Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Bao cao 5 nam thuc hien XKLD giai đoạn 2011 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.46 KB, 8 trang )

UBND TỈNH THANH HÓA

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

BAN CHỈ ĐẠO XKLĐ & CG
Số:
/BC - XKLĐ

Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
Thanh Hóa, ngày

tháng 3 năm 2016

BÁO CÁO
TỔNG KẾT 5 NĂM CÔNG TÁC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
(GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 ) PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ (2016 – 2020)
Thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TU ngày 21/7/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh
uỷ Thanh Hoá về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với
công tác Xuất khẩu lao động và chuyên gia đến năm 2010 và những năm tiếp
theo; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa về tổng kết
5 năm thực hiện công tác xuất khẩu lao động (2011-2015). Ban Chỉ đạo xuất
khẩu lao động và chuyên gia Thanh Hoá báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện và
phương hướng nhiệm vụ (2016-2020) như sau:
I - ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHỈ THỊ VÀ KẾT QUẢ
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA TỈNH NĂM 2011 - 2015:
1. Công tác tổ chức triển khai chỉ thị 18-CT/TU:
Ngay sau khi Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành chỉ thị 18-CT/TU ngày
21/07/2009 về công tác Xuất khẩu lao động và chuyên gia đến năm 2010 và
những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó các huyện, thị xã, thành phố về tổ chức hội
nghị triển khai đến các Đảng bộ các xã, phường, thị trấn và chỉ đạo các xã
phường thị trấn tổ chức phổ biến chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về


công tác xuất khẩu lao động đến người dân. Ban Chỉ đạo xuất khẩu lao động các
cấp tổ chức tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của
Tỉnh về công tác Xuất khẩu lao động, về ý nghĩa, tầm quan trọng của xuất khẩu
lao động; về nghĩa vụ, quyền lợi của người lao động; các chi phí cần thiết người
lao động phải đóng góp trước khi đi xuất khẩu lao động và Luật người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng đã được
làm thường xuyên và đa dạng. Hàng năm cứ đến trước và sau tết Nguyên đán,
Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động và chuyên gia tỉnh mời Cục Quản lý lao động
ngoài nước, Đài phát thanh truyền hình tỉnh, Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, Công an tỉnh phối hợp với
một số doanh nghiệp xuất khẩu lao động có uy tín tổ chức cuộc giao lưu trực
tuyến trên Đài phát thanh và truyền hình, nhiều ý kiến thắc mắc, tìm hiểu về xuất
khẩu lao động của nhân dân trong tỉnh đã được trả lời trực tiếp từ đó tạo được
niềm tin cho nhân dân yên tâm đăng ký tham gia đi xuất khẩu lao động. Nhiều
Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động cấp huyện đã phối hợp với các doanh nghiệp tổ
chức Hội nghị tư vấn về xuất khẩu đến các Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, các
trưởng Đoàn thể cấp xã chuyền tải đầy đủ các thông tin về chế độ chính sách,
quyền lợi của người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và giải đáp
kịp thời những thắc mắc của Nhân dân.
1


Công tác tuyên truyền đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức của các
cấp, các ngành và người dân lên một bước cao hơn về mục đích ý nghĩa của xuất
khẩu lao động. Qua tuyên truyền đã tạo được sự nhất trí cao trong cấp ủy Đảng,
chính quyền, Đoàn thể; cũng qua tuyên truyền đã chuyển tải đến người dân
những thông tin chính xác, đầy đủ về xuất khẩu lao động, giúp người dân yên
tâm đăng ký đi đi xuất khẩu lao động để tạo việc làm và giảm nghèo bền vững.
Các cấp, các ngành xác định cùng với các giải pháp giải quyết việc làm ở địa

phương, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội có ý
nghĩa chiến lược vừa cấp bách, vừa lâu dài, có ý nghĩa rất quan trọng mang tính
đột phá trong Chương trình giải quyết việc làm và giảm nghèo của tỉnh.
2. Tình hình chung:
Trong những năm qua, tình hình kinh tế thế giới có những diễn biến khó
lường, tình hình chính trị bất ổn tại các quốc gia ở khu vực Trung Đông và Bắc
Phi, cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công ở một số quốc gia châu Âu
đã dẫn đến thị trường lao động quốc tế bị thu hẹp; sự cạnh tranh giữa các quốc
gia cung ứng lao động vốn đã rất gay gắt, càng trở nên khó khăn hơn và đã ảnh
hưởng đến việc phát triển các thị trường lao động; năm 2011thị trường XKLĐ
đầu năm bị thu hẹp lại do thảm họa thiên tai, rò rỉ hạt nhân tại Nhật Bản, biến
động chính trị tại Lybia và một số nước Trung đông. Các thị trường tiếp nhận
nhiều lao động lại chỉ tập trung nhận lao động nữ, đơn hàng lao động nam ít nên
các DN XKLĐ gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tuyển chọn lao động. Đặc
biệt những việc xảy ra đối với người lao động như thu tiền không đi được, về
nước trước thời hạn, đi sai thị trường, thu nhiều tiền hơn quy định ....hầu hết
thông qua kiểm tra hoặc khi người lao động phản ánh về Ban chỉ đạo xuất khẩu
tỉnh thời gian đã lâu nên việc phối hợp giải quyết gặp nhiều khó khăn, thậm chí
có doanh nghiệp đã giải thể, thu hồi giấy phép nên vẫn còn nhiều vụ việc không
giải quyết được như vụ việc tại huyện Bá Thước và Hà Trung. Thời gian qua
nhiều lao động khi về nước trước hạn đã có thông tin không trung thực về thị
trường lao động nước ngoài đã ảnh hưởng đến tâm lý của người lao động. Cùng
với việc lao động Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc bỏ trốn, ở lại cư trú bất hợp
pháp khi hết hợp đồng lao động ngày càng nhiều, chuyển đổi chủ vì lý do không
chính đáng. Vì vậy, nó đã tác động rất lớn đến phong trào đi xuất khẩu ở các
huyện nghèo cũng như của tỉnh. Tuy nhiên, được sự chỉ đạo kịp thời của Ban
chỉ đạo xuất khẩu lao động tỉnh, ngay từ đầu năm, Thường trực Ban chỉ đạo
xuất khẩu lao động và Chuyên gia tỉnh đã phối hợp với Đài phát thanh và truyền
hình tỉnh tổ chức đi cơ sở làm phóng sự lấy tin những địa phương, những gia
đình có người đi xuất khẩu lao động có hiệu quả để thông tin tuyên truyền. Phối

hợp với các doanh nghiệp tổ chức tham vấn cho cán bộ huyện làm công tác
XKLĐ; Tổ chức nhiều hội nghị tuyên truyền vận động người lao động Việt
Nam làm việc tại Hàn Quốc về nước đúng hạn ở tỉnh và huyện và cung cấp
danh sách lao động hết hợp đồng, sắp hết hạn hợp đồng làm việc tại Hàn Quốc
về cho các huyện, thị xã, thành phố để tuyên truyền vận động người lao động về
nước nhằm giảm tỷ lệ lao động sống bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Tổ chức các
lớp tập huấn nâng cao năng lực xuất khẩu lao động cho cán bộ cấp xã, cấp thôn
và các cuộc tham vấn cộng đồng cho cán bộ thôn, người lao động về xuất khẩu
2


lao động. Chính vì vậy, công tác xuất khẩu lao động của tỉnh thu được kết quả
đáng khích lệ.
3. Những kết quả đạt được :
Trong những năm qua, mặc dù thị trường các nước tiếp nhận lao động
Việt Nam luôn có nhiều tác động bất lợi cho công tác xuất khẩu lao động, dưới
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, quan tâm chỉ đạo của các
ngành, các cấp, đoàn thể, cộng với sự tham gia tích cực của người dân công tác
xuất khẩu lao động của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ:
Mỗi năm Thanh Hóa có từ 50 - 60 doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu
lao động từ các tỉnh, thành phố về phối hợp với các huyện, thị xã, thành phố
trong tỉnh để tuyển lao động đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Trong 5
năm số lao động đến đăng ký đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài với Ban chỉ
đạo xuất khẩu lao động tỉnh là 48.219 người; số lao động đã đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài là 45.820 người (trong đó 7 huyện nghèo đưa đi được 2.546
người (có biểu chi tiết kèm theo).
Trong 5 năm qua một số Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động làm tốt như các
huyện: Yên Định, Cẩm Thủy, Đông Sơn, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Hà Trung.
cấp xã như: xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Thủy; xã Đông Khê, Đông Minh huyện
Đông Sơn, xã Hoằng Thắng huyện Hoằng Hóa, xã Vĩnh Thịnh huyện Vĩnh Lộc,

xã Yên Phú, Yên Hùng huyện Yên Định.
Một số doanh nghiệp đã tuyển và đưa được nhiều lao động của tỉnh đi
như : Công ty cổ phần đầu tư Vĩnh Cát; Công ty CP Xây dựng, Cung ứng Nhân
lực và XNK Thiên Ân (TAMAX); Công ty CP Việt Hà - Hà Tĩnh; Công ty CP
Xuất nhập khẩu Vật tư thiết bị đường sắt (VIRASIMEX); Công ty CP Dịch vụ
thương mại và Xuất khẩu lao động Trường Sơn (COOPIMEX)……
Từ năm 2011 đến nay số tiền người lao động gửi về nước khoảng 405
triệu USD (năm 2011 là 65 triệu USD; năm 2012 là 70 triệu USD; năm 2013 là
85 triệu USD; năm 2014 là 90 triệu USD; năm 2015 là 95 triệu USD), tương
đương 8.910 tỷ Việt Nam đồng. Từ nguồn vốn này, nhiều gia đình đã đầu tư vào
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo thêm nhiều chỗ việc làm mới.
4. Nguyên nhân đạt được kết quả trên
Đạt được kết quả trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao chặt chẽ của
các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, sự phối hợp thống nhất của các Ngành, các Đoàn
thể, sự đồng lòng nhất trí của các tầng lớp nhân dân. Đồng thời hình thức tuyển
chọn lao động được mở rộng như thông qua sàn giao dịch việc làm vào ngày 01
và ngày15 hàng tháng trong năm giúp người lao động có thêm nhiều thông tin
và phương thức để liên hệ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
- Tình hình thị trường tiếp nhận lao động trong những năm qua có nhiều
thuận lợi cho lao động lựa chọn, nhiều đơn hàng dành cho lao động đi miễn phí
xuất cảnh, hoặc được nợ phí tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động kinh tế
khó khăn vẫn đi làm việc ở nước ngoài như thị trường Ả rập xê út nhu cầu về lao
động giúp việc gia đình tăng cao do bị hạn chế nguồn cung từ Philipine và
Inđônêsia. Hơn nữa, thủ tục đưa và tiếp nhận lao động sang giúp việc gia đình tại
3


Ả rập xê út tương đối đơn giản, người lao động không mất phí, trong khi doanh
nghiệp cung ứng được đối tác trả phí tuyển dụng cao.Vì vậy số lượng người lao
động đi làm giúp việc gia đình trong những năm qua ngày càng nhiều.

- Công tác tuyên truyền đã tổ chức bằng nhiều hình thức như: báo, phóng
sự truyền hình, tờ rơi, áp phích, trên loa phát thanh của xã, thôn; tư vấn tại cộng
đồng.
- Lực lượng lao động của tỉnh dồi dào, tỷ lệ thiếu việc làm cao và nhu cầu
đi xuất khẩu lao động của người lao động trong tỉnh nhiều.
- Chính sách hỗ trợ khuyến khích của nhà nước cũng như của tỉnh cho
người đi xuất khẩu lao động, đã tác động đến người lao động thuộc hộ nghèo,
người dân tộc thiểu số, thân nhân gia đình có công với cách mạng, hộ bị thu hồi
đất nông nghiệp tích cực tham gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
- Chính sách hỗ trợ của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
người dân thuộc 7 huyện nghèo có đủ điều kiện để đi làm việc ở nước ngoài
đặc biệt là các khoản chi phí ban đầu của người lao động nghèo khi có nhu cầu
tham gia đi xuất khẩu lao động.
- Thường trực Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động và chuyên gia Tỉnh đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi và ưu tiên cho các doanh nghiệp mạnh có đơn hàng tốt
giới thiệu về phối hợp với các huyện, thị xã, thành phố và các Trung tâm Giới
thiệu việc làm để tuyển lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài.
5. Tồn tại, hạn chế, nguyên nhân:
Trong những năm qua công tác xuất khẩu lao động đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế như số người đi xuất khẩu
lao động chưa tương xứng với nguồn lao động của tỉnh, lao động đi làm việc ở
nước ngoài của tỉnh chủ yếu là lao động phổ thông, ở vùng nông thôn; trình độ
ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật của Việt Nam, pháp luật, phong tục, tập quán của
nước đến làm việc còn hạn chế, dẫn đến số lao động vi phạm hợp đồng, cư trú
bất hợp pháp và vi phạm pháp luật ở nước sở tại còn nhiều.
- Do cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu làm cho tình hình thất nghiệp ở
các nước trên thế giới tăng cao, các nước tiếp nhận lao động Việt Nam đều giảm
số lượng hoặc không tiếp nhận lao động mới, một số lao động thiếu việc làm,
không có việc làm phải về nước trước thời hạn. Tình hình này đã ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả XKLĐ của tỉnh.

- Từ năm 2012 đến nay tình trạng lao động làm việc tại Hàn Quốc hết hợp
đồng bỏ ra ngoài sống bất hợp pháp hoặc chuyển đổi chủ vì những lý do không
chính đáng dẫn đến thị trường Hàn Quốc tạm dừng tiếp nhận lao động Việt
Nam, đã làm ảnh hưởng rất lớn đến phong trào đi xuất khẩu lao động của tỉnh.
- Công tác chỉ đạo thực hiện xuất khẩu lao động trên địa bàn chưa được
lãnh đạo các huyện, thị xã, thành phố quan tâm chỉ đạo sâu sát và đặc biệt là
lãnh đạo các xã, phường, thị trấn thiếu quan tâm chỉ đạo đến công tác xuất khẩu
lao động, chưa nhận thức rõ đây là nhiệm vụ quan trọng trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở địa phương, là giải pháp tạo việc làm và giảm nghèo có hiệu quả
cao. Chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đến các xã, phường, thị trấn
4


để tuyên truyền, vận động, tư vấn tuyển lao động và đưa lao động đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài.
- Công tác quản lý lao động trên địa bàn gặp nhiều khó khăn, lao động đi
làm việc bất hợp pháp ở Trung Quốc, Lào, Thái Lan ngày càng nhiều, xảy ra hầu
hết các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh.
- Một số nước có nhu cầu tuyển nhiều lao động nhưng do thu nhập thấp
nên chưa hấp dẫn với người lao động.
- Việc tổ chức giáo dục định hướng cho người lao động ở một số doanh
nghiệp còn hình thức, quy trình thực hiện ký hợp đồng với người lao động nhiều
doanh nghiệp chưa đảm bảo quy định, tuyển chọn lao động nhiều hơn so với
năng lực của thị trường lao động làm nảy sinh tiêu cực, ảnh hưởng đến tâm lý
của người lao động.
- Một số doanh nghiệp chưa được Cục quản lý lao động ngoài nước thẩm
định thị trường như: Angola, Cộng hòa síp nhưng vẫn tổ chức cung ứng và
tuyển chọn lao động như: Năm 2013, Công ty Cổ phần du lịch dịch vụ Dầu khí
Hải Phòng Chi nhánh tại Nam Định đã tuyển và đưa một số lao động của huyện
Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hoằng Hóa, Bá Thước đi làm việc tại Cộng hòa Síp

không đưa người lao động đi được hoặc có đưa đi thì trong thời gian làm việc
tại nước ngoài không đúng với nội dung được ghi trong hợp đồng như địa điểm
làm việc, tiền lương, thời gian làm việc và công việc gây ra thiệt hại đến lợi ích
kinh tế cho người lao động, giảm lòng tin của người dân đến công tác xuất khẩu
lao động.
- Chính sách hỗ trợ của Nhà nước qua dự án “hỗ trợ đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài” để hỗ trợ người lao động đi xuất khẩu thuộc hộ gia
đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, lao động mất đất nông nghiệp chưa có
nhiều đối tượng tham gia.
- Ở các huyện nghèo trong tỉnh nhận thức của người dân và một số cán bộ
các xã, phường còn hạn chế, cán bộ chuyên trách về XKLĐ thiếu về số lượng và
yếu về năng lực chuyên môn, dẫn đến việc tuyên truyền, tư vấn cho người lao
động không đạt yêu cầu. Do điều kiện đặc thù, đi lại khó khăn cộng với tập quán
ngại di chuyển, không muốn rời bỏ quê hương, bản làng đi nơi khác làm ăn, sinh
sống, nhiều người không muốn tham gia đi xuất khẩu lao động. Các huyện
nghèo lực lượng lao động nhiều nhưng chất lượng lao động thấp, tỷ lệ viêm gan
B cao (chiếm trên 30% tổng số lao động sơ tuyển). Chính vì vậy, việc tuyển
dụng người ở các huyện nghèo đi xuất khẩu lao động gặp rất nhiều khó khăn.
- Công tác xuất khẩu lao động những năm qua còn nhiều tồn tại, lao động
đi xuất khẩu lao động bị về nước trước thời hạn nhiều cũng do nhiều nguyên
nhân trong đó có cả do doanh nghiệp xuất khẩu lao động và người lao động.
Việc phối hợp giải quyết những vướng mắc, tồn tại trong công tác xuất khẩu lao
động giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động với chính quyền các cấp không chặt
chẽ, không dứt điểm, nhiều vụ việc giải quyết kéo dài, làm cho lòng tin giữa
người lao động với doanh nghiệp xuất khẩu bị giảm nhiều.
5


- Việc xử lý vi phạm của doanh nghiệp cũng như người lao động chưa
nghiêm, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh đã ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của người

dân và phong trào đi xuất khẩu lao động.
- Việc triển khai thực hiện xử phạt hành chính theo Nghị định 95 của
Chỉnh phủ đối với lao động bất hợp pháp tại Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn như
việc xác định tài sản liên quan đến tiền của lao động đi làm việc tại Hàn Quốc
rất khó; lao động bất hợp pháp gửi tiền về gia đình chủ yếu là gửi tay ba. Chính
vì vậy việc thực hiện cưỡng chế đối với lao động bất hợp pháp tại Hàn Quốc ở
các xã khó tổ chức thực hiện.
- Công tác phối hợp giữa các ngành, các địa phương, các đơn vị doanh
nghiệp còn thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên, nhất là chế độ thông tin báo cáo,
nên việc thu thập thông tin tổng hợp tình hình chậm ảnh hưởng đến công tác chỉ
đạo cũng như thực hiện nhiệm vụ.
II- MỤC TIÊU VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 2016-2020:
1. Mục tiêu:
Phát huy kết quả đạt được trong những năm qua, khắc phục những tồn
tại, yếu kém, thực hiện kế hoạch công tác xuất khẩu lao động giai đoạn 2016 2020 đưa được 60.000 lao động trở lên đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Năm 2016 toàn tỉnh đưa đi được từ 10.000 lao động trở lên đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài.Trong đó 7 huyện nghèo đưa đi được 1.000 lao động.
2 .Về giải pháp:
Xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ trên, để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề
ra. Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động các cấp phải tập trung chỉ đạo và thực hiện
những giải pháp sau:
- Tăng cường công tác chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố thực hiện
đồng bộ các giải pháp đã đề ra, đặc biệt là kiểm tra giám sát việc tổ chức thực
hiện của lãnh đạo cấp ủy chính quyền địa phương cấp xã, phường, thị trấn phải
thực sự vào cuộc, phối hợp với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, xác định
xuất khẩu lao động là một giải pháp quan trọng trong chương trình giải quyết
việc làm giảm nghèo nhanh và bền vững.
- Các huyện, thị xã, TP tăng cường quản lý chặt chẽ trong hoạt động xuất
khẩu lao động của các doanh nghiệp; tuyên truyền, giáo dục ý thức kỷ luật và
đào tạo kỹ năng cho người lao động để không chỉ tăng về số lượng, mà chất

lượng cũng cần được nâng lên.
- Các huyện nghèo tiếp tục tổ chức thực hiện có hiệu quả Quyết định
71/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án
hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ góp phần giảm nghèo nhanh và bền
vững giai đoạn 2009 - 2020;
- Các huyện, thị xã, TP cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền
theo dự án hỗ trợ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (không
bao gồm lao động thuộc 7 huyện nghèo của tỉnh theo quy định tại Quyết định số
6


71/2009/QĐ-TTg), tạo điều kiện cho người lao động thuộc đối tượng đi xuất
khẩu lao động được hưởng các chính sách ưu đãi của nhà nước.
- Tăng cường công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức vận động người
lao động trong độ tuổi chủ động tích cực đăng ký tham gia đi làm việc ở các thị
trường có nhu cầu tiếp nhận nhiều lao động như Đài Loan, Ả rập xê út,
Malaysia, các nước Trung Đông, Nhật Bản…
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội sẽ tổ chức nhiều cuộc tham vấn tại
các xã cung cấp thông tin tuyên truyền, vận động gia đình người lao động và
cung cấp thông tin chính sách của Nhà nước Việt Nam và chính sách khuyến
khích của Hàn Quốc đối với lao động hoàn thành hợp đồng về nước để người
dân biết vận động con em về nước đúng hạn
- Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động nhằm trang bị cho
người lao động trong độ tuổi có trình độ tay nghề tốt để thuận lợi trong việc tìm
kiểm thị trường có mức thu nhập cao như Nhật Bản, Công hòa Liên bang Đức.
- Các huyện, thị xã, TP tăng cường công tác tuyên truyền vận động những
lao động hết hạn hợp đồng về nước đúng thời hạn, đồng thời thực hiện nghiêm
túc việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số
95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ đối với lao động vi phạm hợp
đồng.

- Tăng cường quản lý nhà nước về lao động - việc làm ở các cấp, các
ngành, nhất là ở cơ sở; thường xuyên hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, thanh tra
việc thực hiện mục tiêu giải quyết việc làm xuất khẩu lao động. Tập trung giải
quyết kịp thời những vướng mắc, tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực
hiện tuyển chọn và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
III - KIẾN NGHỊ:
- Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo Công an, bộ đội biên phòng tăng cường
công tác thanh tra trên các tuyến biên giới và xử lý vi phạm; phát hiện kịp thời
và kiên quyết triệt phá các đường dây đưa người đi làm việc bất hợp pháp, xử lý
nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi lừa đảo. Đồng thời, cũng xử nghiêm đối
với lao động đi làm việc trái phép;
- Đề nghị UBND tỉnh giao cho Đài phát thanh và Truyền hình Thanh Hoá
hàng tuần có chuyên mục tuyên truyền về chương trình xuất khẩu lao động; đặc
biệt tăng cường công tác tuyên truyền chính sách của Nhà nước Việt Nam và
chính sách khuyến khích của Hàn Quốc đối với lao động hoàn thành hợp đồng
về nước để người dân biết vận động con em về nước đúng hạn.
- Đề nghị UBND các huyện, thị xã, TP chỉ đạo UBND các xã, phường, thị
trấn tăng cường giáo dục, vận động nhân dân thực hiện đúng các quy định của
Nhà nước về xuất khẩu lao động; hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
tạo nguồn lao động có chất lượng; tăng cường quản lý hoạt động xuất khẩu lao
động trên địa bàn, ngăn chặn các hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến quyền lợi của
người lao động, của các doanh nghiệp và hoạt động xuất khẩu lao động.
7


- Đối với các huyện nghèo đề nghị Cục Quản lý lao động ngoài nước cần
kiểm tra thẩm định nhiều đơn hàng, tăng thêm thị trường tiếp nhận lao động ở
các huyện nghèo để tạo cơ hộ cho lao động có thêm lựa chọn tham đi xuất khẩu
lao động.
KT. TRƯỞNG BAN

PHÓ BAN THƯỜNG TRỰC

Nơi nhận:
- Cục Quản lý LĐNN;
- T.T tỉnh ủy;
- T.T HĐND,UBND tỉnh;
- Thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh;
- Các huyện, thị xã, thành phố;
- Lưu: VT, VLATLĐ ( 30 bản).

GIÁM ĐỐC SỞ LAO ĐỘNG - TBXH

Trịnh Ngọc Dũng

8



×