Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Câu hỏi ôn tập môn Đường Lối cách mạng Đảng Cộng Sản sát nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.14 KB, 72 trang )

Câu hỏi

Câu 1. Đường lối Cách mạng vô sản
Hệ thống quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc những năm 20 (XX)
Hệ thống quan điểm và lý luận về “Đường cách mệnh” thể hiện khá hoàn chỉnh qua các tác phẩm, bài
viết của Người trong chặng đường hoạt động từ năm 1921 đến 1927. Nội dung hệ thống quan điểm đó
là:
- Vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Từ đó xác định, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các
nước thuộc địa.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại cách mạng vô sản. Giải phóng
dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động và giai cấp công nhân.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng ở “chính quốc” có quan hệ khăng
khít với nhau. Phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở thuộc địa và “chính
quốc”. Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc”, mà có tính chủ
động, độc lập và nó có thể thành công trước cách mạng ở “chính quốc”.
- Cách mạng ở thuộc địa trước hết là giải phóng dân tộc, sau đó mở đường tiến lên giải phóng hoàn
toàn lao động, giải phóng con người, tức là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng
XHCN.
- Về lực lượng cách mạng: “công nông là người chủ cách mệnh”, “là gốc cách mệnh”; công nhân là
giai cấp lãnh đạo, tiểu tư sản trí thức là bạn đồng minh của cách mạng.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Quần chúng cần được giác ngộ và tổ chức lại thành đội ngũ
vững bền; hiểu biết tình thế, “có mưu chước”.
- Phải thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng quốc tế; phải nêu cao tính chủ động
cách mạng, ý thức tự lực, tự cường.
- Cách mạng muốn thắng lợi phải có đảng lãnh đạo. Đảng muốn vững phải có học thuyết cách mạng,
đó là học thuyết Mác - Lênin, phải biết vận dụng đúng đắn học thuyết đó vào cách mạng Việt Nam.
• Tóm lại, đây là hệ thống quan điểm lý luận về cách mạng ở thuộc địa khá cơ bản và hoàn chỉnh.
Những quan điểm cách mạng trên đây chính là sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cho ĐCS ra đời, định
hướng cho cách mạng Việt Nam trong những giai đoạn tiếp theo.
Câu 2. Đường lối CÔNG NGHIỆP HÓA


I. ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA
1. Tính tất yếu và mục tiêu của CNH
1




Tính tất yếu của CNH đối với các quốc gia đang phát triển
- Tất cả các nước có nền kinh tế lạc hậu, nhất là những nước tiến lên CNXH không qua chế độ TBCN như
nước ta tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH vì:
+ Chỉ có CNH, HĐH mới có thể xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Từ CNTB hay từ trước
CNTB quá độ lên CNXH, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách quan, một
quy luật mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua CNH, HĐH.
+ CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung quanh, giữ
được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng XHCN.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của LLSX xã hội, phù
hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra
của cải vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
+ Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là sự biến đổi và
phát triển của LLSX; sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc
biệt là QHSX thống trị.
+ CNH, HĐH tạo ra LLSX mới về chất, tạo tiền đề cho sự hình thành nhiều mối quan hệ mới về
kinh tế, chính trị xã hội trong toàn xã hội. Trên cơ sở của LLSX mới, QHSX mới - QHSX XHCN sẽ
được hình thành.


Mục tiêu của CNH
- Mục tiêu cơ bản: Cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn

minh.
- Những mục tiêu cụ thể: Đại hội X của Đảng (2006) xác định đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với
phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản để đến năm 2020
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. Đường lối CNH XHCN được hình thành, từng bước bổ sung (1960 -1986)


Đường lối CNH được từng bước hình thành trong những năm 1960-1975
- Vấn đề CNH đất nước từ lâu đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH và trên thực tế, chúng ta đã tiến hành từ đầu những năm 1960 đến nay.
- Đại hội lần thứ III (1960) của Đảng:
+ Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở nước ta là CNH XHCN, mà mấu chốt là ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng.
+ Thực hiện CNH XHCN ở miền Bắc nước ta là “xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và
hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng; ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Với phương châm ấy thì cả công nghiệp nặng, nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đều phải chú trọng phát
triển đồng thời. Nhưng trên thực tế chúng ta tập trung quá mức vào việc phát triển công nghiệp nặng,
mà coi nhẹ hoặc không chú ý đầy đủ phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

2


+ Để thúc đẩy quá trình CNH, cần “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng trong đó cuộc
CMKHKT là then chốt nhằm đưa miền Bắc tiến lên công nghiệp hiện đại”. Tháng 2 - 1962, Hội nghị
Trung ương lần thứ 7 (khóa III) có Nghị quyết chuyên bàn về CNH, bổ sung cho đường lối CNH của
Đại hội III. Về cơ bản, quan điểm về CNH vẫn giống như ở Đại hội III, nhưng được cụ thể hóa rõ nét
hơn về những vấn đề liên quan.
- Hội nghị Trung ương 19 (3 - 1971):
+ Tiếp tục bổ sung cho đường lối CNH: CNH được tiến hành bằng cách ưu tiên phát triển công

nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
+ Quan điểm CNH của Hội nghị Trung ương 19 về căn bản đã kế thừa quan điểm CNH XHCN
đã được khẳng định từ Đại hội III (1960), nhưng có một số thay đổi. Từ quan điểm “ ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” sang quan
điểm “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ”. Quan điểm này cũng là cơ sở để xác định nội dung CNH tại Đại hội lần thứ IV (121976).


Những điều chỉnh quan trọng trong đường lối CNH những năm 1976-1986
- Đại hội IV (1976) của Đảng:
+ Nhất quán với quan điểm của HNTƯ 19 (3 - 1971): “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Như vậy, Đại hội lần thứ IV của
Đảng đã có sự điều chỉnh khi đề cập đến nhiệm vụ CNH. Đại hội tiếp tục xác định đây là nhiệm vụ
trung tâm của suốt thời kỳ quá độ, nhưng về phương châm phát triển đã có sự uốn nắn lại. CNH được
dự kiến tiến hành trong khoảng 20 năm và tới lúc đó, Việt Nam sẽ có nền sản xuất lớn XHCN với công
– nông nghiệp hiện đại.
+ Nhận thức của Đảng về CNH ở thời điểm này mới chỉ dừng lại ở mức quan tâm hơn đến nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, mà chưa nhận thức đầy đủ rằng, trong điều kiện của một nước nông nghiệp
lạc hậu, để thực hiện CNH, cần phải chú trọng và đặt trọng tâm vào nông nghiệp - một vấn đề có tính
quy luật của hầu hết các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển tiến hành CNH.
- Đại hội lần thứ V (1982) của Đảng:
+ Đưa ra khái niệm “chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ, phân kỳ con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam với những nhiệm vụ và biện pháp phù hợp. “Chặng đường đầu tiên” có vai trò tạo
tiền đề cho CNH XHCN theo tư duy mới.
+ Phải lấy nông nghiệp làm cơ sở và xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đại hội V
xem nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chú trọng công nghiệp nhẹ, còn công nghiệp nặng không được
“ưu tiên” như tinh thần của Đại hội III, IV, mà chỉ tập trung phát triển những ngành có tác dụng thúc
đẩy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và đáp ứng nhu cầu phát triển dài hạn của đất
nước.
+ Đây là những điều chỉnh nội dung, cách thức CNH là nhằm mục tiêu tạo ra LLSX mới trong

chặng đường đầu tiên, chuẩn bị những tiền đề căn bản và lực lượng cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH ở
thời kỳ tiếp theo. Sự điều chỉnh ấy là đúng đắn, nhưng quan điểm này vẫn không quán triệt trong nhận
thức của toàn Đảng và trong chỉ đạo thực tiễn. Trên thực tế, vẫn tiếp tục đầu tư cơ bản để xây dựng
hàng trăm công trình quy mô lớn, nông nghiệp chưa trở thành cơ sở cho sự phát triển công nghiệp.
- Tuy CNH được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ, nhưng do nhiều vấn
đề nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH chưa được làm sáng tỏ, nên khi xác định đường lối
3


CNH, chúng ta chưa đủ cơ sở để làm rõ mục tiêu, bước đi, những chủ trương, biện pháp, những điều
kiện cần thiết của công cuộc CNH đất nước.
• Tiểu kết
- Nhận thức về CNH của Đảng từ Đại hội III đến Đại hội V có thể phác họa thành giản đồ sau:
+ “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ” -- > “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ” --> “Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu; đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng; tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan
trọng, kết hợp thành cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý”.
+ Phân tích giản đồ trên, điểm khác biệt và cũng là bước chuyển căn bản trong nhận thức về
CNH của Đại hội V thể hiện rất rõ nét, trở về với đúng với hướng CNH cần thiết phải đi của một nước
nông nghiệp có xuất phát điểm thấp.


Hạn chế của CNH trước năm 1986
- Chưa xác định rõ đặc điểm cơ bản của nước ta quá độ lên CNXH, do đó về nhận thức chưa hiểu
sâu, nắm chắc xuất phát điểm của quá trình CNH ở nước ta là nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc
hậu, kém phát triển, những tiền đề cần thiết cho CNH chưa được chuẩn bị đầy đủ. Cũng chưa xác định
được vị trí hợp lý của công nghiệp trong toàn bộ cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, chưa kết hợp ngay
từ đầu công nghiệp với nông nghiệp, nên đã đề ra quan điểm phát triển công nghiệp nặng đồng thời với
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.

- Chúng ta tiến hành CNH trên cơ sở của mô hình kinh tế hiện vật, với cơ chế quản lý tập trung,
quan liêu, bao cấp, là cơ chế phủ nhận sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường, quy luật giá trị... Do vậy,
đã triệt tiêu các động lực cần và đủ để tiến hành CNH. Chúng ta đồng nhất quá trình CNH với việc xây
dựng những xí nghiệp công nghiệp có quy mô lớn, hiện đại, phát triển mạnh công nghiệp nặng với những
công trình quy mô lớn trong khi xã hội đòi hỏi cấp bách phải giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
- Mục tiêu CNH XHCN là biến nền sản xuất thủ công thành nền đại công nghiệp cơ khí, thay
lao động năng xuất thấp bằng lao động sử dụng máy móc. Tuy nhiên, ngay cả khi nhấn mạnh: “Thực
chất của CNH XHCN là tiến hành một cuộc CMKHKT”, thì thời kỳ đó cũng nhìn thấy mối quan hệ
giữa CMKHKT ở Việt Nam với CMKHKT đang diễn ra trên thế giới. Vì thế, chúng ta không tranh thủ
được những thành tựu khoa học - kỹ thuật của thế giới. Xét cho cùng, chúng ta chỉ nhìn CNH đơn
thuần là một tiến trình kinh tế - kỹ thuật.
- Quá chú trọng và đề cao sự cân đối của kinh tế trong nước - cơ cấu kinh tế giữa ba ngành kinh
tế cơ bản: Công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, thể hiện qua mối quan hệ giữa hai khu
vực kinh tế: Kinh tế Trung ương và kinh tế địa phương. Tương tự, phân công lại lao động trong quá
trình CNH chỉ giới hạn trong phạm vi nền kinh tế nội địa. Điều này thể hiện tư duy về nền kinh tế khép
kín – thực chất vẫn là tư duy kinh tế hiện vật, thực hiện trên phạm vi cả nước.
- Thiếu sự hợp tác với những lực lượng kinh tế hùng mạnh trên thế giới. Hợp tác quốc tế phục
vụ CNH XHCN diễn ra trong nội bộ các nước XHCN, mà Việt Nam là một thành viên. Trong khi các
nước tư bản hiện đại lại nắm giữ phần lớn đỉnh cao của khoa học – công nghệ. Dù cho hoàn cảnh khách
quan (chiến tranh lạnh) hay nhận thức chủ quan (đánh giá sai sức sống của CNTB), thì chung quy lại,
việc không tranh thủ được những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến của loài người khiến CNH
trì trệ, khó tránh khỏi lạc hậu.
4


- Chưa đặt vấn đề CNH gắn liền với quá trình HĐH, thị trường hoá (rất quan trọng), nhằm tạo
điều kiện đồng bộ cho sự phát triển công nghiệp, khoa học, công nghệ, giáo dục... Những hạn chế này
cùng với những tiêu cực do mô hình kinh tế hiện vật, cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã mang lại
những hiệu quả xấu đối với kinh tế đất nước, dẫn đến một cuộc khủng hoảng trầm trọng kéo dài về

kinh tế, xã hội trong hai thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ XX.
II. ĐỔI MỚI, ĐIỀU CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CNH (1986 - NAY)
1. Đổi mới đường lối CNH và bổ sung, điều chỉnh đường lối


Bước 1: Đổi mới đường lối CNH trong những năm 1986-1994
- Đại hội VI chưa bàn sâu về chính sách CNH, nhưng đã đưa ra một số quan điểm mang tính
chất đổi mới:
+ (1). Mục tiêu CNH: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế (phát triển cân đối và
nhịp độ tăng trưởng ổn định).
+ (2). Bước đi của CNH:
Sắp xếp nền kinh tế theo một cơ cấu hợp lý, trước tiên là điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế trong chặng đường đầu tiên là nông – công nghiệp dịch vụ.
(Đây là thay đổi căn bản về bước đi của CNH XHCN. Chuyển trọng tâm từ phát triển công
nghiệp nặng sang thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Đây thực chất là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng giải kết cấu kinh tế lấy công
nghiệp nặng làm trọng tâm – cơ cấu mới khác với cơ cấu công – nông nghiệp trước đây).
(Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu phù hợp với: Quy luật về phát triển các ngành sản xuất vật
chất; điều kiện thực tiễn và khả năng của đất nước; phân công lao động và hợp tác quốc tế).
+ (3). Tốc độ của CNH: Trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, chưa thể đẩy mạnh CNH, mà
chỉ tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo (đây là thay đổi căn bản về tốc độ
của CNH XHCN.)
+ (4). Phương thức tiến hành CNH:
Phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, coi trọng tính khả thi và tính hiệu quả của các chương trình
CNH (tránh tình trạng trước đây thường không tính đến nhu cầu thực tế của nền kinh tế và hiệu quả
kinh doanh).
Quá trình CNH phải được tiến hành từng bước, phù hợp với trình độ LLSX trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, thực hiện “bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn”.
CNH được tiến hành trong nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu, gắn với nền
kinh tế mở (đây là bước phát triển tư duy quan trọng nhất).

- Đại hội VII (1991):
+ “Phát triển LLSX, CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với việc phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm”.

5


+ Tiến hành CNH theo định hướng mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực (bước nhận
thức quan trọng).
+ Điểm then chốt ở đây là bước đầu nhấn mạnh CNH theo hướng hiện đại. Đây là điểm rất quan trọng
trong tư duy về CNH của Đảng, là bước ngoặt trong tư duy phát triển, làm cơ sở cho việc thay đổi mô
hình phát triển.


Bước 2: Bổ sung đường lối CNH trong những năm 1994- 2001
- Hội nghị Trung ương 7 (khóa VII, 7 – 1994) ra Nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ:
+ Bổ sung thêm: CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến lao động kỹ thuật cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên cơ sở phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao.
+ Hội nghị cũng đưa ra khái niệm: CNH, HĐH, coi đây là khái niệm kép, trong đó CNH và HĐH có
mối quan hệ mật thiết với nhau, định vị CNH trên cơ sở HĐH, hay CNH hiện đại.
+ Xác định: CNH là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, với nội
dung trọng yếu là CNH nông nghiệp, tiến hành trên cơ sở nền kinh tế thị trường, của nền kinh tế mở và
trên nền tảng khoa học – công nghệ hiện đại, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại;
đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định.
- Đại hội VIII (1996):
+ Từ năm 1986 đến năm 1996, đất nước ta đã trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng
với 2 kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm. Trong 10 năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam
đã phát huy cao độ nội lực của dân tộc, kiên trì mục tiêu CMXHCN và tuy còn một số mặt yếu kém,

chưa vững chắc, song nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đất nước đã có điều kiện để
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Đại hội VIII của Đảng được coi là đại hội của CNH, HĐH
đất nước
+ Về căn bản, nhất trí với quan điểm về CNH của HNTƯ 7, xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo quá
trình CNH, HĐH ở nước ta, coi CNH, HĐH là một bộ phận của đường lối phát triển kinh tế, là nội
dung vật chất của quá trình phát triển kinh tế, được thực hiện theo mô hình phát triển kinh tế của Việt
Nam – mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ CNH là quá trình HĐH, có thể và cần phải bằng con đường rút ngắn, chuyển nền kinh tế chậm phát
triển sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại, tạo cơ sở cho tăng trưởng cao, lâu bền của nền kinh tế
(điểm nhấn quan trọng).


Bước 3: Điều chỉnh đường lối CNH từ năm 2001- nay
- Đại hội IX (2001) bổ sung thêm về con đường CNH rút ngắn, về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
và yêu cầu phát triển bền vững:
+ Tư duy mới của Đại hội lần thứ IX là cách đặt vấn đề về con đường CNH, HĐH rút ngắn. Trong điều
kiện hiện nay, chúng ta có thể phát huy những lợi thế của đất nước, gắn CNH với HĐH trong từng
bước, tiếp cận với nền kinh tế tri thức, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa
học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
người Việt Nam.
6


+ Phương hướng thực hiện CNH, HĐH ở nước ta: Phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các
ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
+ CNH, HĐH phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập và tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm
nông nghiệp.
- Đại hội X (2006) có một bước tiến mới:
+ Xác định CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, “coi kinh tế tri thức là yếu tố quan

trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH” (đây mới chỉ là “mốt” thời thượng. Hình thức là một bước tiến.
Nhưng nếu không hiểu sẽ không tạo ra những chuyển biến thực tiễn).
2. Tổng quát về nội dung cơ bản của đường lối CNH, HĐH thời kỳ đổi mới


Mục tiêu CNH
- Cốt lõi của CNH là phát triển LLSX để đạt tới trình độ hiện đại.
- Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện, diễn ra trong các tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi
nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về
lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu đến năm 2020 của quá trình
CNH, HĐH là nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, còn mục tiêu
sâu xa là trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.


Quan điểm CNH
- (1). CNH gắn với HĐH và CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
+ Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, phải thực
hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. CNH gắn với HĐH là cách làm
đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực,
hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới
+ Xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức
đối với đất nước, cho nên quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần
được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên
cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá
trình CNH, HĐH.
+ CNH, HĐH ở nước ta gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực
hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn”. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình
CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức.
+ Nước ta thực hiện CNH, HĐH khi trên thế giới kinh tế tri thức đã hình thành và đang phát triển. Đó

là lợi thế của các nước đi sau, song đi cùng với nó là thách thức, bởi tạo lập điều kiện cho kinh tế tri
thức hình thành đòi hỏi những nỗ lực to lớn (kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
chất lượng cuộc sống).
- (2). CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
7


+ CNH, HĐH không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. CNH, HĐH gắn với kinh tế thị trường giúp khai thác có
hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế, sử dụng có hiệu quả.
+ Thực hiện CNH thay thế nhập khẩu, hướng tới xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm hướng chính, nhằm thúc
đẩy sản xuất trong nước đạt hiệu quả. Coi thị trường bên ngoài là một động lực đặc biệt quan trọng cho
CNH.
+ Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học
hỏi kinh nghiệm thế giới...
- (3). Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
+ Để tăng trưởng kinh tế cần có 5 yếu tố chủ yếu là: Vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ cấu kinh
tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước thì con người được coi là yếu tố cơ bản quyết định.
+ CNH, HĐN không chỉ đơn thuần là quá trình kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình
phát triển chất lượng nguồn nhân lực theo hướng chuyên nghiệp hóa, chuẩn hóa, trí thức hóa. Lấy việc
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
+ Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh
tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
+ Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người.
+ Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.
+ Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là một nội dung trung tâm của phát
triển bền vững và của quá trình HĐH.
+ Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển con người và hiện đại hóa
khâu giáo dục, đào tạo. Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung

tâm.
- (4). Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của CNH, HĐH.
+ Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất,
nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung.
+ Phát triển khoa học, công nghệ trong quá trình tiến hành CNH, HĐH là yêu cầu tất yếu và bức xúc.
+ Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và
công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước
mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng
nhiều lao động để giải quyết việc làm.
- (5). Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường tự nhiên
và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường sống và hoạt
động kinh tế của con người, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học chính là bảo vệ điều kiện
sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
8


+ CNH, HĐH đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đẩy mạnh CNH, HĐH phải
hướng đến nhu cầu phát triển bền vững cho tương lai.
- (6). Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.


Định hướng CNH
Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của CNH, HĐH ở Việt Nam cần
hướng tới:
- Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững;
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch
vụ;
- Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng, năng xuất các sản phẩm nông

nghiệp.
- Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để HĐH nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có;
- Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ;
- Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
• Một cách tổng quát, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ và tiến hành CNH
phải gắn liền với HĐH, với khoa học - công nghệ, với kinh tế tri thức, thực hiện trong cơ chế thị
trường, là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế mở,
luôn được điều chỉnh phù hợp với xu thế chung. CNH là nội dung vật chất của quá trình thay đổi trong phương
thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế, tuân theo quy luật kinh tế thị trường. HĐH và rút ngắn là thực chất của CNH
trong điều kiện phát triển hiện đại và toàn cầu hóa. Đây là quá trình chuyển từ CNH cổ điển sang CNH hiện đại.


Tiểu kết
(1)- Như vậy, đường lối CNH của Đảng ta trước đây và hiện nay đều nhất quán xác định vị trí, mục tiêu
và định hướng phát triển:
+ Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí trung tâm của CNH suốt thời kỳ quá độ. Nói trung tâm có nghĩa là mọi
nhiệm vụ đều phải tập trung phục vụ cho nhiệm vụ CNH và ngược lại, mỗi bước tiến của CNH lại thúc
đẩy và tạo điều kiện cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác.
+ Mục tiêu của CNH vẫn là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, có LLSX phát triển với
năng suất lao động cao, có QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, kết hợp chặt
chẽ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá với công bằng xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh quốc
gia.
+ Định hướng phát triển của sự nghiệp CNH trước sau không thay đổi, vẫn kiên trì định hướng XHCN
nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
(2) - Tuy vị trí, mục tiêu và định hướng phát triển CNH về cơ bản giống nhau; nhưng phương châm chiến
lược, phương thức tiến hành và hình thức, bước đi được xác định lại không giống nhau.
+ Trước đây, Đảng ta hiểu quá trình CNH là chuyển lao động thủ công lên lao động cơ giới hoá, chuyển
tỷ trọng từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp. Do vậy, có lúc ta hiểu điện khí hoá đồng nghĩa với
CNH.
9



+ CNH gắn liền với HĐH nhằm thích ứng nhanh chóng với quy trình phát triển nhanh chóng của khoa
học công nghệ thế giới vài thập kỷ gần đây và những thập kỷ tới.
Ngày nay, không thể tiến hành CNH, HĐH theo sơ đồ truyền thống, vì không có hiệu quả và khi làm
xong sẽ trở thành lạc hậu so với thế giới. Nếu biết cách làm, biết thích nghi với môi trường công nghệ
mới thì con đường CNH sẽ rút ngắn và đỡ gian khổ hơn so với các nước đã phải trải qua trước đây.
+ CNH trước đây được tiến hành theo cơ chế cũ, tập trung bao cấp. Ngày nay việc thực hiện CNH,
HĐH theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chủ yếu.
+ CNH trước đây thường được hiểu là việc của Nhà nước thông qua khu vực quốc doanh và tập
thể nay là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước là chủ
đạo.
+ CNH XHCN trước đây tiến hành trong điều kiện có hệ thống XHCN thế giới giúp đỡ. Nay trong bối
cảnh quốc tế và khu vực đã khác trước, Đảng ta đề ra quan điểm xây dựng hệ thống kinh tế mở trên cơ
sở giao lưu thông suốt trên thị trường trong nước và hội nhập với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ
vững độc lập, chủ quyền, thúc đẩy các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết nhằm thu hút vốn, công
nghệ tiên tiến và kinh nghiệp quản lý của các nước khác theo nguyên tắc: Nội lực là chủ yếu, ngoại lực
là quan trọng để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong thời đại hiện nay, không có một nước
nào có thể đáp ứng được mọi nhu cầu trong nước mà lại không biết tận dụng lợi thế của mình, qua xuất
khẩu, thu hút đầu tư và công nghệ để phát triển đất nước.
(3)- CNH, HĐH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu:
+ Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa
là nó diễn ra trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các
bước đi tuần tự và các bước đi nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều
sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu
của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là nước ta trở thành một
nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
+ Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ,
nước ta không thể chờ thực hiện xong CNH rồi mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và

đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể, riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận
quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: (1). Đó là quá trình xây dựng nền công nghiệp hiện đại,
cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất - kỹ thuật (LLSX) của nền kinh tế; (2). Đó là quá trình cải
cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh
tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong
khu vực, hội nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
+ Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở
đây là đòi hỏi khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh
mới trong nước cũng như trên thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH.
Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: (1). Đạt và
duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc để đuổi kịp); (2). Lựa
chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là bắt buộc theo
kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn
10


con đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể
thống nhất với nhau, và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh
CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri
thức. Trong thời gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai
chiều giữa CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh
dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ
CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện cho việc thực hiện mô hình
CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá trình
CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH,
HĐH ở nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông
nghiệp và các ngành kinh tế hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa

vào tri thức, vào khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh
tế tri thức.
Câu 3. Đường lối đấu tranh giành chính quyền
1. Bối cảnh ra đời đường lối


Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
- Ngày 1-9-1939, phát-xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lợi dụng
tình hình chiến tranh, Chính phủ Pháp thi hành hàng loạt các biện pháp thẳng tay đàn áp các lực lượng
dân chủ trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp bị tan vỡ, ĐCS Pháp
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
- Ở Việt Nam, bộ máy đàn áp được tăng cường. Chúng thủ tiêu những gì mà nhân dân ta giành
được trong thời gian trước.
- Pháp tiến hành cải tổ bộ máy cai trị, tăng cường lực lượng cảnh sát, mật thám, phát-xít hoá bộ
máy cai trị, đàn áp phong trào cách mạng.
- Lợi dụng sự thất thủ và đầu hàng của các đế quốc có thuộc địa ở châu Á, phát-xít Nhật nhanh
chóng cướp lấy thuộc địa. Ngày 22-9-1940, Nhật Bản cho quân vượt biên giới Việt-Trung đánh vào
Lạng Sơn chính thức xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông
Dương cho Nhật. Từ đó, nhân dân Việt Nam sống rên xiết dưới ách áp bức Nhật-Pháp.


Chính sách cai trị thời chiến của Nhật – Pháp ở Đông Dương
- Sau khi chiếm Đông Dương, quân phiệt Nhật không lật đổ bộ máy thực dân Pháp, mà sử dụng nó như
một công cụ thực hiện ý đồ của chúng, dựng nên Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
- Quân Nhật cướp ruộng đất của nông dân, nhổ lúa để trồng đay và thầu dầu phục vụ nhu cầu chiến
tranh.
- Phát-xít Nhật và thực dân Pháp thực thi ở Đông Dương một nền kinh tế độc quyền phục vụ chiến
tranh.
- Trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng: Pháp thực hiện nhiều biện pháp tuyên truyền lừa bịp, phản động,
một mặt, chống lại ảnh hưởng của Nhật, mặt khác, ngăn chặn phong trào yêu nước của nhân dân ta.

Còn phát xít Nhật ra sức tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”, mở trường dạy tiếng Nhật, lập viện
văn hoá, đặt các cơ quan thông tin, du lịch, tổ chức trao đổi các đoàn văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giáo
giữa Nhật và Việt Nam, nắm một số tờ báo tay sai, làm công cụ tuyên truyền, đề cao chúng.
2. Xác định, hoàn thiện đường lối
11


Đường lối CMGPDT được đưa ra tại Hội nghị Trung ương 6 (11-1939), Hội nghị Trung ương
7 (11-1940) tiếp tục bổ sung đường lối, Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) hoàn thiện đường lối:
- Hội nghị Trung ương 6: Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con
đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng
hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập, ''phải thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là
đánh đổ đế quốc'' và công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên.
- Hội nghị Trung ương 7: Cách mạng phản đế - CMGPDT cao hơn hết và một cao trào cách
mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng, lãnh đạo cho các dân
tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập. Trong lúc này kẻ thù
chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp, Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ.
- Hội nghị Trung ương 8 phân tích, đánh giá phong trào cách mạng đã và đang diễn ra sôi nổi
trên cả nước, đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa trong hai năm 1940-1941, nhận định: Mặc dù sự đàn áp
của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây một ảnh hưởng rộng
lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu
bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương.
Tóm lại, các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8 đã đưa ra một hệ thống các quan điểm, chủ trương
của Đảng trên những vấn đề chủ yếu sau đây:
(1)- Nêu cao nhiệm vụ GPDT, đặt nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu:
Chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu vì đế quốc Pháp, Nhật là kẻ thù chủ yếu. Nhiệm vụ chống
phong kiến đặt ra thực hiện từng bước và phải đặt dưới nhiệm vụ GPDT. Điều đó là đúng đắn, phù hợp
với diễn biến chung của tình thế, phù hợp với nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc. Lúc này, tạm
thời chưa giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, song nông dân vẫn không giảm bớt sự hăng hái
tranh đấu mà vẫn nỗ lực tranh đấu mạnh hơn vì trong cuộc tranh đấu GPDT họ cũng được hưởng nhiều

quyền lợi to tát.
(2)- Về vấn đề lực lượng:
+ Để đoàn kết và huy động được sức mạnh của toàn dân thực hiện mục tiêu GPDT, Hội nghị
Trung ương 6 chủ trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và vững chắc. Đó là Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (11- 1939) thay cho Mặt trận dân chủ trước đó. Hội nghị
Trung ương 7 thành lập Mặt trận dân tộc chống phát – xít; tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương quyết
định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh).
(3)- Về phương pháp cách mạng:
+ Từ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu quốc quân, của đội du kích
ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, các Hội nghị đã khẳng định vấn đề khởi nghĩa vũ trang: Cuộc cách mạng Đông
Dương phải tiến hành bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang. Các Hội nghị cũng chỉ ra những điều kiện
khách quan, chủ quan để khởi nghĩa bằng vũ trang và dự liệu những bước đi để thúc đẩy những điều
kiện đó phát triển chín muồi; đồng thời khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần
trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
(4)- Phân tích tình thế cách mạng, chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách
mạng:
12


+ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 và tháng 11- 1940 đã đề cập tới tình thế và thời cơ để
cách mạng tiến lên giành thắng lợi.
+ Đặc biệt Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 đã dự báo Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc
phản công, quân Nhật đang mắc sự phản công của Anh - Mỹ và đặt ra yêu cầu cần thiết và cấp bách
cho sự chuẩn bị điều kiện chuyển biến cuộc cách mạng phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Tình hình thế
giới sẽ biến chuyển ghê gớm làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng. Ta phải
luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù.
+ Sau Hội nghị Trung ương 8, Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục theo sát sự phát triển của tình hình
thế giới và trong nước để dự liệu thời cơ cách mạng.
(5)- Vấn đề chính quyền và hình thức tổ chức nhà nước
+ Khi xác định cuộc cách mạng là CMGPDT nghĩa là phải giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc

thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn đề hình thức tổ chức nhà nước phải xây dựng khi
giành được độc lập.
+ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu lập “Chính phủ Xô- viết
công nông binh'' là hình thức chính phủ riêng của dân chúng lao động, mà lựa chọn hình thức “Chính
phủ cộng hoà dân chủ”, là hình thức chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và
trong phong trào GPDT. Đó là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam.
Chương trình Việt Minh tiếp tục xác định rõ hơn về hình thức nhà nước. Đó là Nhà nước “cộng hoà
dân chủ” - Nhà nước cách mạng của dân, do dân, vì dân và do ĐCS lãnh đạo.
• Như vậy, bước vào cao trào GPDT những năm 1939 - 1945, Đảng và Hồ Chí Minh xác định
cách mạng nước ta chưa phải là cách mạng tư sản dân quyền với nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, cũng chưa phải là cách mạng XHCN mà là cách mạng giải phóng dân tộc giành
cho được độc lập hoàn toàn, rồi từng bước thực hiện mục tiêu ruộng đất, mở đường tiến dần lên
CNXH. Đó là quy luật vận động, phát triển của cách mạng nước ta và khẳng định sự đúng đắn, tính
triệt để của CMGPDT do ĐCS lãnh đạo.
- Những nội dung đường lối CMGPDT mà các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8 xác định là một hệ
thống toàn diện, đồng bộ những vấn đề chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng, chủ động về
nắm bắt tình thế và thời cơ cách mạng. Điều cần đặc biệt nhấn mạnh là Đảng và Hồ Chí Minh đã làm
rõ sự thống nhất trong mục tiêu giành độc lập cho dân tộc và giành chính quyền về tay nhân dân để đi
đến sự lựa chọn hình thức chính quyền nhà nước thích hợp.


Tiểu kết
- Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai và căn cứ vào
tình hình cụ thể ở trong nước, qua ba Hội nghị Trung ương, Đảng đã giải quyết những vấn đề:
+ Quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ
Nhiệm vụ hàng đầu là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc; tính chất của cuộc
cách mạng là giải phóng dân tộc; kẻ thù nguy hiểm, cụ thể của cách mạng Đông Dương là bọn đế quốc,
tay sai.
+ Về lực lượng cách mạng
Đoàn kết rộng rãi lực lượng của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giải phóng. Để thực hiện

nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc rộng rãi chống đế quốc, lấy
13


liên minh công nông làm cơ sở. Đỉnh cao của hình thức tập hợp lực lượng là Mặt trận Việt Minh, đồng
thời thành lập các đoàn thể cứu quốc.
+ Về phương pháp cách mạng
Xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai
đoạn hiện tại. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng quân sự, xây dựng căn cứ địa cách mạng, xúc tiến chuẩn
bị khởi nghĩa vũ trang. Dự kiến con đường giành chính quyền ở Việt Nam là tiến hành khởi nghĩa từng
phần trong từng địa phương, để tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
+ Về vấn đề dân tộc
Đảng chủ trương sau khi giành độc lập, các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương muốn lập
ra chính phủ liên bang hay đứng riêng thành một quốc gia dân tộc tuỳ ý. Đối với Việt Nam, sau khi độc
lập sẽ lập ra chính phủ VNDCCH. Hội nghị Trung ương 8 đã phát huy sức mạnh của mỗi dân tộc, coi
giải phóng dân tộc là sự nghiệp riêng của mỗi dân tộc.
+ Các vấn đề khác: Bên cạnh đó, BCH Trung ương còn đặc biệt chú trọng tới công tác phân
tích, dự báo tình hình, vấn đề chính quyền – nhà nước, vấn đề xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực
tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đồng thời chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, cán bộ lãnh đạo, cán bộ
công vận, nông vận, binh vận, quân sự và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng.
Câu 4. Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước (ĐH III)
1. Bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 50 (XX), hệ thống xã
hội chủ nghĩa được thành lập, nối liền từ châu Âu sang châu Á và ngày càng lớn mạnh, trở thành hệ
thống thế giới.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành chỗ dựa cho cách mạng Việt Nam.
Song vào những năm cuối thập kỷ 50 (XX), giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện
những bất đồng nghiêm trọng về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, về vị thế và
ảnh hưởng quốc tế, về lợi ích dân tộc... trong đó đặc biệt là mâu thuẫn giữa Liên Xô - Trung Quốc. Hệ

thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu có sự rạn nứt, dẫn đến sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Lợi dụng tình thế này, các lực lượng phản cách mạng trên thế giới, đứng đầu là đế quốc
Mỹ tìm cách khoét sâu mâu thuẫn, chia rẽ, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa và giảm thiểu sự
đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam,
gây ra không ít khó khăn cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Sau năm 1945, thắng lợi của các lực lượng chống phát xít đã mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp giải
phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, nhất là những nước trong khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ
latinh. Ở những mức độ khác nhau, các nước này đã và đang đứng lên giành độc lập, tự do như Triều Tiên, Việt
Nam, Inđônêsia, Philippin. Miến Điện... Đặc biệt, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tạo nên
sự thay đổi mới trong cán cân lực lượng trên vũ đài quốc tế. Sự gia nhập của Trung Hoa vào hệ thống xã hội chủ
nghĩa đã làm cho so sánh lực lượng trở nên có lợi cho cách mạng, đồng thời tấn công trực diện vào hệ thống chủ
nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Bên cạnh đó, thắng lợi của cách mạng Việt Nam làm cho cuộc đấu tranh của
các dân tộc Đông Dương như được tiếp thêm sức mạnh. Sự đoàn kết gắn bó giữa ba nước Đông Dương Việt
Nam - Lào - Campuchia càng thêm chặt chẽ, nhằm đối phó với những âm mưu, thủ đoạn xâm lược kiểu mới của
đế quốc Mỹ. Từ nửa cuối những năm 50 (thế kỷ XX), phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở
châu Phi, châu Mỹ Latinh, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc
14


lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, tại Băng-đung (Inđônêxia), 29 nước ÁPhi đã họp và ra Bản tuyên bố gồm 10 nguyên tắc hoà bình, trung lập. Đó là một đóng góp quan trọng vào
phong trào chống chủ nghĩa thực dân, củng cố nền độc lập của các nước Á-Phi và bảo vệ hoà bình thế giới. Sau
Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão. Năm 1956, ở châu Phi, 3 nước Bắc
Phi - Tuynidi, Marốc, Xu đăng giành độc lập. Tháng 3-1957, nước Cộng hoà Gana ra đời, mở đầu thời kỳ vùng
dậy của các nước Tây Phi. Đến năm 1960, đã có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập và năm 1960 đi vào lịch sử
với tên gọi “Năm châu Phi”. Bằng việc công nhận nền độc lập của hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ latinh, các
nước đế quốc phương Tây bắt buộc phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Nhìn
chung, thời kỳ này cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Đó là nhân tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, một số nước khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng chính trị - xã hội khác,
thậm chí ở nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân phương Tây. Trước

thực tiễn đó, Nhà nước Việt Nam vừa ủng hộ chính sách hoà bình, trung lập để tập hợp lực lượng tiến bộ thế
giới, vừa tranh thủ vận động các lực lượng khác nhau cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Chính sách tăng cường
đoàn kết với các nước Á - Phi đấu tranh vì độc lập, dân tộc của Đảng đã từng bước tranh thủ được sự đồng
tình, ủng hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới tư
bản. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ có tham vọng bá chủ toàn cầu. Ngày 6-4-1946, Tổng thống Truman
tuyên bố: “Ngày nay, Hoa Kỳ là quốc gia mạnh, nghĩa là với một sức mạnh như thế, chúng ta có nghĩa vụ
nắm quyền lãnh đạo thế giới”1. Để thực hiện tham vọng, Mỹ thực thi “Học thuyết Truman”, “Kế hoạch
Macsan”, phát động và đẩy mạnh Chiến tranh lạnh, hòng bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, giành
giật các thuộc địa và áp đặt các nước đế quốc khác trong quỹ đạo của Mỹ.
Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân ta với đỉnh cao thắng là chiến
thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp
định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt
Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc
lập của nhân dân ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển
mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời
bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng và sau khi quân đội Pháp rút đi, nhân dân ta phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục kinh tế, bảo đảm đời sống, củng cố, xây dựng miền Bắc. Trước mắt, miền Bắc phải đối mặt với
những khó khăn chồng chất - hậu quả của gần một thế kỷ thuộc địa và hơn chín năm chiến tranh. 90%
dân số miền Bắc vốn sống bằng nghề nông, nhưng nền sản xuất nông nghiệp manh mún, nghèo nàn, kỹ
thuật canh tác lạc hậu, đời sống người nông dân còn thiếu thốn mọi bề. Nông nghiệp - ngành kinh tế
chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng: 1.430.000 ha đất bị bỏ hoang, 8 công trình thuỷ nông
lớn và nhiều công trình thuỷ nông vừa và nhỏ bị phá huỷ. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất
rất thấp, kỹ thuật sản xuất thô sơ, thiên tai liên tiếp. Nông thôn xơ xác, tiêu điều vì địch càn quét, đốt
phá. Hoà bình lập lại, nhưng nạn đói vẫn liên tiếp xảy ra. Tháng 9-1954, miền Bắc có nửa triệu người
chết đói. Nền công nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công nghiệp với thiết bị cũ kỹ, nhiều thứ đã hư
hỏng, những bộ phận còn tốt và các tài liệu kỹ thuật quan trọng đều đã bị thực dân Pháp chuyển vào
Nam. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công - nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt

xuống còn 1,5% khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh đó, tình trạng của tiểu - thủ công nghiệp
1 Đào Huy Ngọc, Lịch sử quan hệ quốc tế (1870 -1964), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, 1996, tr. 119.

15


cũng rất sa sút, không mấy sáng sủa, nhất là không có nguyên liệu sản xuất. Nhiều ngành, nghề thủ
công truyền thống bị mai một hoặc mất hẳn. Hệ thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp.
Tình hình chính trị - xã hội miền Bắc còn nhiều bất ổn. Hoà bình lập lại nhưng tình hình an ninh
còn rất phức tạp do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các lực lượng phản động phá hoại. Trước, trong và
sau ngày đình chiến, địch cưỡng ép di cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo
Thiên chúa, công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kỹ thuật… Địch gài lại hàng ngàn gián
điệp, hàng trăm nhóm phản động, cùng với các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở
kinh tế, các công trình công cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản động lén lút kích động quần
chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng, của
Chính phủ Việt Nam, hòng lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân dân. Ở biên
giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động Pháp, Mỹ, Tưởng tiếp tay, hoạt động phá
hoại. Tại nhiều vùng khác nhau, ngụy quân, ngụy quyền cũ vẫn lén lút hoạt động chống phá chính
quyền cách mạng. Sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo,
dân tộc, giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức tạp hơn vì
kẻ thù kích động. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, xây dựng lại đất nước là sự nghiệp
mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn, trong khi đó, chính quyền cơ sở mới hình thành, chưa được củng
cố, kiện toàn. Trình độ nhận thức và năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, đảng
viên còn nhiều hạn chế. Đây là những khó khăn to lớn mà miền Bắc phải đối mặt trong những ngày
tháng đầu tiên có hòa bình. Bên cạnh những thách thức đã nêu trên, trong bối cảnh, tình hình mới, dù
còn nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi vẫn là căn bản. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng trở thành
hậu phương lớn của cả nước, có quân đội hùng mạnh, chính quyền hùng mạnh, Mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi. Miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng tháng
Tám thành công và kháng chiến thắng lợi. Nhân dân ta có một đảng vững mạnh, có kinh nghiệm lãnh
đạo, với đội ngũ đảng viên, đoàn viên hơn một triệu người, lại được nhân dân tiến bộ thế giới đồng tình

ủng hộ. Thuận lợi đó sẽ được nhân lên thành sức mạnh to lớn để chiến thắng.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Nam Việt Nam trở thành chỗ đứng chân của hai tập đoàn tay sai
thân Pháp và thân Mỹ, là nơi tranh giành ảnh hưởng giữa chúng với nhau. Do phải lệ thuộc ngày càng
nhiều vào Mỹ trong quá trình tiến hành chiến tranh Đông Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn
ở chính nước Pháp, thực dân Pháp đã phải rút dần ra khỏi miền Nam nước ta, chuyển giao quyền lực
cho đế quốc Mỹ- một cuộc chuyển giao quyền lực không êm thấm. Vì thế, ngay khi Hiệp định Giơnevơ
được ký kết, Mỹ tuyên bố công khai không bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hiệp định, can thiệp
sâu, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưa
cơ bản, lâu dài đó, trước mắt, Mỹ tập trung nỗ lực giúp cho Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp nghị
Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam. Như vậy, miền Nam tạm
thời thuộc quyền kiểm soát của Mỹ - Ngụy. Từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng,
chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc,
toàn bộ hoạt động của cách mạng phải chuyển sang phương thức hợp pháp, bất hợp pháp, công khai và
bí mật. Đó là một thay đổi lớn tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam,
trở thành một trong những khó khăn to lớn mà cách mạng ở miền Nam phải đối diện. Đi đôi với quá
trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá
cơ sở cách mạng, khủng bố nhân dân. Có trong tay sức mạnh về kinh tế và quân sự và bộ máy ngụy
quân, ngụy quyền lớn mạnh, kẻ thù thẳng tay đàn áp, khủng bố các phong trào đấu tranh của nhân dân,
tàn sát cán bộ, đảng viên, ráo riết đánh phá các cơ sở cách mạng, gây cho chúng ta nhiều tổn thất nặng
nề. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ chót mũi Cà Mau đến bờ Nam sông Bến
Hải bao trùm không khí trả thù, khủng bố, ruồng ráp căng thẳng. Máu của những đảng viên cộng sản và
16


của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, xóm thôn. Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo,
thâm độc, Mỹ - Diệm mưu toan sẽ nhanh chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục
được nhân dân ta. Sau chín năm ròng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hoà bình. Một lần nữa,
cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng khó vượt qua.
Như vậy, sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi vừa có
những khó khăn, phức tạp. Đặc điểm lớn nhất, chi phối toàn bộ yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng cả

nước là đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam
độc lập thống nhất, dân chủ, hoà bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó còn phải tiếp tục dưới nhiều
hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Cuộc đấu tranh này đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp
cách mạng tiếp tục tiến lên. Tình thế mới của đất nước đòi hỏi sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng phải
tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén, chủ động, linh hoạt và vững vàng, đặc biệt phải nhanh chóng đưa ra được
đường lối chống Mỹ, cứu nước phù hợp, hiệu quả, phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tranh thủ được sự
ủng hộ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc
Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà.
Trong những năm 1954-1959, ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đến khi
phong trào "Đồng khởi" nổ ra và lan rộng mạnh mẽ, Đảng ta đã bám sát tình hình thực tiễn, những diễn
biến, sự vận động nội tại của phong trào cách mạng Việt Nam và trên thế giới, phân tích âm mưu, thủ
đoạn của kẻ thù, phân tích so sánh lực lượng giữa ta - địch, để đưa ra những quyết sách lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong điều kiện vừa có những thuận lợi cơ bản, song cũng có những thách thức, khó
khăn vô cùng to lớn. Trong từng bước đi lên của cách mạng, Đảng đã kịp thời xác định những vấn đề
cơ bản ảnh hưởng đến thành bại của cách mạng, đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chiến
lược và sách lược cho cách mạng cả nước, cũng như cách mạng từng miền. Đó là mục tiêu bất di, bất
dịch thực hiện hòa bình, dân chủ, độc lập, tự do trong cả nước. Trong chiến lược chung ấy, thực hiện
củng cố miền Bắc thành nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà được coi là nhiệm
vụ quan trọng, phải thực hiện đồng thời với nhiệm vụ đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam,
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó đồng thời cũng là những nhận thức quan
trọng được Đảng đúc rút qua quá trình tìm tòi, tổng kết thực tiễn những năm tháng đấu tranh gian khổ
và hy sinh xương máu 1954-1959, trở thành cơ sở để Đảng hoạch định đường lối cứu nước độc lập, tự
chủ, nhằm hoàn thành mục tiêu thiêng liêng của dân tộc: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
thực hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ
Năm 1960, về căn bản, miền Bắc nước ta đã hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến, giải phóng va thực hiện các quyền dân
chủ về ruộng đất cho người nông dân; tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh

(1954-1957), đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hoá (1958-1960). Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh đã hoàn thành. Sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp trên đà phát triển, sự nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Thắng lợi của sự nghiệp củng cố miền Bắc là nguồn động viên to
lớn để nhân dân miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Ở miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết
15 (1-1959), một phong trào "Đồng khởi" mạnh mẽ bùng dậy. Sau thắng lợi của phong trào "Đồng
khởi", đặc biệt là sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của đồng bào
17


miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm ngày càng phát triển. Nhân dân cả nước một
lòng phấn đấu và được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới.
Bước vào Nhà trắng. Tổng thống Đảng Dân chủ G. Kennơdi thay đổi chiến lược toàn cầu từ
“trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”. Đầu những năm 1960, để đối phó với sự phát triển của cách
mạng Việt Nam, Mỹ đưa thêm lực lượng đặc biệt vào Việt Nam, tăng cường viện trợ quân sự. Từ năm
1961, Mỹ đã lập Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự (MACV); ngày 15 -5-1962, Mỹ đưa quân vào Thái Lan.
Số quân của Mỹ ở miền Nam nước ta đã tăng dần từ 3.000 tên vào tháng 12-1960 đến 23.000 vào tháng
12-19642. Dùng lực lượng nguỵ quân với cố vấn và vũ khí hiện đại, Mỹ càn quét, bình định, dồn dân
hòng tiêu diệt Quân giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, trên chiến trường miền Nam, đấu tranh vũ trang
ngày càng phát triển nhanh chóng, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, đẩy đế quốc Mỹ và chế độ tay
sai vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng triền miên.
Trước những chuyển biến của tình hình, đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của ngày càng cao của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng (9-1960) nhóm họp và xác
định nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: "Tăng cường đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước
nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông
- Nam Á và thế giới" 3. Hiện nay, do đế quốc Mỹ xâm chiếm miền Nam, nước ta đang tạm thời bị chia
làm hai miền. Miền Bắc hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,

đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam còn đang bị chủ nghĩa đế quốc và
thế lực phong kiến thống trị. Tình hình ấy đã hình thành ở nước ta hai khu vực có chế độ chính trị và
xã hội khác nhau; đồng thời, cũng quy định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có hai
nhiệm vụ thuộc hai chiến lược khác nhau: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc;
hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Một vấn đề mang tính nguyên tắc được Đại hội III chỉ rõ là muốn bảo đảm cho cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta đi tới đích cuối cùng, giành được thắng lợi hoàn toàn, "chúng ta
phải nhận rõ bản chất của nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền"4. Đại hội III giải thích: Đưa miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội chính là đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội miền Bắc trên bước đường
phát triển, đồng thời cũng đáp ứng nguyện vọng thiết tha của bản thân giai cấp công nhân và nhân
dân lao động miền Bắc. Hơn nữa, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là yêu cầu
cấp bách của xu thế phát triển cách mạng ở miền Bắc, mà còn là yêu cầu cấp bách của phong trào
cách mạng trong cả nước. Chỉ có đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội thì mới có thể củng cố và
phát triển những thắng lợi cách mạng đã giành được, làm cho miền Bắc vững mạnh về mọi mặt, trở
thành nền tảng, gốc rễ, căn cứ địa cách mạng của cả nước, thành hậu phương vững chắc của cách mạng
miền Nam. Miền Bắc còn là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta thực hành, mở rộng quan hệ đối ngoại,
nhằm tranh thủ rộng rãi sự đoàn kết, đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra, miền Bắc với chế độ
xã hội ưu việt với một nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá dân tộc và hiện đại, một nền an ninh quốc phòng không ngừng lớn mạnh là niềm cổ vũ mạnh mẽ đồng bào ta ở miền Nam, là sức mạnh tập
2 Quan hệ Việt- Xô trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tài liệu lưu tại Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính
trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 17.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 505.

18


hợp tất cả những người yêu nước, tiến bộ vì một tương lai tươi sáng của dân tộc, tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. "Phương châm của chúng ta
trong khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là: Xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền

Nam"5. Còn tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam tức là giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản tồn tại
trong xã hội miền Nam. Đó là mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với bọn đế quốc xâm lược, trước
hết là đế quốc Mỹ, cùng bè lũ tay và mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến. Những mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt, bởi vì chính quyền độc
tài phát xít miền Nam dưới sự bảo trợ của đế quốc Mỹ đang hàng ngày, hàng giờ áp bức, bóc lột, khủng
bố, tàn sát nhân dân miền Nam. Để bảo vệ sinh mạng và quyền lợi thiết thân của mình, nhân dân
miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường đánh đổ chế độ độc tài phát xít của Mỹ –
Diệm, hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, góp phần xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Không chỉ cần hiểu rõ, nắm vững bản chất nhiệm vụ cách mạng từng miền để có biện pháp,
cách thức thực hiện đúng đắn, hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng, vấn đề "đồng thời phải nắm vững
quan hệ giữa hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền trong quá trình phát triển của cách mạng"6 là hết
sức cần thiết. Bởi vì, trong điều kiện hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc
hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn
cảnh nước nhà tạm bị chia cắt làm hai, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một
mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung
của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng, thì việc xác
định đúng đắn vị trí và trách nhiệm của cách mạng mỗi miền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi cách
mạng mỗi miền, cũng như thắng lợi cách mạng chung cả nước. Chỉ có xác định đúng đắn vị trí cách
mạng mỗi miền, chúng ta mới có một quan điểm toàn diện về nội dung và nhiệm vụ của cách mạng
nước ta trong giai đoạn hiện nay, mới có chủ trương, phương châm, kế hoạch, biện pháp đúng
đắn để tiến hành thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn
đề, Đại hội III chỉ rõ rằng, hai nhiệm vụ này có mối "quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau,
thúc đẩy nhau cùng phát triển"7. Về vai trò, vị trí của mỗi nhiệm vụ chiến lược, Đại hội III khẳng định:
"Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta và sự nghiệp thống nhất nước nhà"8, còn cách mạng miền
Nam có "tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước"9.
Đại hội cũng xác định cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta là một quá

trình đấu tranh cách mạng gay go, lâu dài, gian khổ, phức tạp và là cuộc đấu tranh chính nghĩa,
"là một bộ phận tích cực của phong trào quốc tế đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc và
hòa bình thế giới. Cuộc đấu tranh ấy, một mặt được phong trào chung trên thế giới cổ vũ và giúp
đỡ, mặt khác, cũng góp phần thúc đẩy phong trào chung"10, vì thế, chính sách đối ngoại của Đảng và
5 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 507.
6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 505.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 512.
9 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 511.
10 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Sđd, tr. 611-612.

19


Nhà nước ta là tăng cường đoàn kết quốc tế, tranh thủ mọi sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, dân
chủ, tiến bộ trên thế giới cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần tích cực đấu tranh bảo vệ
và củng cố hòa bình thế giới.
Một cách tổng quát, Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng là một sự kiện chính trị quan trọng,
là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước
nhà. Đại diện cho ý chí của toàn Đảng, toàn dân, Đại hội đã phân tích đặc điểm, tình hình và yêu cầu
cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ. Đường lối kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực
hiện thắng lợi đường lối và những nhiệm vụ cách mạng do Đại hội thông qua là trách nhiệm, yêu cầu
sống còn trong giai đoạn cách mạng mới; đồng thời cũng là hoàn thành nhiệm vụ xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, Chính phủ và nhân dân ta đã làm hết sức mình để
đạt được mục tiêu độc lập, hoà bình, thống nhất mà không xảy ra chiến tranh. Song, đế quốc Mỹ và tập
đoàn tay sai Mỹ ở miền Nam cũng đã bằng mọi biện pháp chống lại sự nghiệp giải phóng miền Nam,
hoà bình thống nhất đất nước. Đế quốc Mỹ đã thông qua bộ máy chính quyền tay sai ở miền Nam, dùng
mọi biện pháp, thủ đoạn nham hiểm, để lật đổ, đàn áp, gây chiến tranh một phía, từ giấu mặt đến công

khai gây chiến tranh chống lại nhân dân Việt Nam. Chính quyền tay sai ở miền Nam được Mỹ nuôi
dưỡng, hỗ trợ, ngang nhiên hô hào “lấp sông Bến Hải”, “Bắc tiến”. Như vậy, nhân dân Việt Nam trước
sau như một muốn sống trong hoà bình để xây dựng đất nước, nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn đã dùng chiến tranh để chống lại nguyện vọng độc lập, hoà bình, thống nhất Tổ quốc của cả dân
tộc, đánh phá dã man phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam. Nhân dân Việt Nam
không có con đường nào khác ngoài con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực chống đế quốc Mỹ
xâm lược và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, đồng thời
góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu cách mạng của thời đại. Việc đế quốc Mỹ chọn Việt
Nam - một địa bàn chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương làm nơi áp dụng chiến lược toàn cầu “phản
ứng linh hoạt”, chống chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới, gây chiến tranh quy mô lớn
đã thách thức ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của nhân dân ta. Trong điều kiện đó, đường
lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được xác định tại Đại hội III của Đảng thể hiện quyết tâm đánh
Mỹ và thắng Mỹ, phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta kiên trì
thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Câu 5. Đường lối ĐN Hội nhập
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHỦ TRƯƠNG VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
ĐẢNG TA VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của việc mở
rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trào lưu phát triển chung của
thế giới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại, coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của
mình. Cũng chính vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta
trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã luôn giành được sự đồng tình, ủng hộ, sự giúp đỡ rộng rãi của
nhân dân tiến bộ trên thế giới.
20


Tư tưởng mở cửa đối ngoại, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới của Đảng đã được thể hiện
rõ nét trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí

Minh, trong Thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc (12/1946), đã long trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn
sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người khẳng định:
“Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất
cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc
buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo
của Liên hợp quốc”[1]. Đây là những tư tưởng quan trọng đặt cơ sở cho sự hình thành chủ trương, đường
lối hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung của nước ta sau này. Song, trong
hoàn cảnh của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam đã không thể thực hiện một cách đầy đủ
công cuộc hội nhập quốc tế theo những tư tưởng nêu trên.
Sau khi thống nhất đất nước, Đại hội IV của Đảng ta (1976) đã nhấn mạnh vai trò quan trọng
của kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội khẳng định phải kết hợp phát
triển kinh tế trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Theo đó,Việt Nam đã tích cực
phát triển quan hệ và tham gia vào các cơ chế hợp tác của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong
khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế. Sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế với các nước XHCN
mặc dù còn mang nặng tính bao cấp nhưng đã góp phần rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam cũng từng bước cải thiện quan hệ hợp tác
kinh tế với nhiều nước tư bản chủ nghĩa(TBCN) dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tuy
nhiên, quá trình hợp tác quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh do chịu sự chi phối của
cuộc đối đầu Đông - Tây, đặc biệt là nhân tố ý thức hệ tư tưởng, nên còn những hạn chế nhất định,
chưa đạt tới hiệu quả như mong muốn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng vượt ra khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực thù
địch, đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, trước hết trong lĩnh vực kinh tế ngày
càng được bổ sung, hoàn thiện, đồng thời được thực hiện tích cực hơn.
Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội nhập quốc tế của
Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và
Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan
hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ
chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết Đại

hội cũng xác định nội dung chính của chính sách kinh tế đối ngoại trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất
nhập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài... Theo
hướng này, Luật Đầu tư nước ngoài được thông qua (1987), tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi để mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế, phục vụ phát triển kinh tế, khai thác những tiềm năng nội lực của
đất nước.
Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, mở ra bước
đột phá trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế
quốc tế là: “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ
vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”[2].

21


Chủ trương hội nhập quốc tế trước hết về kinh tế của Đảng tiếp tục được Ban Chấp hành Trung
ương và Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Ba
(khoá VII) ngày 29/6/1992 nhấn mạnh chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó
“cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp
tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình Dương”. Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 1005
CV/VPTW (22/11/1994) giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Theo Quyết
định của Bộ Chính trị (số 493 CV/VPTW ngày 14/6/1996), Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn
APEC.
Đại hội VIII của Đảng (1996) trong khi nêu rõ đường lối đối ngoại: “Việt Nam muốn là
bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”đã đưa
ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội nhấn mạnh phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp đó, Bộ Chính
trị ra Nghị quyết số 01/NQ-TƯ (18/11/1996,) “Về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5

năm 1996 - 2000”, xác định nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu để phát
triển kinh tế đối ngoại.
Bước vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển"[3].
Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, không chỉ "sẵn sàng là bạn" mà còn sẵn sàng “là đối tác tin
cậy của các nước" và "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đây là sự phản ánh một nấc thang cao hơn
trong nhận thức và tư duy về đối ngoại nói chung và về hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng trong thời
kỳ đổi mới. Nhằm cụ thể hoá đường lối “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết 07-NQ/TW (27/11/2001) về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ thể của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.
Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại Đại hội X của Đảng (4/2006).
Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu,
ổn định, bền vững, Đại hội khẳng định quan điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội nêu 5
bài học lớn, trong đó bài học thứ 3 là bài học về hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ. Theo đó, hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình với
bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội nhập quốc tế
với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của
đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, là đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”[4]. Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế” được Đại hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là sự chủ
động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác, mà là sự tích cực mở rộng hội
22



nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh...
Bước phát triển này trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp thiết
đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới. Trong quá trình hội nhập cần phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đó là quá trình vừa hợp
tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn
khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp,
thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc
phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước[5].
2. Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội nhập quốc tế
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ tối đa các
nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết 07 của BộChính trị nêu rõ mục tiêu:
“mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Quá trình hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông
qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm là
bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm
khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ
động lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập,
xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho
phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập. đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự
kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên
tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của hội nhập quốc

tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng. Theo đó, trong
hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội (CNXH), đồng
thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam
có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa
kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với việc xử lý các vấn đề quốc tế củanước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ
đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa phương nhưng có
nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích dân tộc cao nhất, đó là độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước và phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
23


Trong hội nhập quốc tế về kinh tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạo, bao gồm[(6)]:
Một là: Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có
nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính
hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư
tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Bốn là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý,
vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng những quy định của các tổ chức kinh tế
quốc tế mà nước ta tham gia.

Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh,
quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những âm mưu thông qua
hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình đối với nước ta.
Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và đa phương với
các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, các phong trào chính trị-xã hội... nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và
nâng cao vị thế quốc tế của nước ta. Việt Nam. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta
chú trọng những hướng hoạt động đối ngoại như: Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các
nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước châu Á Thái Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược. Củng cố
quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên
thế giới; từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị,
an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc. Thực hiện tốt các công việc tại các tổ chức quốc tế,
đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó
với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. Phát triển công tác
đối ngoại nhân dân theo phương châm: “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”, tích cực tham gia
các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả
hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác văn
hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân
dân các nước. Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền; song đồng thời cũng kiên
quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”,
“dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ, làm mất an ninh và ổn định chính trị của
nước ta...

24


Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong
quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần

có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác
tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần
giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo
vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ hồ trước những âm
mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt về chính trị.
II. KẾT QUẢ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Thành tựu
Triển khai đường lối, chính sách của Đảng về mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế
trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, góp phần phát triển kinh tế xã hội, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định an ninh quốc gia, nâng cao vị thế của đất nước trên
trường quốc tế. Trong quan hệ song phương, nước ta đã củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị hợp
tác toàn diện với các nước láng giềng. Quan hệ đặc biệt ViệtNam - Lào tiếp tục có nhiều bước phát
triển mới. Hợp tác ngày càng tiến triển theo hướng thực chất hơn, phát huy thế mạnh và tiềm năng của
mỗi nước, bình đẳng, cùng có lợi, dành sự ưu tiên ưu đãi hợp lý cho nhau, phù hợp với tính chất của
quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Hiện nay, Việt Nam là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của
Lào với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 4 tỷ USD, kim ngạch thương mại hai chiều đạt gần 1 tỷ USD.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia được thúc đẩy trên cơ sở phương châm chỉ đạo “Hợp tác láng
giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài". Hai nước đã ký nhiều hiệp định hợp
tác trong các lĩnh vực, trong đó đáng chú ý nhất và quan trọng nhất là việc Campuchia cam kết công
nhận và tôn trọng các hiệp ước, hiệp định biên giới đã ký với Việt Nam những năm 80. Hợp tác kinh tế
tiến triển thuận lợi, đến 2011 kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt gần 2 tỷ USD.
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh và toàn diện. Khuôn khổ quan hệ đượcchính
thức xác định với 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai", tiếp đó được bổ sung thêm tinh thần 4 tốt: "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" và
gần đây là “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Hai bên có nhận thức chung rộng rãi, chia sẻ
sự tương đồng quan điểm đối với nhiều vấn đề quốc tế và khu vực. Hợp tác kinh tế, thương mại Việt Trung tăng trưởng nhanh, hiện mậu dịch hai chiều đã vượt 30 tỷ USD. Việc hai nước ký hiệp ước về biên
giới trên đất liền, các hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ tạo
điều kiện thuận lợi xây dựng biên giới hai nước thành đường biên giới hoà bình, ổn định lâu dài để phát
triển.
Nhận thức rõ vị trí của ASEAN, tầm quan trọng của hoà bình, ổn định và hội nhập khu vực, từ
sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ngày càng tham gia tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của

ASEAN. Qua đó, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác chính của ASEAN,
góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết định lịch sử là tăng cường liên kết tiến
tới xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Các nước ASEAN hiện có hơn 1 nghìn dự án đầu tư
triển khai ở Việt Nam, với số vốn đầu tư trên 13 tỉ USD. Việt Nam cũng có trên 120 dự án đang triển
khai ở các nước thành viên ASEAN với tổng vốn gần 1 tỷ USD. Mặt khác, Việt Nam còn tham gia với
tinh thần trách nhiệm vào các cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như:
ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á…
25


×