Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

BTN Lí luận nhà nước và pháp luật: “Sự phát triển của Bộ máy nhà nước trong lịch sử”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.85 KB, 9 trang )

A. Phần mở đầu
Loài người từ khi xuất hiện tới nay đã ghi nhận những bước phát triển đáng kinh
ngạc. Một trong những thành quả cho thấy sự tiến bộ của nền văn minh nhân
loạichính là sự ra đời của các nhà nước. Mỗi giai đoạn lịch sử đều mang dấu ấn của
một kiểu nhà nước và nhà nước sau lại tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước
trước. Cho đến nay đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về sự xuất hiện và
phát triển của các kiểu nhà nước. Sau đây là những tìm hiểu của nhóm A1 về đề tài:
“Sự phát triển của Bộ máy nhà nước trong lịch sử”
B. Phần nội dung
I.

Khái quát chung

Bộ máy nhà nước là loại thiết chế đặc biệt, là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của
nhà nước. Nhờ có bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước được thể hiện và phát huy
hiệu lực, chức năng nhà nước được triển khai, các mục tiêu, kế hoạch và nhiệm vụ cụ
thể của nhà nước được thực hiện.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước được thiết lập ra theo nguyên
tắc, trình tự, thủ tục luật định để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đặt
ra trước nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể.
Bộ máy nhà nước là hệ thống lớn bao gồm nhiều hệ thống các cơ quan, nhà nước
hợp thành, trong đó mỗi cơ quan nhà nước là một mắt xích của hệ thống đó.
Bộ máy nhà nước có vai trò quan trọng trong mọi thời kỳ, tồn tại và phát triển
theo thời gian và biểu hiện rõ nét qua các giai đoạn lịch sử. Cụ thể là qua bốn thời kỳ
phát triển:
- Nhà nước chủ nô


- Nhà nước phong kiến
- Nhà nước tư sản
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa


Cơ cấu của bộ máy nhà nước là cấu trúc bên trong và trật tự sắp xếp các bộ phận
hợp thành của bộ máy nhà nước và những mối quan hệ tương hỗ giữa chúng . Bộ
máy nhà nước là hệ thống chỉnh thể, dung hợp trong nó những cơ cấu quyền lực lớn
và được thể hiện với tư cách là những hệ thống cục bộ và cụ thể.
Bộ máy nhà nước của mỗi nước có thể được tổ chức không giống nhau. Tuy
nhiên, nhìn tổng thể thì bộ máy nhà nước thường có ba bộ phận hợp thành, đó là: Hệ
thống cơ quan quyền lực nhà nước, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống
cơ quan tư pháp. Mỗi hệ thống này có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn xác định để tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dưới dạng quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí,
những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt, thể hiện bản chất, nội dung, ý nghĩa, mục
tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, tạo cơ sở cho việc tổ chức và triển khai các hoạt động
của bộ máy nhà nước.
Trong xã hội hiện đại, khi mô hình nhà nước pháp quyền đã trở thành phổ biến và
các giá trị của nó được nghiên cứu, vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi nước theo
nhiều cách thức khác nhau thì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước lại được đặt ra như yêu cầu khách quan cần được nghiên cứu và giải thích cho
phù hợp với tình hình mới
II.

Sự phát triển của bộ máy nhà nước trong lịch sử

1. Bộ máy nhà nước chủ nô


Khi nhà nước chủ nô mới ra đời, bộ máy nhà nước còn hết sức đơn giản và mang
nhiều dấu vết của tổ chức thị tộc, bộ lạc. Mới đầu, hoạt động của bộ máy nhà nước
chưa mang tính chuyên nghiệp, việc tổ chức bộ máy nhà nước còn mang tính tự phát,
những người làm việc trong bộ máy nhà nước thường đảm trách tất cả các công việc.

Cùng với sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ, chức năng của nhà nước ngày
càng trở nên phức tạp, bởi vậy, bộ máy nhà nước cũng được tổ chức ngày càng quy
củ và mang tính chuyên nghiệp hơn.
Nhà nước đã từng bước chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ
chức bộ máy theo từng cấp, hình thành hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa
phương.
Ở phương Đông, tổ chức bộ máy nhà nước có nhiều khác biệt và nhìn chung đơn
giản hơn ở các nước phương Tây. Nhưng dù là ở phương Đông hay phương Tây,
trong bộ máy nhà nước của các nhà nước chủ nô, bộ phận giữ vai trò chủ đạo là lực
lượng cưỡng chế chuyên nghiệp.
2. Bộ máy nhà nước phong kiến
Nhà nước phong kiến có quá trình tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, bởi vậy,
qua các thời kỳ khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau.
Thời kỳ đầu, tổ chức bộ máy nhà nước còn khá đơn giản. Nhưng về sau, cùng với
sự phát triển của chế độ phong kiến, bộ máy nhà nước phong kiến ngày càng được tổ
chức một cách chặt chẽ, quy củ, hoàn chỉnh hơn và thể hiện tính chuyên nghiệp cao
hơn.
Ở bộ máy nhà nước phong kiến, bước đầu đã có sự phân biệt về chức năng,
nhiệm vụ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhà nước phong kiến đều biết đến
việc phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính lãnh thổ, hình thành hệ thống cơ


quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Nhiều nhà nước, bộ máy nhà nước đã
được tổ chức tới cấp cơ sở. Quân đội, cảnh sát, tòa án luôn là những bộ phận có vai
trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy nhà nước phong kiến.
Trong bộ máy nhà nước phong kiến, đội ngũ quan liêu được từng bước hình thành
với chức vụ chuyên nghiệp, phẩm hàm và chức vụ đi kèm với nhau. Những người
làm việc trong bộ máy nhà nước đã được trả lương, ngoài ra còn được hưởng bổng
lộc tùy theo chức vụ, phẩm hàm.
Chế độ khoa cử đã được nhiều nhà nước phong kiến được áp dụng. Chú trọng

khảo xét, sát hạch đội ngũ quan lại để có chính sách thăng giáng, thưởng phạt phù
hợp.
3. Bộ máy nhà nước tư sản
Nhà nước tư sản có tổ chức, hoạt động là những tư tưởng chỉ đạo, những định
hướng cơ bản. Việc tổ chức và hoạt động của nhà nước được tiến hành theo các chính
thể khác nhau. Các mô hình khác nhau có có những nguyên tắc tổ chức và hoạt động
khác nhau. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, tổ chức và hoạt động của nhà nước tư
sản cũng có những nguyên tắc xuất phát từ nền tảng của chế độ dân chủ tư sản, có các
tổ chức và nguyên tắc sau đây:
a. Nguyên tắc phân chia quyền lực
Các học giả tư sản coi nguyên tắc phân chia quyền lực là hòn đá tảng của nền
dân chủ tư sản và hết sức quán triệt nó trong tổ chức bộ máy nhà nước. Nó được xây
dựng trên cơ sở học thuyết phân chia quyền lực. Việc phân chia quyền lực nhà nước
ở các nước tư sản được phân chia theo chiều ngang và chiều dọc.
Theo chiều ngang, quyền lực nhà nước được phân chia làm ba nhánh độc lập nhau
đó là : lập pháp do nghị viện nắm quyền, hành pháp do chính phủ nắm quyền và tư


pháp do toà án tối cao nắm quyền. Hoạt động của các cơ quan quyền lực cũng có sự
chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của
mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác. Bằng cách phân
chia như vậy, quyền lực của các cơ quan đã tạo nên cơ chế đối trọng nhau, kiềm chế
nhau trong việc sử dụng quyền lực giữa ba cơ quan cấp cao của nhà nước, làm cho
không một cơ quan nào nắm hết mọi quyền lực và cơ quan nào cũng bị kiểm tra,
giám sát việc thực thi quyền lực, nhờ đó hiến pháp và pháp luật mới được tôn trọng
triệt để và được thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất. Ở
nhiều nhà nước hiện nay, tư tưởng phân quyền ngang có một số thay đổi, mà chủ yếu
là số nhánh quyền lực được phân chia ra từ quyền lực nhà nước. Ở một số nước Nam
Mỹ, quyền lực nhà nước nhiều khi được chia thành 4, 5, 6, ... bộ phận. Ví dụ
Nicaragoa có thêm quyền kiểm tra do Tổng thanh tra thực hiện; Argentina phân làm 6

quyền.
Để hạn chế quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước không chỉ phân chia theo
chiều ngang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp mà còn phải tiếp tục
phân chia ở chiều dọc giữa trung ương và địa phương. Chính ở sự phân quyền này mà
quyền lực nhà nước trung ương bị hạn chế. Đến lượt mình, quyền lực của cơ quan địa
phương – chính phủ địa phương lại bị phân chia thành lập pháp địa phương và hành
pháp địa phương. Chính việc phân quyền dọc đã làm tồn tại hệ thống các cơ quan
quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song với bộ máy nhà
nước trung ương; Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa
chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể; mà
chủ yếu là chính quyền trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả
cộng đồng xã hội, như vấn đề: chủ quyền lãnh thổ, dịch vụ công, ...; còn chính quyền
địa phương sẽ phụ trách các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, văn hóa ở địa
phương, ngoài ra còn có thể chủ động tiến hành hợp tác, giao lưu với các địa phương
khác hoặc các tổ chức quốc tế trong quyền hạn của mình. Tổ chức và hoạt động của
các cấp chính quyền trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình là tương đối độc lập với
nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo chính quyền địa
phương, mà chỉ có thể xây dựng chủ trương chính sách, tạo dựng khuôn khổ pháp lý,


và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi phạm vi của chính
quyền địa phương sẽ do Tòa án Hành chính xét xử độc lập. Phân chia dọc được thực
hiện theo 2 phương pháp:
- Phân chia theo lãnh thổ là cách phân quyền của chính quyền trung ương cho
chính quyền địa phương theo địa giới hành chính – lãnh thổ.
- Phân chia theo chuyên môn là cách phân quyền giữa các bộ chuyên môn với
chính quyền địa phương. Tuy có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp nhưng thực chất giữa các cơ quan này có mối liên hệ khăng
khít với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong những hoạt động nhất định tạo nên sự thống nhất
quyền lực nhà nước.

b. Nguyên tắc đa nguyên chính trị và đa đảng
Là một trong những nguyên tắc cơ bản và phổ biến của nền dân chủ tư sản đồng
thời cũng là nguyên tắc cơ bản của tổ chức nghị viện và chính phủ tư sản.
Nguyên tắc này cho phép công dân có quyền tự do chính kiến, chỉ trích đường lối
chính trị của chính phủ và công khai thể hiện quan điểm chính trị của mình mà không
bị coi là phạm pháp.
c. Các yếu tố cơ bản của bộ máy nhà nước tư sản
• Nguyên thủ quốc gia
Là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về mặt đối nội cũng như đối
ngoại là thiết chế quan trọng trong bộ máy nhà nước tư sản.
Nguyên thủ quốc gia có quyền hạn lớn nhất là ở trong chính thể cộng hòa tổng
thống. Tổng thống là người đứng đầu hành pháp, có quyền bổ nhiệm các thành viên.


Chính phủ, các thẩm phán tòa án liên bang và các quan chức cấp cao khác trong bộ
máy nhà nước.
• Nghị viện
Là thiết chế đặc trưng nhất của chế độ dân chủ tư sản. Theo nguyên tắc phân chia
quyền lực, Nghị viện là cơ quan đại diện cao nhất cho các tầng lớp dân cư trong xã
hội có chức năng chủ yếu là lập pháp.
• Chính phủ
Là cơ quan tập thể chịu trách nhiệm thực hiện quyền hành pháp.
Việc thành lập chính phủ ở các nhà nước tư sản theo các hình thức chính thể quân
chủ lập hiến, cộng hòa nghị viện, cộng hòa lưỡng tính được tiến hành theo nguyên tắc
chung là trên cơ sở đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện.
• Tổ chức tòa án
Là hệ thống độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước tư sản. Tòa án ở các nhà nước
tư sản thường được xây dựng thành ba hệ thống: Tòa án tư pháp, tòa án hành chính
và tòa án hiến pháp.
4. Bộ máy nhà nước Xã hội Chủ nghĩa

Là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo
những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.


Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa tổ chức xuất phát từ bản chất của nhà nước xã
hội chủ nghĩa và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và các yếu tố như truyền
thống dân tộc, điều kiện tự nhiên và xã hội ... của mỗi nước trong một thời kỳ cụ thể.
* Các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa:
- Xét theo hình thức thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì các cơ
quan được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Tuy
nhiên, cách phân chia này chỉ mang tính tương đối.
- Xét theo trình tự thành lập, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được
chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra và các cơ quan do nhân dân trực
tiếp bầu ra.
- Xét theo tính chất thẩm quyền, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể
chia thành các cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan thẩm quyền riêng.
- Xét theo cấp độ thẩm quyền, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia
thành các cơ quan nhà nước ở trug ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
+ Các cơ quan quyền lực nhà nước
+ Chủ tịch nước
+ Các cơ quan quản lý nhà nước
+ Các cơ quan xét xử
+ Các cơ quan kiểm sát
* Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa:
- Nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước
+ Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức lập
ra bộ máy nhà nước



+ Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các công việc
nhà nước và quyết đinh những vấn đề trọng đại của đất nước
+ Phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác
được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà
nước
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
- Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc
C. Kết luận
Nhà nước là bộ máy quyền lực đặc biệt, được tổ chức chặt chẽ để thực thi chủ
quyền quốc gia, tổ chức và quản lí xã hội bằng pháp luật, phục vụ lợi ích giai cấp, lợi
ích xã hội bằng thực thi các cam kết quốc tế.
Nhà nước ra đời mang nhiều ý nghĩa, giữ vai trò và chức năng quan trọng, quản lý
các lĩnh vực đời sống và xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật cũng như
các chức năng đối ngoại. Bộ máy nhà nước ra đời và phát triển cùng nhà nước là một
hệ thống cơ quan lớn được bố trí rộng rãi và đầy đủ. Nó được cải cách và đổi mới
hơn qua các giai đoạn lịch sử, đi lên theo hướng tích cực trong cả quá trình hình
thành và phát triển.



×