (tháng 11/2001).
Chƣơng 3: Điều chỉnh chính sách thƣơng mại của Trung Quốc để thực hiện
các cam kết với WTO và một số gợi ý chính sách cho Việt Nam. Trong phần này, luận
văn sẽ tập trung phản ánh về quá trình điều chỉnh chính sách thương mại của Trung Quốc
từ sau khi gia nhập WTO (2001) và đưa ra những kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá
trình điều chỉnh chính sách thương mại mà Việt Nam có thể tham khảo.



8
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƢƠNG MẠI TRONG
KHUÔN KHỔ WTO.
1.1. Vài nét về Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO)
1.1.1. Khái quát về WTO
1.1.1.1. Giới thiệu về WTO
Nói một cách đơn giản, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là nơi đề ra những
quy định điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới. Trước
tiên, WTO là một khuôn khổ để đàm phán. WTO là diễn đàn, nơi các quốc gia thành viên
thương lượng giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa họ.
Bước giải quyết tranh chấp đầu tiên là thỏa thuận. WTO ra đời từ các cuộc đàm phán và tất
cả những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán. Các hoạt động mà
WTO đang xúc tiến hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm phán diễn ra từ năm
1986 đến năm 1994, mang tên vòng đàm phán Uruguay, và từ những cuộc đàm phán trước
đó trong khuôn khổ Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Đối với
những nước gặp phải những rào cản trong thương mại và muốn vượt qua chúng, thì đàm
phán góp phần thúc đẩy tự do hóa thương mại. Tuy nhiên WTO không chỉ tập chung vào
tự do hóa thương mại, trong một số trường hợp, WTO còn đề ra những quy định ủng hộ
việc duy trì rào cản thương mại, ví dụ như trong trường hợp bảo vệ người tiêu dùng hay
ngăn chặn sự lan tràn của một dịch bệnh nào đó.
WTO là tập hợp những quy định. Nòng cốt của tổ chức là các hiệp định WTO, được
phần lớn các cường quốc thương mại trên thế giới đàm phán và ký kết. Những văn bản này
tạo thành quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế. Đó chủ yếu là những hợp
đồng, theo đó chính phủ các nước cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ
những vấn đề đã thỏa thuận. Mặc dù do các chính phủ đàm phán và ký kết, song mục tiêu
của những hợp đồng này là giúp đỡ các nhà sản xuất hàng hóa, dịch vụ cũng như các nhà
sản xuất, nhập khẩu triển khai các hoạt động của mình, đồng thời vẫn cho phép chính phủ
các nước đáp ứng được những mục tiêu xã hội và môi trường.
Mục tiêu trọng tâm của hệ thống là góp phần tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho tự

do hóa thương mại mà vẫn tránh được những tác hại không mong muốn. Đó là xóa bỏ


9
những rào cản, thông báo những quy định thương mại hiện hành trên thế giới cho các cá
nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời đảm bảo với họ rằng sẽ không có
thay đổi đột ngột nào trong các chính sách đang được áp dụng. Nói cách khác, các quy
định phải “minh bạch” và dễ dự đoán…
Và cuối cùng, WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp. Đây chính là hoạt động
quan trọng thứ ba của WTO. Quan hệ thương mại thường làm nảy sinh những lợi ích mâu
thuẫn nhau. Tất cả các hiệp định, kể cả những hiệp định đã được các nước thành viên
WTO đàm phán một cách kỹ lưỡng, đều cần phải được giải thích. Cách tốt nhất để giải
quyết chanh chấp là đưa ra một thủ tục trung gian dựa trên cơ sở pháp lý đã thỏa thuận.
Đây chính là mục tiêu của quá trình giải quyết chanh chấp nêu trong các hiệp định của
WTO.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm
1995, tại thời điểm đó, tổng số các Bên ký kết GATT là 128 nhưng chỉ có 76 nước trong
số này trở thành Thành viên WTO. Số còn lại sau thời điểm trên mới tham gia WTO
(12/1995). Hiện nay đã có 152 nước và vùng lãnh thổ tham gia tổ chức này, chiếm 97%
GDP và 85% giá trị thương mại hàng hóa và 90% giá trị thương mại dịch vụ toàn cầu.
Khác với GATT, trước kia chỉ bao quát thương mại hàng hóa, sau khi thành lập, WTO đã
mở rộng phạm vi điều tiết hoạt động thương mại toàn cầu từ lĩnh vực chủ yếu là thương
mại hàng hoá sang các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến
đầu tư và thương mại liên quan đến các quyền sở hữu trí tuệ…WTO thúc đẩy quá trình tự
do hoá thương mại toàn cầu theo các nguyên tắc như: minh bạch hóa chính sách thương
mại, đối xử tối huệ quốc, thương mại không phân biệt đối xử, đối xử quốc gia và mở của
thị trường hàng hoá và thị trường dịch vụ để thương mại toàn cầu phát triển thông qua đàm
phán. Mục đích của tổ chức này là thúc đẩy tự do thương mại nhằm đạt được sự tăng
trưởng kinh tế nhanh, nâng cao mức sống của người dân thông qua việc cắt giảm hàng rào
thuế quan và phi thuế quan; xoá bỏ các loại trợ cấp làm méo mó thương mại; nới lỏng các

hạn chế về đầu tư; cho phép các dòng vốn được tự do di chuyển giữa các quốc gia… cũng
như các cơ quan giải quyết các tranh chấp thương mại làm cho thương mại quốc tế minh
bạch hơn và công bằng hơn.


10
1.1.1.2. Lược sử hình thành và phát triển
Tư tưởng về tự do thương mại do WTO theo đuổi có xuất xứ từ rất lâu. Tại Hội nghị
Bretton Woods, bang New Hamsphire, Hoa Kỳ năm 1944, cùng với sự ra đời của 2 tổ chức
tài chính quốc tế là Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (nay gọi là Ngân hàng Thế
giới – World Bank – WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Money Fund – IMF), một
tổ chức chung về lĩnh vực thương mại cũng được đề xuất thành lập với tên gọi Tổ chức
Thương mại Quốc tế (International Trade Organization - ITO).
Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và
Việc làm tại La Havana (Cuba) tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, do không được tất cả các
quốc hội của các nước phê chuẩn nên ITO, với tư cách là một tổ chức đã không thể hình
thành. Mặc dầu vậy, tinh thần cơ bản của Hiến chương ITO về điều chỉnh thương mại quốc
tế vẫn tồn tại thông qua sự hình thành định chế thương mại quốc tế Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT). Từ khi ra đời (1-1-1948 với 23 nước tham gia thỏa
thuận ban đầu), GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa
phương trong suốt gần 50 năm (đến hết năm 1994). Các nước tham gia GATT đã tiến hành
8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Tại vòng đàm phán thứ 8
của GATT khai mạc ở Punta del Este, Urugoay – Vòng đàm phán Urugoay, bắt đầu năm
1986 và kết thúc vào năm 1994, các bên tham gia GATT đã nhất trí thành lập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của
GATT được WTO kế thừa, quản lý và mở rộng.
Tuy là một hiệp định có vai trò bao trùm trong đời sống thương mại quốc tế, trong
đó đề ra những nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế và những nguyên tắc đó vẫn
tồn tại cho đến ngày nay, nhưng GATT lại chưa bao giờ là một tổ chức. Sự điều hành
GATT khiến người ta có cảm giác đây như là một tổ chức. GATT điều hành các vòng

đàm phán kéo dài nhiều năm, với sự tham gia của hàng chục quốc gia từ khắp các châu
lục. Do tầm vóc lớn lao của nó cũng như giá trị những khối lượng thương mại mà nó điều
tiết, GATT có riêng một Ban Thư ký để theo dõi, giám sát việc thực hiện Hiệp định. Và
để điễn tả hình thức tồn tại này của GATT, có người đã gọi GATT là một “định chế”. Về
điểm này, WTO không giống như GATT, vì WTO thực sự là một tổ chức, ra đời thay thế


11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Kim Bảo (chủ biên): “Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung
Quốc (giai đoạn 1992-2010)”. NXB. KHXH, 2004.
2. Hồ An Cương (Chủ biên): “Trung Quốc – Những chiến lược lớn”. NXB Thông tấn,
Hà Nội 2003.
3. GS. Cốc Nguyên Dương (2006), “Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI: Phát triển và
hợp tác”. Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (65).
4. Jonh H. Jackson: “Hệ thống thương mại thế giới – Luật và chính sách về các quan hệ
kinh tế quốc tế”. NXB Thanh niên, 2001.
5. Lý Thành Huân (Chủ biên): “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc
1996-2050”. NXB Bắc Kinh 1997. Bản dịch của Viện nghiên cứu Tài chính, 1999.
6. Lưu Lực (chủ biên): “Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc”. NXB. KHXH, tháng
1-1999.
7. Lưu Lực: “Toàn cầu hóa kinh tế - Lối thoát của Trung Quốc là ở đâu?” NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội 2002.
8. TSKH. Võ Đại Lược (chủ biên): “Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
– Thời cơ và thách thức”. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội-2004
9. Nguyễn Anh Minh: “Chính sách thúc đẩy xuất khẩu sau gia nhập WTO của Trung
Quốc”. Tạp chí Những vấn đề KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI, Số 7 (123) – 2006.
10. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khóa XV Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Về một số vấn đề quan trọng của cải cách và phát triển doanh nghiệp quốc

hữu. Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Hà Nội, 1999.
11. An Nguyên: “Trung Quốc sau 5 năm gia nhập WTO”. Tạp chí Ngoại thương, Số 35
ngày 11-20/12/2006.
12. TS. Nguyễn Trần Quế “Phát triển kinh tế ngoài quốc hữu và vấn đề hỗ trợ khu vực
doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi gia nhập WTO ở Trung Quốc”. Tạp
chí Những vấn đề KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI, Số 7 (123) – 2006; “Sau khi
gia nhập WTO Trung Quốc tiếp tục tăng cường điều chỉnh và cải cách doanh nghiệp nhà
nước”. Nghiên cứu Trung Quốc số 4 (68) – 2006.


12
13. Đỗ Tiến Sâm, Lê Văn Sang (chủ biên): “Trung Quốc gia nhập WTO và tác động đối
với Đông Nam Á”, NXB. Khoa học xã hội, 2002.
14. PGS.TS. Lê Văn Sang: “Phân tích tình hình kinh tế Trung Quốc 2001-2004 và dự
báo khả năng phát triển 2005-2010. Những gợi ý đối với Việt Nam”. Nghiên cứu Trung
Quốc, số 4 (62) – 2005.
15. Phạm Ngọc Thạch: “Trung Quốc với việc thực thi các cam kết với WTO – Một số thách
thức đối với hệ thống pháp luật”. Nghiên cứu Trung Quốc, Số 1 (47) – 2003.
16. PGS. TS. Bùi Tất Thắng: “WTO thường thức”. NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội – 2006.
17. Supachai Panitchpakdi & Mark L.Cliford: “Trung Quốc và WTO - Trung Quốc đang
thay đổi, thương mại thế giới đang thay đổi”. NXB Thế giới, Hà Nội – 2002.
18. TS. Lê Kim Sa: “Tác động kinh tế - xã hội của việc Trung Quốc gia nhập WTO:
Tổng quan một số nghiên cứu”. Tạp chí Những vấn đề KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ
GIỚI, Số 8 (124) – 2006.
19. Lý Kinh Văn: “Kinh tế Trung Quốc bước vào thế kỷ XXI”. NXB. Chính trị quốc gia, 1998.
20. Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế quốc tế: “Tìm hiểu Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO)”. NXB Chính trị quốc gia, 2004.
21. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và UNDP: “Chính sách phát triển kinh tế
- Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc”. Bộ 3 tập, NXB Giao thông vận tải, 2004.
22. Thời báo Kinh tế Trung Quốc ngày 11-12-2001: “ Một số vấn đề về Trung Quốc sau

khi gia nhập WTO”.
23. Tạp chí Kinh tế Trung Quốc, quyển 29, số 4, tháng 7-8 năm 2002 (Bản điện tử):
“Những nỗ lực thực thi cam kết WTO của Trung Quốc”.
Website:


/> /> /> />

13
/>


×