Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HƢỜNG

CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ
NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ HƢỜNG

CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ
NGUYỄN DUY, ĐỒNG ĐỨC BỐN

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Nam

HÀ NỘI, 2013



LỜI CẢM ƠN
Luận văn này đƣợc hoàn thành tại khoa sau đại học trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội 2, dƣới sự hƣớng dẫn của TS.Nguyễn Văn Nam.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Văn Nam, ngƣời trực tiếp
tận tình, chu đáo hƣớng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện luận văn này.
Đồng thời tác giả cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc những lời góp ý
chỉ bảo chân thành, quý báu của các thầy cô giáo giảng dạy chuyên ngành Lí
luận văn học, thuộc khoa Ngữ văn trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 và sự
cổ vũ, động viên của gia đình, bạn bè để luận văn này đƣợc hoàn thành.

Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Thị Hƣờng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan
rằng mọi sự

ệc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các

thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc
Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 2013
Tác giả

Nguyễn Thị Hường



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 9
4. Phạm vi nghiên cứu................................................................................. 10
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 10
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 11
7. Đóng góp của luận văn............................................................................ 11
NỘI DUNG...................................................................................................... 12
Chƣơng 1: Cảm hứng thế sự trong văn học việt nam từ sau 1975 và hành
trình sáng tạo của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ........................................ 12
1.1. Cảm hứng thế sự từ sau 1975............................................................... 12
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 12
1.1.2. Những tiền đề cho sự ra đời của cảm hứng thế sự trong thơ Việt
Nam từ sau 1975 .............................................................................................. 13
1.1.2.1.Tiền đề lịch sử ................................................................................. 13
1.1.2.2.Tiền đề về sự đổi mới quan niệm sáng tác...................................... 13
1.2. Hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn ....................... 16
1.2.1. Hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy ............................................... 16
1.2.1.1. Giai đoạn trước 1975 ..................................................................... 16
1.2.1.2. Giai đoạn sau 1975......................................................................... 17
1.2.2. Hành trình sáng tạo của Đồng Đức Bốn ........................................... 21
Chƣơng 2: Những biểu hiện chính của cảm hứng nhân sinh, thế sự trong
thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn................................................................... 28
2.1. Suy ngẫm về cuộc đời, xã hội, về nhân sinh thế thái ........................... 28


2.1.1. Sự “nhận thức lại” hiện thực đời sống .............................................. 28

2.1.2. Cảm hứng lí giải về những nghịch lí nhân sinh ................................ 32
2.1.3. Cảm hứng mô tả về các mối quan hệ đời thường ............................. 42
2.2. Những hình tượng thế sự, đời tư nổi bật trong thơ Nguyễn Duy, Đồng
Đức Bốn ........................................................................................................... 56
2.2.1. Hình tượng cái tôi thế sự, đời tư ....................................................... 56
2.2.2. Hình tượng quê hương ...................................................................... 63
Chƣơng 3: Nghệ thuật biểu hiện dòng cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn
Duy, Đồng Đức Bốn........................................................................................ 74
3.1. Giọng điệu ............................................................................................ 74
3.1.1. Giọng “hát ru” ................................................................................... 74
3.1.2. Giọng trào lộng ................................................................................. 78
3.1.3 Giọng triết lí ....................................................................................... 86
3.2. Thể thơ ................................................................................................. 89
3.3. Ngôn ngữ ............................................................................................ 102
KẾT LUẬN .............................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 116


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về cảm hứng thế sự đời tư
Văn học Việt Nam nói chung, thơ ca nói riêng từ sau 1975 đã có những
đổi thay rõ rệt cùng với sự đổi thay của đời sống xã hội. Sự thay đổi được thể
hiện trên mọi bình diện từ quan điểm sáng tác, chủ đề, đề tài, tư tưởng... của
nhà văn. Nếu như trong chiến tranh, thơ ca thường hiện lên với cái nhìn lãng
mạn hóa, lí tưởng hóa; vấn đề phản ánh trong thơ phải là những vấn đề lớn
lao, chứa đựng vận mệnh của cả dân tộc; “cái tôi” phải nhường chỗ cho “cái
ta” chung ... thì giờ đây, trong thời đại mở cửa, con người có quyền tự do

sáng tác, tự do bộc lộ cái tôi cá tính riêng. Trong thơ xuất hiện những mạch
ngầm cảm xúc suy tư của tác giả.
Cảm hứng thế sự đời tư trở thành cảm hứng chính của thơ ca Việt Nam
sau chiến tranh. Sau chiến tranh, thơ quay về với những vấn đề nhân sinh, thế
sự, với đời sống cá nhân và những góc khuất của con người. Cùng với đó là
những tìm tòi, sáng tạo cách thể hiện mới để làm nên một diện mạo thơ ca đặc
sắc và giàu tính nhân văn.
1.2.Về Nguyễn Duy
Nguyễn Duy, tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948. Nguyễn
Duy đến với làng thơ Việt Nam từ những năm đất nước còn trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Ông đã góp một tiếng nói quan trọng làm nên diện mạo riêng
của một thế hệ thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Hòa mình vào
cuộc kháng chiến của dân tộc, Nguyễn Duy đã cho ra đời nhiều tập thơ có giá
trị và được công chúng nhiệt liệt đón chào.
Chiến tranh đã kết thúc, trở về đời thường, bước vào cuộc sống mới,
với mỗi người chiến sĩ, mỗi nhà văn quả không phải là điều đơn giản. Nhiều
người trong số đó đã không tìm được lẽ sống và cảm hứng sáng tác, trở nên


2

lạc lõng giữa đời thường. Nhưng với Nguyễn Duy lại khác, ông đã có nhiều
sáng tạo, đổi mới chứng tỏ được bút lực dồi dào của mình. Nhiều tập thơ cà
giá trị được ông tiếp tục hoàn thiện. Năm 1997, bằng một cuộc triển lãm thơ,
Nguyễn Duy đã tuyên bố ngừng sự nghiệp sáng tác thơ ca của mình. Tuy vây,
theo thời gian, sức sống của thơ Nguyễn Duy dường như mỗi lúc một mãnh
liệt và tỏa sáng.
Cùng với Nguyễn Bính, thơ Nguyễn Duy là thứ “đặc sản” của Việt
Nam với những câu thơ mang âm hưởng ca dao đi vào lòng người:
Ta đi trọn kiếp con ngƣời

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - 1987)
Đố em mua chịu nỗi đau
Để anh hóa giá bảy màu giấc mơ
(Bụi - 1997)
Nguyễn Duy còn tự nhận là “thi sĩ thảo dân”, coi cuộc đời mình đích
thị là thảo dân từ lúc nằm trong bụng mẹ và luôn tâm niệm quê hương và số
phận của người dân lao động là nỗi trăn trở đau đáu trong tình cảm cũng như
trong thơ mình.
Ông được đánh giá cao ở thể thơ lục bát được viết theo phong cách
hiện đại với những câu thơ vừa phóng túng, vừa uyển chuyển chặt chẽ và
được giới phê bình đánh giá “là ngƣời góp phần làm mới thể thơ truyền
thống”. Vì vậy, trong thơ Nguyễn Duy luôn có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại từ nội dung đến hình thức biểu hiện. Đây là điều
chúng ta dễ dàng nhận ra ở hầu hết mọi sáng tác của nhà thơ.
Hiện nay, Nguyễn Duy còn là nhà thơ được lựa chọn giảng dạy trong
nhà trường phổ thông với một số tác phẩm như: Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ
rơm, Ánh trăng, Đò Lèn. Mỗi bài thơ đều mang trong mình những dư âm,


3

tình cảm không chỉ của bản thân tác giả mà còn mang điệu hồn riêng của tâm
hồn Việt Nam với những hình ảnh trữ tình đằm thắm.
1.3. Về Đồng Đức Bốn
Từ xưa đến nay, thơ ca luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền
văn học dân tộc cũng như trong đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt.
Từ sau 1975, cùng với sự đổi mới của nền văn học, thơ ca cũng có những
bước chuyển mình đáng kể. Thơ ca giai đoạn này tuy không còn giữ vị trí tiên
phong, trụ cột trong đời sống văn học, nhưng vẫn rất phong phú và đa dạng,

có nhiều tìm tòi, cách tân mạnh mẽ với nhiều phong cách nghệ thuật mới mẻ,
độc đáo trong tiến trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam.
Đồng Đức Bốn là nhà thơ đương đại nổi bật. Tuy tác phẩm của ông chưa
được đưa vào giảng dạy ở trường Trung học phổ thông, nhưng tên tuổi đã được
nhiều nhà phê bình và đông đảo độc giả chú ý, đánh giá cao. Bởi trong khi
những cây bút đương đại đua nhau đi tìm cho thơ mình những hình thức thể hiện
riêng, mới lạ thì Đồng Đức Bốn lại thực hiện quá trình “lội ngƣợc dòng” tìm về
với những nguồn mạch trong trẻo của thể thơ lục bát truyền thống, với những
hình ảnh thơ gần gũi, bình dị trong đời sống hàng ngày nhưng vẫn toát lên hơi
thở rất “hiện đại”, vẫn thấy bên cạnh “chất tình trong trẻo” là cả một “nỗi đau
đáu với đời và cả cái ngông của một thi sĩ”. Tất cả đã làm nên một thế giới nghệ
thuật rất riêng, mang đậm phong cách đồng quê trong thơ thơ lục bát Đồng Đức
Bốn.
Xuất phát từ sự yêu mến của bản thân và mong muốn góp thêm một cái
nhìn về giá trị thơ ca của hai nhà thơ chúng tôi quyêt định thực hiện đề tài tìm
hiểu “Cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn” trong
khóa luận này.


4

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về cảm hứng thế sự
Nghiên cứu cảm hứng thế sự trong thơ một vài tác giả văn học giúp
người đọc có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về cuộc đời, sự nghiệp của họ
và những ẩn ức trong thơ. Đã có nhiều bài viết, công trình bàn về cảm hứng
thế sự trong những giai đoạn văn học, tác giả văn học như: Cảm hứng đời tƣ
thế sự trong văn học Việt Nam sau 1975 khi viết về đề tài gia đình (Phùng
Việt Văn), Cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Việt Nam 1975 – 2000 (Trịnh
Thị Hằng), Cảm hứng thế sự - điểm gặp gỡ và khác biệt giữa tiểu thuyết Hồ

Biểu Chánh và tiểu thuyết của một số tác giả miền Bắc cùng thời (Nguyễn
Văn Nở, Huỳnh Thị Lan Phương), Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Lê
Minh Khuê (Lê Hồ Quang), Thơ Lƣu Quang Vũ “tâm hồn anh dằn vặt cuộc
đời anh” (Lê Hồ Quang), Cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Trần Nhuận
Minh (Chung Thi Thúy)…
Cảm hứng thế sự đã xuất hiện từ văn học Trung đại, khi các nhà Nho
tài tử lấy đó làm nơi gửi gắm những tâm sự riêng chung.Cảm hứng này từ khi
xuất hiện đã được các nhà thơ, nhà văn chào đón qua từng thời kì sau đó và
đặc biệt giai đoạn sau 1975 trong thời đại kinh tế thị trường, khi ý thức cá
nhân được đề cao, con người được tự do giãi bày và thể hiện cá tính sáng tạo.
Nó kế thừa và tiếp nối những giá trị truyền thống đã có trong văn học, tạo nên
một mảng văn học phong phú trong nền văn học đa sắc màu.
2.2 Lịch sử nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy
Nguyễn Duy làm thơ từ rất sớm, tác phẩm đầu tay của ông là bài thơ
Trên sân trường được viết năm 1960 khi đang còn là học sinh trung học phổ
thông ở Lam Sơn - Thanh Hóa, nhưng phải tới năm 1973 ông mới thực sự
được biết đến với chùm thơ đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ tuần Báo Văn
nghệ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Viêt Nam. Sự xuất hiện của thơ


5

Nguyễn Duy đã góp vào nền thơ ca một bản sắc riêng, một phong cách nghệ
thuật độc đáo và thu hút sự chú ý của độc giả cũng như giới phê bình văn học.
Hoài Thanh là một trong những người đầu tiên phát hiện ra tài năng thơ
Nguyễn Duy qua chùm thơ ông gửi đăng trên tuần báo Văn nghệ (Số Tết
Nhâm Tý và Văn Nghệ số 442). Trong bài viết: “Đọc một số bài Nguyễn
Duy” đăng trên tuần báo văn nghệ số 442 ngày 14 - 4 - 1972, tác giả đã khẳng
định: “Đọc thơ Nguyễn Duy thấy anh thƣờng hay cảm xúc trƣớc những
chuyện lớn, chuyện nhỏ quanh mình. Cái điều ở ngƣời khác thƣờng chỉ là

thoáng qua thì ở anh nó lắng sâu và dừng lại…”[46]. Bài viết của Hoài
Thanh đã giới thiệu Nguyễn Duy trước bạn đọc như một tiếng thơ đầy triển
vọng, đầy “tiềm lực”.
Lê Quang Hưng khi tìm hiểu thơ Nguyễn Duy cũng nhận ra nét độc đáo
của thơ Nguyễn Duy: “Sự kết hợp giữa cụ thể và suy ngẫm, giữa riêng và
chung, cảm xúc đằm nén gây đƣợc sự đồng cảm” [30, 156].
Nguyễn Quang Sáng cũng nhận thấy ở Nguyễn Duy: “Tƣ duy thơ thì
hiện đại, hình thức thơ thì phẳng phất phong vị cổ điển phƣơng Đông” [49,
189].
Trên đây là những bài viết đánh giá khái quát nhất về thơ Nguyễn Duy.
Ngoài ra còn rất nhiều bài phê bình, nghiên cứu của các tác giả đăng rải rác
trên báo, tạp chí hay một số tuyển tập thơ. Nói chung, các nhà phê bình,
nghiên cứu đều đi đến khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo ở Nguyễn
Duy và những đóng góp quí báu của ông cho nền thơ ca Việt Nam.
Bùi Thị Minh Tâm trong luận văn thạc sĩ Ngữ văn về “Chủ đề quê
hƣơng đất nƣớc trong thơ Nguyễn Duy” đã xem cảm hứng quê hương, đất
nước là cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Duy. Đây là một cảm hứng quen
thuộc của thi nhân từ xưa tới nay: “Nguyễn Duy bền bỉ hƣớng cảm xúc của
mình về với cội nguồn quê hƣơng, cội nguồn dân tộc”[45,32].


6

Vũ Văn Sĩ dù không trực tiếp đề cập đến sáng tác của Nguyễn Duy
nhưng qua bài viết: “Nguyễn Duy - ngƣời thƣơng mến đến tận cùng chân
thật” đã có những nhận xét rất tinh tế: “…thơ Nguyễn Duy không dừng lại ở
đề tài, bởi đằng sau các lớp sự việc, sự kiện ấy là cái hồn của cuộc sống ẩn
tàng các vấn đề xã hội và con ngƣời trong đó”[50,307]. Theo ông, nét độc
đáo trong thơ Nguyễn Duy chính là “gợi cho ta nắm bắt đƣợc những nét vô
hình, mong manh trong tiềm thức của mình. Và rồi ngay lập tức và đồng thời,

bằng kinh nghiệm sống từng trải riêng của mỗi ngƣời để thiết lập mối liên hệ
của nó với các hiện tƣợng tinh thần của đời sống xã hội”[22,310]. Nhận xét
của Vũ Văn Sĩ là những gợi mở quí báu cho chúng tôi khi tìm hiểu cảm hứng
sáng tác thơ Nguyễn Duy. Bởi đây chính là mạch ngầm triết lí theo kiểu tư
duy thơ của Nguyễn Duy.
Lại Nguyên Ân trong bài viết “Tìm giọng mới thích hợp với ngƣời thời
mình”, qua giọng điệu riêng của tập thơ Ánh trăng, đã nhận thấy “Giai điệu
trữ tình” với nhiều sắc thái biểu hiện trong giọng điệu thơ Nguyễn Duy: “Có
giọng bông lơn, bỡn cợt, có tiếng cƣời khúc khích giữa dòng trữ tình nhƣ là
để phá bớt đi cái vẻ rƣng rƣng thống thiết, cứ cao lên và làm căng thẳng mệt
mỏi tâm lý cảm thụ” và sắc giọng mới “thủng thẳng ngang ngạnh và ƣơng
bƣớng nữa”[5,310].
Hoàng Nhuận Cầm lại cho rằng giọng điệu thơ Nguyễn Duy là “Giọng
điệu lời ru”, vừa hấp dẫn, vừa tinh quái hóm hỉnh trong một cái nhìn tinh tế
nhƣ không có gì mà lại có gì” [11,6].
Còn Anh Ngọc thì nhận ra “Cái duyên trào lộng”, cùng với “Cách tạo
từ mới có nội lực, sức sống” đã làm bật lên tiếng cười nhưng lại “Khiến mủi
lòng, giễu cợt mà lại thêm thƣơng mến…”.
Như vậy, chúng ta thấy đã có một số ý kiến đánh giá về cảm hứng thế
sự trong một số bài thơ của Nguyễn Duy, nhưng chưa có một công trình nào


7

nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Vì vậy đây là một vấn đề hết sức lí thú
còn bỏ ngỏ để chúng ta tiếp tục đi sâu tìm hiểu.
Tài liệu nghiên cứu của các tác giả kể trên là những gợi ý vô cùng quý
giá giúp chúng tôi thực hiện khóa luận này. Những ý kiến đánh giá trong các
bài nghiên cứu là cơ sở, nền tảng cho chúng tôi tìm hiểu đề tài “Cảm hứng thế
sự trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn” một cách cụ thể và sâu sắc hơn.

2.3 Lịch sử nghiên cứu về thơ Đồng Đức Bốn
Về thơ Đồng Đức Bốn, đã có khá nhiều các nhà nghiên cứu, độc giả
chú ý đến nhưng chỉ dừng lại ở những bài viết riêng lẻ xoay quanh một vài
khía cạnh khác nhau của thơ Đồng Đức Bốn hay những cảm nhận chung về
thơ Đồng Đức Bốn, chứ chưa có một chuyên luận hay một bài nghiên cứu nào
đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Đồng Đức Bốn nói chung và cảm hứng
thế sự trong thơ nói riêng.
Đầu tiên, có thể kể đến một số bài phê bình của các tác giả:Vương Trí
Nhàn, Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Minh Tuấn, Lê Quang Trang, Nguyễn Đăng
Điệp, Đoàn Hương, Nguyễn Văn Quân, Phạm Tiến Duật được viết trước khi
Đồng Đức Bốn qua đời, mà chủ yếu là trong thời gian nhà thơ đang lâm bệnh
nặng. Các bài viết này đã được tập hợp và in trong tuyển tập Chuông chùa kêu
trong mưa (2002) và Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc (2006) của Đồng Đức Bốn.
Ngoài ra, còn có một số bài được viết sau khi nhà thơ qua đời, đã
được đăng tải trên các tạp chí, các website. Có thể kể đến như: bài viết
"Đồng Đức Bốn và trận mƣa cuối cùng”của Nguyễn Văn Thọ trên báo điện
tử Vietbao.vn, Chủ nhật, ngày 26-02-2006; bài viết "Nhớ bạn Đồng Đức
Bốn" của Nguyễn Huy Thiệp trên báo Tiền Phong, số ra mồng 3 Tết Đinh
Hợi, 2007.
Các bài viết đã ít nhiều đề cập đến một vài khía cạnh nổi bật trong thế
giới nghệ thuật thơ Đồng Đức Bốn như: giọng điệu thơ, ngôn ngữ thơ, hình


8

ảnh thơ, ... Đó là những tư liệu rất có ý nghĩa đối với tác giả khoá luận trong
quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp, trong bài viết "Đồng Đức Bốn - phiêu du
vào lục bát" in trong tuyển tập Chuông chùa kêu trong mưa (2002) của
Đồng Đức Bốn, đã dành một phần riêng để nói về tập thơ Trở về với mẹ ta

thôi. Đó là phần 3: “Trở về với mẹ ta thôi. Có hay không sự cách tân trong
thơ Đồng Đức Bốn?” Trong đó tác giả có đưa những nhận xét như sau: “Sự
khác lạ trong thơ Đồng Đức Bốn là những cựa quậy trong những thể loại đã
quen, đặc biệt là lục bát... ở lục bát Đồng Đức Bốn nó không mềm, ƣớt mà ấm
lòng ngƣời là cái đọng lại ở phần sau, chìm xuống, đƣợc bọc ngoài bởi một
vẻ đắng đót, tái tê, giông gió, gãy gập, buồn đau... Nó đƣợc phơi trải bằng sự
hồn nhiên, bằng cách nói tƣởng nhƣ không đâu, rất vu vơ...” [17].
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Huy Thiệp trong bài viết "Khổ câu thơ cứ
đến rồi lại đi" in trong tuyển tập Chuông chùa kêu trong mưa (2002), của
Đồng Đức Bốn cũng đã đưa ra những cảm nhận chung về một số bài thơ ông
cho là “cực hay, tài tử vô địch” trong tập thơ này.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật với giọng điệu tự nhiên, pha chút ngang tàn
trong bài Đóng gạch nơi nao đã khẳng định: “một mình Đồng Đức Bốn tự
làm một cuộc trƣờng chinh. Gã xông thẳng vào trận địa lục bát và chỉ một
thời gian ngắn Đồng Đức Bốn trở thành ông vua trẻ của thể loại này”. Nhà
văn Trần Huy Quang trong bài Đồng Đức Bốn- Nhàu nát và trau chuốt cũng
có những đáng giá về góc độ câu thơ, “Thơ Đồng Đức Bốn đấy, mỗi câu
giống nhƣ lời nói của bà nông dân lam lũ, yếm trễ ngực, váy xắn quai cồng,
đòn gánh oằn vai”.
Ngoài các bài viết trên đây, còn phải kể tới bài viết của một số tác giả
như: Nguyễn Ánh Ngân, Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Việt Hà, Văn


9

Chinh… Đó đều là những bài viết, những ý kiến đánh giá về thơ Đồng Đức
Bốn khá sâu sắc và xác đáng.
Nhìn chung, các bài viết tìm hiểu về thơ Đồng Đức Bốn bước đầu đã có
những tìm tòi mới mẻ, nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở những nhận định chung
chung, là cái nhìn ban đầu về hiện tượng thơ mới nổi, ít có sự đi sâu phân tích

những biểu hiện cụ thể trong thơ ông, chưa có được cái nhìn toàn diện về vị
trí của ông trong dòng chảy thơ ca Việt Nam đương đại.
Nghiên cứu về cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức
Bốn là một việc làm có ý nghĩa quan trọng để đánh giá xác đáng hơn vị trí
của hai nhà thơ trên. Điều này đòi hỏi sự góp công, góp sức của nhiều nhà
nghiên cứu. Dẫu biết rằng như muối bỏ bể, công trình nghiên cứu này của
chúng tôi vẫn hi vọng được đóng góp một phần nhỏ vào quá trình nghiên
cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu vào đề tài này mục đích của chúng tôi là hướng vào tìm hiểu cụ
thể những biểu hiện cụ thể của cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy và
Đồng Đức Bốn. So sánh, đối chiếu cảm hứng thế sự trong thơ hai ông với các
tác giả khác, đặc biệt là các nhà thơ có thế mạnh về thơ lục bát để tìm ra điểm
chung nhất và bản sắc, đặc trưng riêng của mỗi người. Bên cạnh đó luận văn
mong muốn đạt một hiệu quả cao hơn, đó là có được cái nhìn khái quát về sự
tồn tại, biến đổi của cảm hứng thế sự trong thơ Việt Nam đương đại.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Hướng vào những mục đích đã nêu trên đây, luận văn thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Sơ lược tìm hiểu về đăc trưng thể thơ của hai nhà thơ.


10

- Tìm hiểu các văn bản thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn để tìm ra
những nét nổi bật gắn liền với cảm hứng thế sự trong thơ của họ.
- Đối sánh với nhiều tác giả khác để tìm ra sự đổi mới trong cái nhìn
thế sự của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
4. Phạm vi nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, để cho công việc được thuận lợi,
chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể như sau:
Chú ý tới toàn bộ các bài thơ của Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn trong
khả năng cao nhất có thể. Riêng về Nguyễn Duy chú ý nhiều hơn tới tập thơ
Ánh Trăng và tập Mẹ và Em, Cát Trắng, về Đồng Đức Bốn thì tập trung
trong tập Trở về với mẹ ta thôi, Chim mỏ vàng và hoa cỏ độc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu sâu vấn đề, trong luận văn này chúng tôi sử dụng một số
phương pháp sau đây.
5.1. Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
Thông qua phương pháp này, luận văn sẽ nêu bật những đặc điểm của
cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn. Đồng thời tránh
được sự chủ quan, cảm tính khi đưa ra các nhận xét, kết luận.
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Đây là phương pháp quan trọng và được sử dụng nhiều trong luận văn.
Để thấy được cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn
chúng tôi sử dụng phương pháp này để đối chiếu so sánh giữa thơ Nguyễn
Duy và Đồng Đức Bốn với một số nhà thơ khác. Qua đó làm nổi bật cảm
hứng thế sự mới mẻ trong thơ hai tác giả trên một cách thuyết phục cao.
5.3. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được sử dụng như một phương pháp bổ trợ hữu ích
cho hai phương pháp trên. Với sự thống kê, phân loại, luận văn sẽ tìm được


11

những yếu tố nội dung cũng như nghệ thuật tiêu biểu cho kết luận chính xác
nhất, có cơ sở cho sự thuyết phục.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi phối hợp chặt chẽ giữa ba
phương pháp trên để luận văn có tính khoa học và hệ thống, đạt được những

hiệu quả cao nhất.
6. Cấu trúc của luận văn
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
Chương 1: Cảm hứng thế sự trong văn học Việt Nam từ sau 1975 và
hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn.
Chương 2: Những biểu hiện chính của cảm hứng nhân sinh, thế sự
trong thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn.
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện dòng cảm hứng thế sự trong thơ
Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn.
- Phần kết luận
7. Đóng góp của luận văn
Làm nổi bật cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn.
Kết quả của luận văn một lần nữa khẳng định những sáng tạo độc đáo trong
thơ và vị trí của hai tác giả trong nền thơ ca Việt Nam đương đại.


12

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ SAU 1975 VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO CỦA NGUYỄN DUY,
ĐỒNG ĐỨC BỐN
1.1. Cảm hứng thế sự trong văn hoc Việt Nam từ sau 1975
1.1.1. khái niệm về cảm hứng
Cảm hứng là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác
phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tƣ tƣởng xác định, một sự đánh giá nhất
định, gây tác động đến cảm xúc của những ngƣời tiếp nhận tác phẩm”
[23,18].
Cảm hứng“lúc đầu chỉ yếu tố nhiệt tình say sƣa diễn thuyết, sau chỉ

trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ. Về sau lí luận văn học xem cảm hứng
chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tƣ tƣởng,
xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới đƣợc miêu tả. Theo nghĩa này, cảm hứng
chủ đạo thống nhất với đề tài và tƣ tƣởng của tác phẩm” [23]. Bê-lin-xki –
nhà lí luận văn học Nga cũng đã đề cao vai trò của cảm hứng chủ đạo trong
sáng tác nghệ thuật, ông “coi cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu
của việc tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đích thực” bởi nó “biết sự chiếm
lĩnh thuần túy trí óc đối với tƣ tƣởng thành tình yêu đối với tƣ tƣởng, một tình
yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [23, 18].
Cảm hứng có vai trò quan trọng trong việc chi phối cảm xúc và nội
dung, hình thức tác phẩm. Pôxpêlôp trong Dẫn luận nghiên cứu văn học đã
thống nhất khái niệm cảm hứng với các dòng văn học. Tác giả chia nội dung
tác phẩm thành ba dòng: Dòng sử thi - dân tôc, dòng thế sự - đạo đức, dòng
số phận - đời tư. Tìm hiểu cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật là vấn đề
quen thuộc trong văn học. Giúp chúng ta thấy được rõ ràng hơn mối quan hệ
giữa nó với các yếu tố nội dung, hình thức nghệ thuật trong tác phẩm, giữa


13

nhiều tác phẩm với nhau. Khóa luận sẽ phát triển cảm hứng thế sự theo quan
niệm này.
1.1.2. Những tiền đề cho sự ra đời của cảm hứng thế sự trong thơ Việt
Nam sau 1975
1.1.2.1. Tiền đề lịch sử
Năm 1975 là một bước ngoặt lịch sử của đất nước. Đại thắng mùa xuân
năm 1975 đã mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc; kỉ nguyên của độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước, tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Nhân dân ta vĩnh viễn thoát
khỏi ách nô lệ của các nước đế quốc, đất nước thoát khỏi thảm họa bị chia cắt,
giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ được thành quả của Cách mạng Xã

Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc. Kể từ đó, nước Việt Nam ta “Từ Muc Nam Quan
đến Mũi Cà Mau / Bắc Nam liền một dải” (Tố Hữu).
Hoàn cảnh lịch sử đã là điều kiện để văn học Việt Nam nói chung và
thơ ca nói riêng có những tiếng nói mới, phù hợp với xu thế chung của thời
đại. Sau chiến tranh, thơ Việt Nam có những bước chuyển biến rõ rệt, có
những thay đổi và hình thành những xu hướng khác nhau. Theo các nhà
nghiên cứu phân chia, thơ giai đoạn này chia thành hai chặng: từ 1975 – 1985
và 1986 (Đại hội Đảng VI) đến nay.
1.1.2.2. Tiền đề về sự đổi mới quan niệm sáng tác văn học
Sự thay đổi trong văn học diễn ra trên tất cả các bình diện: quan niệm
về chủ thể sáng tạo, về hiện thực, về tư tưởng, đề tài, chức năng văn học trong
giai đoạn mới, về độc giả, đội ngũ sáng tác...
a) Sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật và con người
Thơ ca nói riêng, văn học nói chung ở thời kì này có những đổi mới
quan trọng về quan niệm nghệ thuật và con người. Sự khẳng định con người
cá tính, đề cao cái tôi cá nhân có thể được hiện lên ngay trong nhan đề của các


14

bài thơ như: Ngƣời đi tìm mặt (Hoàng Hưng), Tôi vẽ mặt tôi (Lê Minh Quốc),
Tôi gọi tôi (Đinh Thu Vân)...
Các nhà thơ thời kì này chú trọng phác họa chân dung tinh thần mang
tính cá nhân giữa đời sống hiện đại trên tinh thần tôn trọng tự do và cá tính
của mỗi người. Trong văn học Việt Nam, nếu trước đây cái tôi cá nhân được
khắc họa phải mang tính đại diện cho cộng đồng, hội tụ những phẩm chất tốt
đẹp nhất thì trong văn học thời kì đổi mới này nó tồn tại với tư cách là cái tôi
riêng biệt: “tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình, nhân danh chính mình tồn tại”.
Con người cá nhân trong xã hội mới có những biến động nội tâm phức
tạp. Sự khẳng định cá tính cũng gắn rất chặt với những yếu tố không gian và

thời gian. Sự trôi chảy của thời gian là một nỗi ám ảnh lớn, gắn với sự mong
manh, nhỏ bé, hữu hạn của kiếp người. Trong tập thơ Người hái phù dung
của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “chúng ta cảm nhận đƣợc nỗi buồn từ tác giả,
một nỗi buồn đƣợc nâng lên thành triết lí, có sự ám ảnh lớn về những điều
muôn thuở liên quan đến sự hiện hữu của nhà thơ, rộng ra đến cả kiếp ngƣời
về tình yêu - sự sống - cái chết... và tất cả đều đƣợc tƣ duy bằng kinh nghiệm
buồn của chính nhà thơ, thông qua sự đối chiếu với thời gian, cuộc sống”
[35,66]. Thậm chí một sợi tóc cũng gợi ra nỗi ám ảnh về thời gian: “nghe thời
gian xõa sợi buồn xuống vai”.
b) Đổi mới trong phương thức tái hiện đời sống
Văn học thời kì này có sự du nhập nhiều yếu tố của những phương
pháp sáng tác hiện đại như: Chủ nghĩa tượng trưng và siêu thực. Một loạt
những bài thơ lạ gây ám ảnh với người đọc: Ngƣời dệt tầm gai, Mùa thu mầm,
Dấu vết, Đêm Linh, Phía ngày tắt nắng của Vi Thùy Linh; Nằm nghiêng,
Điệp khúc sáng mùa đông, Buổi sáng… của Phan Huyền Thư.
Chủ nghĩa tượng trưng đã ảnh hưởng tới các sáng tác của các nhà thơ
Việt Nam trước 1945 qua các bài thơ củ

u, Hàn Mặc Tử, Đoàn Phú


15

Tứ, nhóm văn sĩ Xuân Thu Nhã Tập… sự quay lại của chủ nghĩa tượng trưng
với những bài thơ khó hiểu, có tính biểu tượng cao, có tính ám gợi và sáng tạo
ra những cấu trúc mới lạ, tân kì về ngôn từ: “hè thon cong thân nắng cựa
mình” (Nụ xuân), “Mi mô za chiều khép cánh / Mi- Môi- Xa” (Mi mô za).
“Giàn trầu già / khua những át cơ rơi” (Át cơ)…
Các thể thơ thời kì này cùng với đó phát triển hết sức phong phú, đa
dạng. Thể lục bát vẫn tiếp tục tồn tại, thách thức sức sáng tạo của nhà thơ.

Thơ tự do, thơ văn xuôi phát triển mạnh, trường ca thưa thớt hơn (thể loại này
đã không còn phù hợp trong thời đại của con người cá nhân, cái tôi, tính sáng
tạo được cổ vũ phát huy cao độ).
Quan điểm nhìn nhận của nhà văn với hiện thực cũng đã đổi mới. Họ
nhìn đời với cái nhìn khách quan và con mắt đa diện. Mối quan hệ giữa tác
giả - tác phẩm - người đọc cũng đã đổi thay hoàn toàn. Nếu trong văn học
1945 - 1975 (văn học cách mạng) có quan niệm “văn dĩ tải đạo”, trong đó,
nhà văn là người dạy cách sống cho người đọc (mỗi tác phẩm là một cách
sống), người đọc không có quyền hiểu khác đi, hay kiến tạo tác phẩm. Đến
nay, người đọc ngày càng chủ động, tích cực hơn trong việc tiếp nhận tác
phẩm. Người đọc có quyền tự tưởng tượng về diễn biến và kết quả trong tác
phẩm tự sự, tự cảm nhận thơ theo năng lực chủ quan của mình, tham gia vào
quá trình kiến tạo tác phẩm bằng nhiều cách khác nhau. Tác phẩm luôn có
những khoảng trống để người đọc cùng sáng tạo với nhà văn.
Trước sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội cùng với sự nhận thức lại đời
sống bằng đôi mắt đa chiều hai nhà thơ Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn đã
đánh dấu tên tuổi của mình trong dòng chảy văn học đầy biến động và phức
tạp bằng những bài thơ chứa đầy cảm xúc nhân sinh thế sự.


16

1.2. Hành trình sáng tạo thơ Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn
1.2.1 Hành trình sáng tạo thơ Nguyễn Duy
1.2.1.1. Giai đoạn trƣớc 1975
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm. Tác phẩm đầu tay Trên sân trƣờng sáng
tác khi nhà thơ mới học lớp 2. Song phải chờ đến sự ra đời của hàng loạt các
tác phẩm như Trận địa tím (1969), Khẩu súng trên tay ta (1970), Khúc hát
dân ca (1970), Tiếng hát mùa gặt (1971)… Đặc biệt là tác phẩm: Tre Việt
Nam, Bầu trời vuông, Hơi ấm ổ rơm (chùm tác phẩm đoạt giải nhất trong

cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ 1972 - 1973) Nguyễn Duy mới bộc lộ rõ một
thế giới nội tâm có bản sắc để từ đó định hình một phong cách thơ.
Cát trắng là tập thơ đầu tay của Nguyễn Duy. Ở tập thơ đầu tay này,
Nguyễn Duy đã khẳng định được diện mạo riêng. Với Cát trắng Nguyễn Duy
được chú ý đến như một gương mặt thơ có tiềm năng. Hoài Thanh đã nhận
xét: “Thơ anh thƣờng hay cảm xúc và suy nghĩ trƣớc những chuyện lớn nhỏ
quanh mình. Cái điều ở ngƣời khác có thể chỉ là thoáng qua thì ở anh nó lắng
sâu và dƣờng nhƣ dừng lại…Dẫu sao cũng chỉ là bƣớc khởi đầu, thơ anh có
thể còn nhiều hứa hẹn” [63]. Trong tập Cát trắng, chiếm số lượng lớn là
những bài thơ viết về người lính, về những điều đã cảm nhận trên các nẻo
đường chiến tranh: Hầm chữ A, Chiều khẩu đội, Bầu trời vuông, Cát trắng,
…Còn lại là những bài thơ viết về tình yêu và lẽ sống ở đời: Nhớ, Xó bếp, Hơi
ấm ổ rơm,… Những năm chiến đấu trong chiến trường cũng là thời gian
Nguyễn Duy lăn lộn trong cuộc sống, mở rộng tầm mắt, căng phồng ngực để
đón nhận vào tâm hồn mình những sắc, mầu, hương thơm, mật ngọt và cả
những đắng cay của cuộc sống. Thơ viết ra vừa là để trang trải “món nợ” với
đời, vừa là những bước chân trên chặng đường dài tự tìm và tự khẳng định
mình. Tập thơ chưa thật đặc sắc, nhưng ta cũng đã có thể tìm được nhiều tứ
thơ hay:


17

Tôi say sắc chiều ƣơm chín đỏ cánh đồng
Chiều bồn chồn chảy tím dòng sông
Chiều dát bình minh theo đƣờng viền núi
Ráng chiều nung nấu màu chờ đợi
Ơi chiều khẩu đội tôi say
(Chiều khẩu đội)
Cong cong võng bạt anh nằm

Khuyên lên nền lá vành trăng lƣỡi liềm
(Võng trăng)
Thơ Nguyễn Duy thời kỳ này đã đậm giọng điệu triết lý. Để thể hiện
giọng điệu triết lý ấy, nhà thơ thường dùng ngôn ngữ giàu hình tượng với từ
ngữ gợi cảm, liên tưởng. Cách sử dụng ngôn ngữ kiểu như thế ta bắt gặp ở rất
nhiều các bài thơ khác như: Tre Việt Nam, Khúc dân ca, Võng trăng, Hơi ấm
ổ rơm, Tiếng chim bạn bè…
Tóm lại, trước năm 1975, thơ trữ tình Nguyễn Duy mang nặng ý thức
trách nhiệm của thế hệ trước vận mệnh của tổ quốc. Những vần thơ được sinh
ra từ lửa đạn, mang theo hơi thở của chiến trường, mang theo nhịp đập của
một tâm hồn trẻ trung sôi nổi. Cái tôi ấy cũng trăn trở, suy ngẫm nhưng vẫn
mang nhiều mầu sắc sử thi. Để chuyển tải nội dung thơ mang cảm hứng sử
thi, tác giả đã sử dụng bút pháp lãng mạng cách mạng. Trong đó điểm nhấn là
lớp ngôn ngữ giản dị nhưng vẫn bay bổng, giàu tính nhạc, tính biểu cảm.
1.2.1.2.Giai đoạn sau 1975
Xu hướng chung của quá trình vận động thơ ca Việt Nam từ sau 1975
là đi từ cảm hứng sử thi đến cảm hứng thế sự, đời tư. Giai đoạn thơ trữ tình
sau 1975 đã bớt đi ít nhiều chất mượt mà, ngôn ngữ hoa mĩ trau chuốt, thêm
vào đó là sự xuất hiện của chất đời thường trước tác động của hiện thực cuộc
sống. Nguyễn Duy cũng không là ngoại lệ.


18

Lời “tiên đoán” của Hoài Thanh đã không nhầm: với tập Ánh Trăng, sự
nghiệp thi ca của Nguyễn Duy thêm một lần toả sáng. Đó là giải A cùng với
Hoa trên đá của Chế Lan Viên trong giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam.
Tập thơ Ánh trăng chỉ có khoảng 30 bài nhưng diện đề tài khá rộng. Ánh
trăng đã bao quát được hầu khắp các vùng của đất nước. Cùng chung một cái
gốc nhân bản và một tâm hồn nhân hậu, thế mà ở thơ Nguyễn Duy, mỗi khu

vực địa lý vẫn có những nét khác nhau. Đồng bằng Bắc bộ hiện ra sau một
khúc dân ca, hoặc một luỹ tre. Hàm súc và gợi cảm biết bao, là những câu thơ
về ruộng đồng miền bắc:
Vỏ ốc trắng những luống cày phơi ải
Bờ ruộng bùn lấm tấm dấu chân cua
(Tuổi thơ)
Giọt sƣơng muối co ro đầu nhánh mạ
Nhức nhối bàn chân phì phọp thở trong bùn
(Lời ấm áp từ gió lạnh)
Tuy nhiên chất hiện thực chỉ thực sự thể hiện rõ trong sáng tác của
Nguyễn Duy từ sau những năm 1986. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) đã thổi một luồng sinh khí mới vào đời sống tinh thần xã hội. Văn học
nghệ thuật cũng vì thế mà nhập vào dòng chuyển động ấy. Thơ trữ tình giai
đoạn này chuyển hướng mạnh mẽ vào các chủ đề chính là các vấn đề xã hội,
nhân thế. Nhà thơ đặt lên hàng đầu những suy nghĩ cá nhân và bộc lộ những
chính kiến của mình. Cũng vì vậy, thời kỳ này, ta thấy Nguyễn Duy có nhiều
bài thơ mang tính chất thời sự, được dư luận chú ý. Đặc biệt, Nguyễn Duy đã
cho ra đời nhiều tập thơ như: Mẹ và em (1987), Đãi cát tìm vàng (1987),
Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Sáu và tám (1994), Về (1994), Tình
tang (1995), Vợ ơi (1995), Bụi (1997)…


19

Tập sơ tuyển Mẹ và em (1987) là tập thơ đặc sắc nhất. Hầu hết những
bài thơ hay nhất trong đời thơ Nguyễn Duy đều nằm trọn trong tập thơ ấy: Tre
Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng, Đò Lèn, Cầu Bố, Ngồi buồn nhớ mẹ
ta xưa, Sông Thao, Đà Lạt một lần trăng…Các tập thơ còn lại tuy không
phải bài nào cũng đặc sắc nhưng chúng đã góp phần quan trọng làm nên sự
nghiệp, phong cách thơ ông. Chủ đề chính trong thơ lúc này số phận của con

ngƣời, là công cuộc xây dựng và đổi mới đất nƣớc. Cảm hứng chính của tập
thơ này là cảm hứng thế sự, đời tƣ
Viết về số phận con người, Nguyễn Duy gây xúc động cho người đọc
bởi tấm lòng trăn trở, chia sẻ của tác giả:
Cái sang xúc phạm cái nghèo
Cái ngay xúc phạm cái khèo bẩm sinh.
(Xẩm ngọng)
Hậu hoa hậu còn gập nghềnh lắm
Thắng cũng thƣơng mà thua cũng thƣơng.
(Hoa hậu vườn nhà ta)
Những bài thơ viết về làng quê nghèo của Nguyễn Duy trong thời kỳ
này mang vẻ đẹp chân thật, đậm chất suy tư. Tác giả thể hiện sự thiêng liêng
và tôn kính đối với những người nông dân cần cù, nhẫn nại, giàu lòng nhân ái,
dù trong khó khăn gian khổ vẫn trong sáng, đẹp đẽ cao thượng, hình tượng
làng quê:
Làng ta ở tận làng ta
Mấy năm một bận con xa về làng
Gốc cây hòn đá cũ càng
Trâu bò đủng đỉnh nhƣ ngàn năm nay.
(Về làng)


×