Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Chuyên đề tốt nghiệpNghiên cứu biến động diện tích rừng bình quân trên đầu người của xã Nà Tấu, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.1 KB, 42 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của Ban Giám hiệu nhà trường, Ban Chủ nhiệm khoa Nông
Lâm - Trường đại học Tây Bắc. Em đã tiến hành thực tập tốt nghiệp tại UBND xã Nà
Tấu, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên từ ngày 20/6/2016 đến ngày 2/11/2016. Thời
gian thực tập đã kết thúc và em đã có kết quả cho riêng mình.
Trong quá trình thực tập cũng như trong quá trình hoàn thiện khóa luận tốt
nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Giám hiệu nhà trường, Ban
Chủ nhiệm khoa Nông Lâm - Trường đại học Tây Bắc và các thầy cô giáo trong
Khoa. Đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của cô giáo: Th.s Bùi Thị Hoa Mận, người đã
trực tiếp, tận tình hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này em xin tỏ lòng sâu sắc đến tất cả các thầy cô giáo trong khoa đã
dạy dỗ em trong suốt quá trình học tập. Cảm ơn UBND xã Nà Tấu đã giúp đỡ tạo điều
kiện cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Do thời gian và cũng như khả năng của bản thân có hạn nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy các cô để
khóa luận của em được hoàn thiện tốt hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
Sơn La, tháng năm 2016
Sinh viên

Lò Văn Nguyên


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng4.1. Quy mô dân số xã Nà Tấu năm 2015(Đơn vị người)
Bảng 4.2. Mật độ dân số xã Nà Tấu phân theo bản qua các năm
Bảng 4.3. Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên qua các năm (%)
Bảng 4.4. Hiện trạng rừng của xã Nà Tấu qua các năm


Bảng4.5. Diện tích rừng bình quân trên đầu người của xã Nà Tấu qua các năm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
UBND - HDND
GDP
FAO
NCKH
HTX
GTVT
NXB

Đọc là
Uỷ ban nhân dân – hội đồng nhân dân
Tổng sản phẩm quốc nội
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
Nghiên cứu khoa học
Hợp tác xã
Giao thông vận tải
Nhà xuất bản


ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số thế giới ngày càng gia tăng đặc biệt sau những năm 50, 60 của thế kỉ
XX. Sự gia tăng dân số đã ảnh hưởng đến các vẫn đề về tài nguyên thiên nhiên trên thế
giới. Trong đó đặc biệt quan trọng là tài nguyên rừng. Dân số tăng lên đòi hỏi nhu cầu
về lương thực thực phẩm, nơi ở, chất đốt, gỗ,... cũng tăng lên nhanh chóng. Chính
những điều này đã dẫn đến diện tích tài nguyên rừng giảm đi một cách nhanh chóng
trong những năm gần đây.

Việt Nam là một nước có dân số đông. Năm 2011, dân số Việt Nam đạt mốc 90
triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á. Với một đất
nước có diện tích thuộc loại nhỏ, mật độ dân số Việt Nam đứng loại hàng đầu trên thế
giới với hơn 250/km2. Dân số tăng nhanh cùng một số nguyên nhân khác đã khiến tài
nguyên rừng của nước ta suy giảm một cách nghiêm trọng cả về diện tích cũng như
chất lượng rừng. Tỉ lệ che phủ trong những năm gần đây có tăng lên một cách đáng kể
nhưng so với một quốc gia ¾ diện tích là đồi núi thì Việt Nam vẫn bị coi là có độ che
phủ thấp. Hơn nữa, là một nước nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu kinh
tế, tập quán du canh du cư vẫn còn tồn tại ở những khu vực miền núi khiến tài nguyên
rừng của nước ta ngày càng bị suy giảm chưa kể đến sự đô thị hóa nhanh chóng, mở
rộng diện tích đất nông nghiệp,... đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên rừng,...
Xã Nà Tấu, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên là một trong những xã miền núi
phía Bắc của tổ quốc, tài nguyên rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội và môi trường cho địa phương và những vùng lân cận. Tuy nhiên,
sự gia tăng dân số trong nhiều năm gần đây đã tác động không nhỏ đến tài nguyên
rừng của xã Nà Tấu, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn đó tác giả lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu
biến động diện tích rừng bình quân rừng trên đầu người của xã Nà Tấu, huyện
Điện Biên, tỉnh Điện Biên”

5


PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Tác động của gia tăng dân số đến tài nguyên đất đã được rất nhiều các tác giả
trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Đầu tiên phải kể đến Repetto và Homles nghiên
cứu về sức ép của dân số lên các tài nguyên (1983) trong đó có tài nguyên rừng. Theo
mô hình đơn giản thì sự suy thóai và ô nhiễm môi trường ở cùng một nơi tùy thuộc

vào 3 yếu tố: (1) số người dân, (2) số đơn vị năng lượng mỗi người sử dụng và (3)
khối lượng của sự suy thoái và ô nhiễm môi trường do mỗi đơn vị năng lượng gây ra
(Miller, 1993). Garcina – Montiel và Scatena (1994) đã đưa ra những nghiên cứu cho
thấy những hoạt động của con người đã góp phần đáng kể trong việc thay đổi cấu trúc
và thành phần rừng nhiệt đới. Tác giả Dubey và cộng sự với những nghiên cứu liên
quan đến sử dụng công thức toán học để tính toán tác động của hoạt động công nghiệp
và gia tăng dân số đến sự suy giảm tài nguyên rừng (1997). Năm 2011 tác giả Asongu
Simplice và Jingwa Brain đã thực hiện một nghiên cứu tại Châu Phi – một khu vực có
mức độ gia tăng dân số cao nhất trên thế giới về Gia tăng dân số và sử dụng bền vững
tài nguyên rừng. Tạp chí Universal Journal of Management and Social Sciences ở
Nigieria, số 1; Tháng 12 năm 2011 về một nghiên cứu tại địa phương (Ikom) đã đưa ra
những giải pháp để giảm thiểu áp lực dân số đến hệ sinh thái rừng, để người dân có thể
tận dụng những nguồn lợi từ rừng mà không làm suy giảm chất lượng rừng,...thế nào
có thể các người trích xuất các tài nguyên mà không làm giảm chất lượng môi
trường,..
Theo ước tính của các nhà khoa học, khi dân số thế giới phát triển đến một
ngưỡng nào đó thì nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ cạn kiệt, gia tăng tỷ lệ thất nghiệp,
tỷ lệ phạm tội, tỷ lệ tử vong ở trẻ em... và đó chính là điểm giới hạn của Trái Đất.
Hành tinh của chúng ta có thể chỉ là một đốm sáng nhỏ trên bản đồ vũ trụ
nhưng đối với con người, nó thực sự rộng lớn. Tất nhiên, phần lớn Trái Đất - khoảng
70% được bao phủ toàn là nước và chỉ cần vào Google tìm kiếm thì bạn sẽ biết diện
tích toàn bộ đất liền trên Trái Đất cộng lại ước tính khoảng 150 triệu km vuông.

6


Kênh giáo dục trên YouTube về khoa học, văn hóa, nghệ thuật và lịch sử - Life
Noggin gần đây đã bắt đầu nghiên cứu xem Trái Đất có khả năng chứa được bao nhiêu
người, không chỉ xét theo ý nghĩa chứa đựng thông thường mà còn xét theo bao nhiêu
người có thể tồn tại được với nguồn tài nguyên hữu hạn của Trái Đất. Hiện tại, dân số

thế giới đã đạt 7 tỷ người nhưng con số này sẽ tăng nhanh trong những năm tới nhờ
vào những tiến bộ của y học cũng như chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Theo dự kiến, dân số thế giới sẽ là 10 tỷ người tính đến cuối thế kỷ 21.
Hãy cùng suy nghĩ về thương lai loài người! Liệu có một thời điểm nào mà khả
năng hỗ trợ sự sống của Trái Đất đạt tới giới hạn? Liệu chúng ta sẽ luôn có đủ thức ăn
và nước uống để ai cũng được ăn no, ngủ kĩ và cảm thấy hạnh phúc? Nếu bạn đang có
suy nghĩ bi quan và nghiêng về câu trả lời là "không" thì cũng hoàn toàn dễ hiểu vì
hiện tại, nguồn lực trên Trái Đất đang dần cạn kiệt: đất đai xói mòn và biến đổi khí hậu
toàn cầu ảnh hưởng tới trồng trọt, chăn nuôi - hai nguồn cung cấp lương thực, thực
phẩm chủ yếu cho con người. Chính vì thế, theo ước tính của các chuyên gia, chất
lượng cuộc sống của chúng ta sẽ bắt đầu thay đổi theo chiều hướng xấu đi khi dân số
thế giới đạt tới con số 9 - 10 tỷ người bởi đến thời điểm đó, nguồn tài nguyên thiên
nhiên sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu của con người, gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ
tội phạm và tỷ lệ tử vong ở trẻ em cũng sẽ tăng lên.
Nạn phá rừng là một vấn đề ngày càng tăng tại nhiều nơi trên thế giới nghiên
cứu này là đánh giá hiệu quả của việc tăng dân số về tài nguyên rừng
Khu Wollega Đông nói chung và Haro Limu woreda nói riêng. Các dữ liệu được sử
dụng cho nghiên cứu này đã được thu thập từ 89 hộ nông dân đầu rút ra từ bốn kebeles
huyện Haro Limmu. Xác suất tỷ lệ với kỹ thuật lấy mẫu kích thước đã được sử dụng
để lựa chọn các hộ nông dân từ bốn hiệp hội nông dân, đó là lựa chọn bởi các kỹ thuật
lấy mẫu ngẫu nhiên. Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng cách sử dụng bảng câu hỏi có
cấu trúc. Trong Ngoài ra, dữ liệu thứ cấp được chiết xuất từ các nguồn có liên quan để
bổ sung các dữ liệu thu được từ các cuộc khảo sát.
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng sự tăng trưởng dân số tác động rất
lớn về phát triển lâm nghiệp theo cách của mở rộng đất nông nghiệp, sử dụng gỗ như
các nguồn năng lượng và đáp ứng yêu cầu đầu vào trong nông nghiệp Hoạt động. Hỏi
sử dụng các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình trong việc giảm thiểu tác động của tăng

7



trưởng dân số trên lâm phát triển. Ethiopia với 79 triệu (CSA, 2008) người dân sống
trong một mức độ địa lý là 1,1 triệu km2 có một GDP 6,1 tỷ $, 39% trong số đó là đóng
góp của nông nghiệp, khi đó 85% dân số là người phụ thuộc cho sinh kế (Amare,
2013).
Rừng là tài nguyên cung cấp nhiều lợi ích cho xã hội. Ngoài việc cung cấp gỗ,
lâm cung cấp một môi trường sống cho động vật hoang dã, trang web giải trí, hoang
dã, bảo vệ rừng đầu nguồn và nhiều lợi ích khác. Nó có thể cũng hấp thụ khí carbon
dioxide (Dealon, 1993).
Tác động của những thay đổi về nhân khẩu học về rừng và môi trường thường
được thảo luận về năng lực thực hiện sinh học, tức là số lượng tối đa của cá nhân mà
một nguồn tài nguyên có thể duy trì. Tuy vậy, nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc mang
năng lực, chẳng hạn như phát triển kinh tế, quá trình chính trị-xã hội, thương mại,
công nghệ, và tiêu dùng ưu đãi (Bijendra, 2009). Hiện đã có một sự gia tăng ổn định
trong tốc độ tăng trưởng dân số từ năm 1960 nhưng sau khi dân số năm 1960 trong
Ethiopia bắt đầu tăng nhanh chóng do những thay đổi trong điều kiện kinh tế-xã hội
trên thế giới (Amare, Năm 2013).
Theo Amare (2013) song song với tăng trưởng dân số kinh tế-xã hội và nhanh
chóng thấp, có đất suy thoái đã ảnh hưởng toàn vẹn sinh thái của đất nước. Ví dụ, độ
che phủ rừng của Ethiopia là 40% vào đầu của 20 thứ thế kỷ nhưng đã giảm xuống còn
2,2% hiện nay. Quá trình suy thoái đất làm cho lớn khu vực không thích hợp cho nông
nghiệp. Bởi vì đất hàng đầu và thậm chí một phần của đất phụ ở một số khu vực đã
được loại bỏ, và đá hay đá trơ còn lại ở bề mặt. Lên đến nửa diện tích đất canh tác ở
vùng cao nguyên Ethiopia được ước tính là vừa phải để bị xói mòn nghiêm trọng, và
kết quả là, các vùng đất trước đây canh tác đang được (hoặc có được) quay sang đất
hoang (Amare, 2013).
Dân số tăng nhanh và các tiêu chuẩn kinh tế thấp sống ở Ethiopia đã mang lại
trong họ nhiều hậu quả tỉnh táo để che đất và sử dụng thay đổi, thay đổi khí hậu và
tình trạng thủy văn trong Quốc gia. Tại Ethiopia nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi có sự
mở rộng đất nông nghiệp tại các chi phí của khác sử dụng đất đai. Vùng cao nguyên

Ethiopia là mong manh và rừng, nước và đa dạng sinh học của nó là phụ thuộc vào khí
hậu, đó là hiện đang căng thẳng do áp lực dân số và quản lý yếu kém của các nguồn tài

8


nguyên thiên nhiên. Bị ảnh hưởng Các nghèo nền kinh tế của Ethiopia cần quản lý
khoa học của tài nguyên thiên nhiên và cân bằng dân số để đối phó với sự thay đổi khí
hậu và những thách thức của toàn cầu hóa của nền kinh tế. Như vậy, có một nhu cầu
để xem xét dân số và môi trường tương quan ở cấp quốc gia để đề nghị các phương
tiện để giảm thiểu ảnh hưởng xấu đến sức ép dân số đối với môi trường (Amare,
2013).
Nạn phá rừng là một vấn đề ngày càng tăng tại nhiều nơi trên thế giới nhiệt đới
và một trong những nước bị ảnh hưởng là Ethiopia. Ethiopia cũng là một trong những
nước nghèo nhất thế giới. Ngoài ra, sự lây lan của nghèo đói, suy thoái môi trường đặc
biệt là nạn phá rừng là do thanh toán bù trừ tại địa phương của rừng cho các nhu cầu
cá nhân của họ, chẳng hạn như xăng dầu, săn bắn, nông nghiệp, và vì lý do tôn
giáo. Nạn phá rừng là cắt bừa bãi hoặc quá mức Các nguyên nhân trực tiếp của sự
thoái hoá đất chủ yếu là phá rừng, chăn thả quá mức và hơn cắt, dịch chuyển trồng và
quản lý tồi nông nghiệp của các nguồn tài nguyên đất và nước: như không áp dụng đất
và nước hoạt động bảo tồn, luân canh cây trồng không đúng cách, sử dụng đất đai
biên, sử dụng chưa đầy đủ hoặc quá nhiều phân bón, quản lý yếu kém của hệ thống
thủy lợi và hơn nguồn nước ngầm. Các nguyên nhân gián tiếp đất suy thoái chủ yếu là
gia tăng dân số, thiếu đất, ngắn hạn hoặc quyền sử dụng đất không an toàn và nghèo
đói và áp lực kinh tế (FAO, 2001). Sự đóng góp kinh tế của rừng có liên quan đến sản
xuất, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, nguồn cung gỗ nhiên liệu, vật liệu xây dựng và gỗ
chủ yếu đến từ rừng (Negash, 2003).
Việc phá rừng nhanh chóng hoặc sự suy giảm rừng kèm theo nhiều loại khác
vấn đề môi trường được gây ra bởi sự mở rộng nông nghiệp và thu thập gỗ. Các yếu tố
chính góp phần nạn phá rừng là nghèo, mức thu nhập thấp và dân số tăng trưởng. Vì lý

do này các hộ gia đình phải phụ thuộc vào kéo mây cho tiêu thụ nhiên liệu của họ và
điều này là cản trở nông dân sử dụng phân hữu cơ như phân bón cho đất nông nghiệp
đã bị xuống cấp của họ. Sự đa dạng về địa hình đã góp phần vào sự hiện diện của sinh
học và văn hóa đa dạng phong phú. Một trong những giải pháp đề xuất để bắt giữ suy
thoái rừng ở một số khu vực là để giới thiệu các thực hành quản lý rừng có sự tham gia
bởi sự tham gia của người dân địa phương. Vì thế, Nghiên cứu này cố gắng để hiển thị
hiệu ứng của sự tăng trưởng dân số cao trên rừng tự nhiên ở Haro Limu và cũng cố

9


gắng đưa ra một số phân tích dựa trên phát hiện. Mục tiêu chung của nghiên cứu này là
để đánh giá hiệu quả của tăng dân số về tài nguyên rừng tại Khu Wollega Đông nói
chung và Haro Limu woreda nói riêng.
1.2. Ở Việt Nam
Là một quốc gia đông dân, dân số đã ảnh hưởng không nhỏ đến tài nguyên rừng
ở Việt Nam. Những vấn đề liên quan tới dân số sự suy giảm tài nguyên rừng có đã
được tác giả Nguyễn Viết Thịnh trong cuốn Dân số - tài nguyên – môi trường năm
1996 và Địa lí kinh tế xã hội đại cương (2011) phần môi trường và tài nguyên thiên
nhiên, tác giả đã đưa ra những tác động cơ bản giữa sự gia tăng dân số và rừng như sự
suy giảm diện tích rừng đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển, sự mở rộng diện
tích đất nông nghiệp thông qua việc chặt phá rừng,...những nguyên nhân khiến cho tài
nguyên rừng ngày càng suy giảm trên thế giới cũng như Việt Nam. Năm 2014, giáo
trình Dân số - tài nguyên – môi trường viết riêng cho sinh viên Đại học Tây Bắc của
tác giả Đỗ Thúy Mùi một lần nữa đưa ra những tác động và mối quan hệ giữa sự gia
tăng dân số và sự suy giảm tài nguyên rừng.Tác giả đưa ra những minh chứng cho thấy
ngoài việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp, nhu cầu về gỗ, củi, chất đốt của con
người cũng khiến cho tài nguyên rừng bị suy giảm.
Trong thời kỳ 1945 – 1975 cả nước mất khoảng 3 triệu ha rừng, bình quân
100.000 ha năm. Quá trình mất rừng diễn ra nhanh hơn ở giai đoạn 1975 – 1990: Mất

2,8 triệu ha, bình quân 140.000 ha/ năm. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong giai
đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình khai
hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su và khai thác gỗ
xuất khẩu. Tuy nhiên từ những năm 1990 – 1995, do công tác trồng rừng được
đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên. Về chất lượng, trước năm
1945 rừng nước ta có trữ lượng gỗ vào khoảng 200 – 300m 3/ha, trong đó các loài gỗ
quí như đinh, lim, sến, táu, nghiến, trai, gụ là rất phổ biến. Những cây gỗ có đường
kính 40 – 50cm chiếm tới 40 – 50% trữ lượng của rừng. Rừng tre nứa với những cây
tre có đường kính 18 – 20cm, nứa 4 – 6cm và vầu 8 – 12cm rất phổ biến (Hoàng Hòe,
1998). Hiện nay chất lượng rừng đã giảm sút đáng kể, chỉ còn chủ yếu là rừng nghèo
có giá trị kinh tế không cao. Trữ lượng gỗ rừng năm 1993 ước tính khoảng 525
triệu m3 (trung bình 76 m3/ha). Tốc độ tăng trưởng trung bình của rừng Việt Nam

10


hiện nay là 1 – 3m3/ha/năm, đối với rừng trồng có thể đạt 5 – 10 m 3/ha/năm (Castren,
1999). Ngoài tài nguyên gỗ, rừng Việt Nam cũng rất giàu có về các loài tre nứa
(khoảng 40 loài có ý nghĩa thương mại và khoảng 4 tỷ cây tre nứa); Song mây
có khoảng 400 loài; hàng năm khai thác khoảng 50.000 tấn. Trong rừng Việt Nam
cũng phong phú về các loài dược liệu, hiện đã biết được 3800 loài (Viện Dược liệu,
2002), trong đó có nhiều loài đã được biết và khai thác phục vụ cho việc chế biến
thuốc. Nhiều loài cây cho chất thơm, tanin, tinh dầu và dầu béo. Ngoài ra, rừng còn
cung cấp nhiều loại sản phẩm quý khác như cánh kiến, nấm, mật ong, hoa lan, thịt thú
rừng.
Hiện nay, có rất nhiều loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng cần
được bảo vệ như: cẩm lai (Dalbergia bariaensis), trầm hương (Aquilaria
crassna) sam bong(Amentotaya argotenia), thông tre(Podocarpus neriifolius), gõ đỏ
(Afzelia xylocarpa), trắc(Dalbergia


cochinchinensis), giao xẻ tua

(Sterospermum

ferebriatum), gạo bông len (Bombax insigne). Các loài động vật quý hiếm như: báo
gấm (Neophelis nebulosa), voọc quần đùi trắng (Trachipythecus francoisi delaconri),
gà lôi hồng tía (Lophura diardi), trĩ sao (Rheinartia ocellata), chồn bạc má
(Megogale personata geeoffrory), cu li lớn (Nycticebus coucang boddaert), bò
tót (Bos gaurus), cà tong (Cervus eldi), hổ (Panthera tigris).
Một số những bài bào cũng đã có những nghiên cứu nhỏ về tác động của gia
tăng dân số đến môi trường như Tác động của gia tăng dân số đến các vấn đề về môi
trường, tác giả Nguyễn Xuân Luận, Trung tâm quan trắc và bảo vệ môi trường. Tác
giả đã đề cập đến những tác động của gia tăng dân số trong đó đáng kể nhất là sự suy
giảm về diện tích rừng bình quân trên đầu người ở Việt Nam. Tác giả bài báo Gia tăng
dân số gây sức ép nặng nề lên tài nguyên rừng một lần nữa khẳng định cứ dân số tăng
lên 1% thì 2,5% rừng bị mất. Những nghiên cứu cơ bản trên là cơ sở quan trọng để tác
giả thực hiện đề tài.

11


PHẦN 2
MỤC TIÊU –NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu
Đánh giá sự biến động diện rừng bình quân trên đầu người của xã Nà Tấu,
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
Đề xuất giải pháp sử dụng hợp lí tài nguyên rừng xã Nà Tấu, huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1 Đối tượng nghiên cứu

Dân số và tình hình gia tăng dân số xã Nà Tấu, huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên
Sự biến động diện rừng bình quân trên đầu người của xã Nà Tấu, huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên
2.2.2 Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi lãnh thổ nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi toàn
bộ xã Nà Tấu.
Về thời gian: Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu đề tài khoảng thời gian từ
năm 2005 cho đến 2015
2.3. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1
Hiện trạng dân số và vấn đề gia tăng dân số xã Nà Tấu, huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên
Nội dung 2
Tác động gia tăng dân số đến diện rừng bình quân trên đầu người của xã Nà
Tấu, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên
2.1 Hiện trạng tài nguyên rừng xã Nà Tấu
2.2 Đánh giá biến động diện tích rừng bình quân trên đầu người
Nội dung 3
Một số giải pháp sử dụng hợp lí tài nguyên rừng xã Nà Tấu
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu, phân tích, thống kê

12


Thu thập số liệu là một việc rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học (NCKH).
Mục đích của thu thập số liệu (từ các tài liệu nghiên cứu khoa học có trước, từ quan sát
và thực hiện thực nghiệm) là để làm cơ sơ lý luận khoa học hay luận cứ chứng minh
giả thuyết hay các vấn đề mà nghiên cứu đã đặt ra.

Có 3 phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập số liệu từ tài liệu tham khảo.
Thu thập số liệu từ những thực nghiệm (các kết quả báo cáo,tổng kết …)
Thu thập số liệu phi thực nghiệm (lập bảng câu hỏi điều tra, phỏng vấn, thảo luận
nhóm…)
Yếu tố quyết định phương pháp thu thập số liệu:
Mục tiêu nghiên cứu, các biến số: quyết định các chỉ số cần thu thập.
Đối tượng nghiên cứu.
Loại nghiên cứu (định tính, định lượng, phối hợp, mô tả, phân tích…)
Nguồn thông tin thu thập: Sẵn có hay phải điều tra.
Phân tích : Là phương pháp nghiên cứu và xem xét lại những thành quả thực
tiễn trong quá khứ để rút ra kết luận bổ ích cho thực tiễn và khoa học.
Phương pháp này được sử dụng phổ biến hầu như trong tất cả các nghiên cứu
địa lý.Việc vận dụng phương pháp này đảm bảo tính kế thừa, sử dụng các thông tin đã
được kiểm nghiệm, tiết kiệm được thời gian và công sức. Để đánh giá chính xác các sự
vật hiện tượng, phải thu thập, thống kê các số liệu, phân tích đánh giá nó trên quan
điểm tổng hợp.Trên cơ sở những tài liệu thu thập được, việc tổng hợp sẽ giúp hệ thống
hoá 1 cách toàn diện và khái quát về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp thực địa
Thực địa là phương pháp nghiên cứu được thực hiên trên phạm vi nghiên cứu,
trực tiếp xuống điều tra để nắm rõ được mức độ , phạm vi nghiên cứu.
Tác giả sẽ tiến hành thực địa trong 3 đợt :trong vòng 1 tháng
Đợt 1 : tiến hành khảo sát
Khảo sát thực địa tại khu vực nghiên cứu , khảo sát sự biến động của dân số qua
các năm và sự biên động rừng qua các năm và so sánh.
Đợt 2 : Thực địa kết quả phỏng vấn
Kiểm chứng kết quả đã khảo sát được từ đợt 1

13



Đợt 3 : Thực địa kểm chứng
Xác định lại tính chân thực từ các kết quả khảo sát ,xem và sửa lại những thông
tin đã điều tra, khảo sát sai lệch .
Thực địa là phương pháp đặc thù trong nghiên cứu đối tượng địa lý. Việc tiếp
cận trực tiếp các đối tượng nghiên cứu cho phép thu thập các thông tin cập nhật, cụ
thể, chính xác là các tài liệu thành văn và các bản đồ không có ưu thế bằng.
Với phương pháp này, chúng ta có thể chủ động quan sát, điều tra, thu thập,
thực địa là cơ sở quan trọng để thẩm định lại tài liệu trong quá trình nghiên cứu.
Phương pháp sử dụng công nghệ thông tin, bản đồ, biểu đồ và số liệu thống kê
Trong phương pháp này tác giả sử dụng các công nghệ tích hợp trong máy tính,
xây dựng các cơ sở dữ liệu để vẽ ra các bản đồ ,biểu đồ kế thừa từ các số liệu khảo sát
thực địa, điều tra của tác giả.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận, đề tài còn sử dụng một số
công cụ hỗ trợ như các phần mềm Microsoft (Word, Excel,…) các công cụ này hỗ trợ
đắc lực trong việc xử lý các số liệu để làm cơ sở cho việc đánh giá hiện tượng và xu
hướng phát triển, đồng thời là cơ sở dữ liệu để thành lập hệ thống bản đồ, biểu đồ,
bảng số liệu nhằm góp phần xác định các đặc điểm phân bố, mức độ tập trung của đối
tượng nghiên cứu theo không gian và thời gian.
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này thực hiện một cách trực tiếp theo cấp bậc Xã xuống các bản,
làng để thu thập thông tin ,phân tích số liệu một cách chính xác và sát thực nhất, các
kết quả phỏng vấn sẽ được trot lọc thông tin viết thành báo cáo cụ thể về tình hình khu vực.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ như: phương pháp dự
báo, phương pháp so sánh,…

14


PHẦN 3

ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiện
3.1.1 Vị trí địa lý
Xã Nà Tấu là một xã vùng ngoài nằm ở phía đông bắc cách trung tâm huyện lỵ
Điện Biên 30km, có diện tích tự nhiên 7.442.69 ha tiếp giáp với các đơn vị hành chính
sau:
Phía Đông giáp xã Mường Đăng và xã Ảng Nưa, huyện Mường Ảng
Phía Tây giáp với xã Mường Pồn và xã Nà Nhạn, Huyện Điện Biên
Phía Bắc giáp với xã Mường Mươn, huyện Mường Chà và xã Mường Đăng huyện
Mường Ảng
Tổng diện tích đất tự nhiên của toàn xã là 7.442,69 ha, là xã có địa hình tương
đối phức tạp và cách xa thành phố nhưng nằm trên tuyến đường quốc lộ 279 nối hai
điểm kinh tế Điện Biên – Tuần Giao nên có điều kiện thuận lợi để phát triển giao lưu
kinh tế và phát triển hạ tầng.
3.1.2. Địa hình, địa mạo
Xã Nà Tấu là xã vùng cao có địa hinh tương đối phức tạp bao gồm núi cao trung
bình, độ dốc lớn, độ cao trung bình khoảng 900m so với mặt nước biển, bề mặt địa thế
nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Phần giữa cánh đồng tương đối bằng phẳng, đôi chỗ lượn sóng. Nhìn chung toàn
bộ cánh đồng xã Nà Tấu (khu vực sản xuất chính) có chiều nghiêng . Khu vực từ Tây
Bắc xuống Đông Nam địa hình này thích hợp với nhiều loại cây nông nghiệp như:
Lúa, ngô, rau đậu, cây công nghiệp ngắn ngày….Ngoài ra còn 1 số thung lũng và
những vùng đất thấp dọc theo các con suối thích hợp để deo trồng các loại cây lương
thực và cây thực phẩm.
3.1.3. Khí hậu – Thủy văn
3.1.3.1. Khí hậu
Nà Tấu có khí hậu đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng cao Tây Bắc,
trong một năm chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.

15



Mùa mưa: Kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, mùa này nóng ẩm, mưa
nhiều, lượng mưa tập trung vào các tháng 6,7,8. Nhiệt độ tối cao là 37 0C, thỉnh thoảng
có giông lớn và mưa đá khi chuyển tiếp mùa giữa hai mùa.
Mùa khô: Kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa này lạnh và khô hanh.
Nhiệt độ tối thấp là 50C, mùa này có gió Lào trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 4,
có sương muối và sương mù vào tháng 11,12,1.

a. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm từ 18 – 250C, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm cũng dao
động khá lớn (Đêm 100C, ngày 250C)
b. Lượng mưa.
Lượng mưa trong năm từ 1500 – 2200mm/ năm. Lượng mưa khá cao nhưng
phân bố không đồng đều, mưa lớn thường tập trung từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm
( nhất là vào tháng 6,7,8 lượng mưa chiếm 80% lượng mưa trong năm tập trung vào
các tháng này).
Số ngày mưa trong năm vào khoảng 123 ngày, trong năm có 6 tháng lượng mưa
trung bình dưới 80 mm / tháng. Vì vậy việc chống xói mòn rửa trôi cho đất trong mùa
mưa và giữ ẩm trong mùa khô là rất cần thiết.
Lượng nước bốc hơi trung bình khoảng 899,6 6mm/ năm, lượng nước bốc hơi
mạnh nhất vào các tháng từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm, bình quân mỗi tháng gần
100mm.
c. Gió, bão
Có 2 hướng gió thịnh hành theo mùa;
Hướng gió thổi theo hướng núi, theo các mùa, gió mùa đông bắc thổi từ tháng 9
hàng năm đến tháng 2 năm sau gió đông bắc thường gây ra giá lạnh, khô hanh gây ảnh
hưởng không tốt đến sản xuất cây trồng, vật nuôi. Bão thường xảy ra vào mùa mưa
vào các tháng 6,7,8.
Sương muối: Căn cứ vào số liệu và kết quả điều tra nhiều năm cho thấy về mùa

đông đôi khi cung chịu ảnh hưởng của những đợt sương mối khá nặng, nhứng đợt xuất
hiện sương muối thường là các vùng thung lũng vì vậy công tác dự báo kịp thời và có
các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ cây trồng, đàn gia súc.

16


Sương mù: Sương mù thường xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 5 năm sau trung
bình hàng năm có từ 90 đến 100 ngày có sương mù xuất hiện bắt đầu từ 16 giờ đến 8
giờ sáng hôm sau, mật độ trung bình khá dày, nhiều lúc tầm nhìn không quá 10m trong
các tháng 12, tháng 1, tháng 2 nhiều ngày sương mù xuất hiện cả ngày.
d. Độ ẩm không khí
Độ ẩm trung bình 83%, tháng 3 có độ ẩm thấp nhất (78%).
3.1.3.2. Thủy văn.
Là xã địa hình núi cao, chia cắt mạnh mùa mưa đến lưu tốc dòng chảy của các
con suối lớn, chảy mạnh, về mùa khô ít mưa nhiều khe suối nhỏ cạn nước.
Mạng lưới sông, khe suối ở khu vực này khá dày đặc do kiến tạo của địa hình, trải đều
trên các địa bàn xã. Xã Nà Tấu là đầu nguồn của hệ thống sông Năm Rốm và các con
suối lớn như suối Huổi Hạ, Huổi Chính, Huổi Khóa và Nặm Luống chảy từ Tây Bắc
xuống Đông Nam và hướng Đông Bắc xuống Tây Nam. Lưu lượng nước và tốc độ
dòng chảy cũng phị thuộc theo mùa. Hiện nay vì rừng đầu nguồn bị khai thác quá mức
cho phép nên thường xảy ra lũ lớn vào mùa mưa nhưng lại trở thành suối cạn vào mùa khô.
Với những điều kiện tự nhiên như trên đã gây không ít khó khăn đối với vật
nuôi, cây trồng trong sản xuất nông – lâm nghiệp.
3.1.4. Các nguồn tài nguyên
3.1.4.1. Tài nguyên đất
Xã Nà Tấu có tổng diện tích đất tự nhiên là 7.442,69 ha, trong đó nhóm đất nông
nghiệp 5.669,09 ha chiếm 76,17%, đất phi nông nghiệp là 263,22 ha chiếm 3,54% và
nhóm đất chưa sử dụng 1.510,38 ha chiếm 20,29%. (Theo số liệu thống kê đất đai xã
Nà Tấu năm 2011).

Đất đai của xã được hình thành do quá trình phong hóa tại chỗ của đá mẹ và do
công tác cuả quá trình canh tác. Loại đất khai thác sử dụng hiện nay, đất đai của xã
gồm các loại đất chính sau:
Đất vàng nhạt trên đá cát (Fq). Đất vàng nhạt trên đá cát Fq có diện tích 1567
ha chiếm 20,37% tổng diện tích tự nhiên.
Đất đỏ vàng trên đá sét (Hs). Đất mùn vàng đỏ trên đá sét Hs có diện tích 2356

17


ha chiếm 30,62% tổng diện tích tự nhiên.
Đất vàng đỏ trên đá macsma axit (Ha). Đất mùn vàng đỏ trên đá Mácma axít Ha
có diện tích 3770,17 chiếm 49% tổng diện tích tự nhiên
Về mặt chất lượng, nhìn chung tầng đất canh tác nơi đây mỏng, có nguồn gốc
hình thành từ đá vôi, granit, sa thạch, trầm tích... Lớp đất ở Nà Tấu có độ phì khá,
thuận lợi cho phát triển các loại cây trồng hàng năm và cây ăn quả
Bảng 3.1.4. Bảng phân loại và cơ cấu các loại đất
STT

Nhóm đất

A

Nhóm đất đỏ vàng

1.

Vàng nhạt trên đá cát

B


Nhóm đất mùn vàng đỏ

1.
2.

Đất mùn vàng đỏ trên đá sét
Đất mùn vàng đỏ trên đá
Mácma axít
Tổng

Ký hiệu
Fq
Hs
Ha

18

Cơ cấu
(%)
20,37

Diện tích
(ha)
1567

20,37

1567


79,62

6126,17

30,62
49

2356
3770,17

100

7693,17


3.1.4.2. Tài nguyên rừng
Theo số liệu điều tra trên địa bàn xã có 4.651,35 ha đất lâm nghiệp chiếm
62,5% diện tích tự nhiên, trong đó: diện tích đất rừng phòng hộ là 3.817,81 ha, đất
rừng sản xuất là 833,54 ha.
Rừng có chủng loại cây phong phú và đa dạng: cây bôi, cây gỗ lớn và cây dược
liệu quý... Trong rừng có nhiều thú quý sinh sống.
Xã có cảnh quan môi trường trong lành, có quần thể rừng tự nhiên tạo nên cảnh
quan thiên nhiên hùng vĩ, có thảm thực vật đa dạng phù hợp với điều kiện phát triển
sinh thái.
Hàng năm xã đã chỉ đạo các thôn bản và kiểm lâm trên địa bàn thường xuyên
tuyên truyền cho nhân dân về công tác trồng rừng và bảo vệ rừng. Theo báo cáo của
Uỷ ban xã năm 2011 diện tích rừng bảo vệ năm thứ 3,4,5 được 1.682,5 ha, khoanh
nuôi tái sinh năm thứ 4,5 được 950,6 ha. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2011 đạt 46,5%.
3.1.4.3. Cảnh quan môi trường
Rác của các hộ được sử dụng bằng cách chôn lấp tại quanh khu nhà ở hoặc đốt,

vứt xuống suối. Nước thải tự ngấm xuống đất hoặc trực tiếp đổ xuống suối.
Rác thải và nước thải của các cơ sở, sơ chế biến chưa được thu gom xử lý đảm
bảo vệ sinh theo quy định.
Hiện nay có khoảng 5% số hộ chăn nuôi có cơ sở đảm bảo vệ sinh theo tiêu
chuẩn.
Việc giữ gìn vệ sinh môi trường chưa được quan tâm và đầu tư đúng nức. Các
cơ sở sản xuất không đảm bảo yêu cầu môi trường, các khu vực dân cư chưa có quy
định về nơi đổ và thu gom giác gây ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe và cảnh quan
môi trương.
Tuy nhiên, về cơ bản môi trường sinh thái chưa bị ôi nhiễm nặng.
3.1.4.4 Tài nguyên nước
Tài nguyên nước của xã gồm 2 loại chính như sau:

19


Sông, suối, khe suối tự nhiên trên địa bàn. Sông Nặm Rốm và các suối lớn
trong xã như suối Huổi Hạ, Huổi Chinh, Huổi Khóa và Nậm Luống và các khe nước
nhỏ là nước chính phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Hệ thống các suối, khe
suối có trữ lượng nước phụ thuộc theo mùa, phần lớn nước vào mùa mưa, mùa khô
nước cạn kiệt, hiện tượng thiếu nước xảy ra đặc biệt ở các thôn bản vùng cao.
Tài nguyên nước ngầm hiện nay chưa có đánh gía cụ thể nào về nguồn tài
nguyên nước ngầm trong vùng nói chung và trong xã nói riêng. Nguồn nước chính
cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt của người dân vẫn là nguồn nước suối và các giếng
khơi do bà con tự đào.
3.2. Điều kiện kinh tế, văn hoá - xã hội
3.2.1. Dân cư
Toàn xã có 1.230 hộ với 5.808 khẩu tập trung tại 32 thôn. Quy mô khoảng 4,7
người/hộ, tỷ lệ tăng dân số năm 2011 là 1,1%. Tổng số lao động trong độ tuổi lao
động trên địa bàn xã là 2.817 người. Trong đó làm việc trong lĩnh vực nông, lâm

nghiệp 2.753 người, chiếm 97,7%.
Mỗi dân tộc, có đều có phong tục, tập quán riêng và được lưu giữ qua nhiều thế hệ, đã
tạo nên đời sống văn hóa, lễ hội phong phú trong vùng. Các dân tộc luôn đoàn kết, cần
cù và sáng tạo trong lao động, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, cùng giúp nhau
phát triển kinh tế, bài trừ và xóa bỏ dần các hủ tục tệ nạn xã hội để nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân
Đến hết năm 2011, toàn xã có 32 thôn bản với số dân là 5.808 người với 1.220
hộ, bình quân 4,70 người/hộ, tỉ lệ tăng dân số tự nhên là 1,2%; mật độ dân số 77,2
người/km2; Gồm 4 dân tộc sinh sống đó là dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc
H’Mông, dân tộc Hoa.
Xã có 4 dân tộc chính cùng nhau sinh sống:
Dân tộc Kinh 393 người chiếm 6,76% dân số
Dân tộc Thái 4.813 người chiếm 82,8% dân số
Dân tộc H’Mông 508 người chiếm 8,7% dân số của xã
Dân cư xã phân bố trên địa bàn 32 bản, hình thành 9 cụm và khu dân cư tập
trung; cum dân lớn nhất 307 hộ với 1.418 người, cụm dân cư nhỏ nhất 44 hộ với 225
người. Đặc điểm chung của các cụm dân cư thường là nơi chung sống tập trung với số

20


lượng đông cuả một cộng đồng dân tộc, có chung phong tục tập quán tạo nên những
nét đặc trưng trong đời sống văn hóa và sản xuất.
3.2.2. Tình hình phát triển kinh tế
* Tăng trưởng kinh tế:
Trong những năm gần đây dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ - HĐND – UBND xã
Nà Tấu đã có nhiều cố gắng từng bước vươn lên đạt được những thành tích quan trọng
về nhiều mặt. Sản xuất lương thực có nhiều bước phát triển khá. Diện tích, năng xuất,
sản lượng đều tăng, bình quân lương thực trên đầu người đạt 400kg/ năm phòng trào
thâm canh tăng vụ được đẩy mạnh nhờ tăng vụ, tăng diện tích lúa nước nên đã giảm

được diện tích lúa nương, hạn chế phá rừng làm nương rẫy, cây công nghiệp ngắn
ngày như đậu, ngô, lạc được trú trọng trong phát triển các loại rau quả, thực phẩm
phong phú đa dạng đáp ứng được thi trường trong xã.
Chăn nuôi đại gia súc tăng trưởng bình quân 5%/ năm, chăn nuôi cá phát triển
hàng năm bán ra thị trường từ 20 – 30 tấn cá thịt, tổ chức chăn nuôi theo hộ, gia đình,
nhóm hộ và HTX kiểu mới.
Công tác khoanh nuôi bảo vệ rừng có nhiều tiến bộ rừng được phục hồi nhanh,
độ che phủ rừng đạt 41,40%.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế xã là nông, lâm nghiệp đạt 70%, Thương mại - Dịch vụ đạt 15%
công nghiệp và tiểu thụ công nghiệp đạt 15%. Nông ngiệp phát triển theo mô hình
Nông lâm kết hợp chăn nuôi đại gia súc phát triển mạnh theo hình thức hộ gia đình,
nhóm hộ.Nhìn một cách tổng quát nền kinh tế Nà Nhạn hiện nay là nền kinh tế thuần
nông chậm phát triển, quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm
phương thức sản xuất lạc hậu, chủ yếu vẫn là tự cung, tự cấp với quy mô hộ gia đình,
trình độ dân trí không đồng đều nên còn nhiều hạn chế trong việc thay đổi tập quán
sản xuất, nguồn lao động dồi dào nhưng thiếu kinh nghiệm thâm canh cũng như thiếu
kiến thức về sản xuất hàng hoá
a. Ngành kinh tế nông nghiệp
Nà Tấu là một xã khó khăn của huyện Điện Biên, kinh tế chậm phát triển. Chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp là chính thông qua các hoạt động trồng trọt lúa nước, canh

21


tác trên nương. Việc tổ chức, quản lý sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo hộ gia đình,
sản xuất trồng trọt chiếm 90% tổng thu nhập của toàn xã.
Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo của Đảng ủy, HDND và UBND Xã về
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2005 – 2010
và kết quả bước đầu trong chương trình xây dựng nông thôn mới, ngành nông nghiệp

của xã đã phần nào thay đổi diện mạo.
Về trồng trọt
Cây trồng hàng năm
Tổng diện tích gieo trồng năm 2011 là 1.534 ha. Tổng sản lượng lương thực có
hạt đạt 4.650,42 tấn. Bình quân lương thực trên đầu người đạt 616kg/người/năm.
Trong đó:
Cây lúa là cây trồng chính với diện tích gieo trồng cả năm là 378 ha.
Diện tích lúa vụ chiêm: 120 ha, năng suất trung bình đạt 45 tạ/ha, sản lượng đạt
1.161 tấn.
Diện tích lúa nương: 450 ha, năng suất đạt 15 tạ/ha, sản lượng đạt 675 tấn
Cây ngô: Tổng diện tích ngô cả năm là 388 ha, tổng sản lượng ngô đạt 649 tấn.
Diện tích ngô thu đông: 35 ha, năng suất trung bình đạt 30 tạ/ha, sản lượng đạt
105 tấn
Diện tích ngô xuân hạ: 353 ha, năng suất trung bình đạt 45 tạ/ha, sản lượng đạt
1.588,5 tấn
Cây sắn: Diện tích gieo trồng 60 ha, năng suất 80 tạ/ha, sản lượng đạt 2.880 tấn.
Cây chất bột (dong riềng): diện tích trồng cây dong riềng 250 ha, năng suất 80
tạ/ha, sản lượng đạt 17.500 tấn.
Cây đậu tương: Diện tích trồng cả năm là 25 ha, năng suất đạt 15 tạ/ha, sản
lượng đạt 37,5 tấn.
Cây lạc: Diện tích gieo trồng là 30 ha, năng suất đạt 15 tạ/ha, sản lượng đạt 45 tấn.
Cây lâu năm
Cây ăn quả: Diện tích cây ăn quả trên địa bàn khoảng 27 ha, chủ yếu là cách mang
lại giá trị kinh tế cao.

22


Về chăn nuôi
Chăn nuôi gia súc, gia cầm nghề chăn nuôi của xã Nà Tấu chưa phát triển, quy

mô nhỏ, mới đang ở mức chăn nuôi hộ gia đình với phương thức chăn thả, tận dụng
thức ăn dư thừa. Trong năm 2011, trước những diễn biến phức tạp của dịch bệnh đã
xảy ra và diễn biến phức tạp, tâm lý của các hộ chăn nuôi chưa thực sự yên tâm tin
tưởng để đầu tư lớn và phát triển ngành chăn nuôi, đồng thời giá trị trên thị trường
biến động. UBND xã đã tập trung tuyên truyề vận động nhân dân phát triển và ổn định
đàn gia súc, gia cầm và đã thực hiện được những kết quả nhất định.
Đàn trâu: 1.190 con;
Đàn bò: 119 con;
Đàn dê: 395 con;
Đàn lợn: 2.800 con;
Đàn gia cấm: 18.500 con;
Công tác quản lý nhà nước tuyên truyền vận động nhân dân đẩy mạnh chăn
nuôi vệ sinh phòng dịch, đồng thời gắn liền với công tác quản lý nhà nước đặc biệt là
công tác quản lý buôn bán vận chuyển đàn gia súc trên địa bàn và kiểm dịch vùng giáp
danh.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2011:
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt: 28,5 tấn/năm;
Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng đạt: 17,8 tấn/năm;
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt: 78 tấn/năm;
Sản lượng thịt hơi gia cầm và thủy cầm đạt: 4,5 tấn/năm;
Nuôi trồng thủy sản
Nà tấu là xã có tiềm phát triểm nuôi trồng thủy sản với diện tích mặt ao, hồ lớn
và người dân trong xã chú trọng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sán
Diện tích ao nuôi: 39,5 ha, tập trung chủ yếu tại một số đội như: Bản
Cang,1,2,3, Bản Xôm 1,2, Nà Luống 1,2, Lán Yên, Hua Rốm, Nà Tấu 3, 5 và diện tích
phân tán tại các bản. Người dân tận dụng nguồn nước tự nhiên để cải tạo những diện
tích ruộng trũng thành ao nuôi trồng thủy sản, tuy nhiên hiện đang phát triển theo ình
thức tự phát, chưa định hướng phát triển theo hình thức sản xuất hàng hóa, hình thức
chủ yếu được nuôi theo phương thức quản canh để tận dụng nguồn thức ăn. Kỹ thuật


23


nuôi của người dân còn hạn chế do đó cá hay bị mắc dịch bệnh, ảnh hưởng tới năng
suất, năng suất trung bình đạt 1,5 tấn/ha, sản lượng đạt 59,25 tấn/năm.
b. Ngành kinh tế công nghiệp, thương mại – dịch vụ và xây dựng cơ bản.
Công nghiệp: Hiện nay xã chưa có cụm công nghiệp hoạt động.
Tiểu thủ công nghiệp: Hiện nay trên địa bàn xã có làng nghề mây tre đan Nà
Tấu khá phát triển .
Xây dựng: Hiện nay, ngành công nghiệp xây dựng xã chưa phát triển, chỉ có
một sộ hoạt động tự phát như khai thác cát sỏi...
c. Thương mại, dịch vụ và du lịch
Điểm chợ: Hiện nay xã có quy hoạch điểm chợ xã, tuy nhiên do chưa được đầu
tư xây dựng nên người dân vẫn chủ yếu trao đổi mua bán tại điểm chợ tự phát ở khu
trung tâm dọc tuyến đường QL 279.
Hợp tác xã: Trong xã hiện tại có 2 HTX hoạt động gồm: HTX nuôi trồng thủy
sản và HTX sản xuất chế biến dong riềng.
Cơ sở sản xuất kinh doanh: Theo thống kê 2011 cả xã có 4 cơ sở chế biến dong
riềng công suất đạt 50 tấn/ngày, 2 cây xăng, 77 điểm thương mại, dịch vụ chủ yếu kinh
doanh hàng tạp hóa và dịch vụ ăn uống giải khát, 27 điểm hoạt động tron lĩnh vực
công nghiệp nhẹ như sửa chữa và xay sát... và nhiều điểm kinh doanh khác.
Du lịch: Trong xã chưa có hoạt động khai thác du lịch.
3.2.3. Thực trạng phát triển khu dân cư
Nà Tấu là một xã thuần nông do địa địa hình phức tạp nên dân cư phân bố rải
rác trên địa bàn, có32 bản phân thành các cụm dân cư. Mỗi điểm dân cư là nơi chung
sống tập trung với số lượng đông của một cộng đồng dân tộc, có phong tục, tập quán
tạo nên những nét đặc trưng trong đời sống văn hóa và sản xuất.
Phần lớn dân cư phân bố dọc theo QL 279 nên rất thuận lợi cho việc giao lưu
kinh tế, học tập, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, lưu thông hàng hóa đặc biệt là nông
sản, vật tư phục vụ sản xuất.

Các khu dân cư hiện đã dần ổn định, tuy nhiên tổ chức không gian trong các
khu dân cư chưa phù hợp cho đi lại và sinh hoạt của người dân, do vậy cần cải, chỉnh
trang một số điểm dân cư cho phù hợp.

24


3.2.4. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng
a. Giao thông
Hệ thống đường trục xã, liên xã bao gồm 4 tuyến với tổng chiều dài 22 km,
trong đó co18 km đường được đầu tư cứng hóa, đảm bảo tiêu chuẩn của Bộ GTVT,
chiếm 81,8%, còn lại 4 km đường đất chưa đạt yêu cầu, chiếm 18,2%.
Tuyến đường trục chính quốc lộ 279 qua xã (đoạn Nà Ngám – Tằng Quai) chiều
dài 9 km được xây dựng đạt tiêu chuẩn IV giao thong miền núi của Bộ GTVT, chiều
rộng nền đường 9 m, chiều rộng mặt đường 7 m, kết cấu đường nhựa.
Tuyến đường trục liên xã chợ Nà Tấu – Mương Phăng dài 0,55 km, bề rộng nền
đường là 5 m, bề rộng mặt đường là 3,5 m, kết cấu đường nhựa đảm bảo chất lượng
giao thong cấp A của Bộ GTVT.
Tuyến đường trục liên xã đoạn, Phiêng Ban – Mường Lăng, dài 4 km, bề rộng
nền đường là 5 m, bề rộng mặt đường là 3,5 m, , kết cấu đường nhựa đảm bảo chất
lượng giao thong cấp A của Bộ GTVT.
Tuyến đường trục liên xã đoạn Hồng Líu – Pá Khôm, dài 4 km, bề rộng nền
đường 7 m, bề rộng mặt đường là 5 m, kết cấu đường đất, chưa đảm bảo đường giao
thông cấp A của Bộ GTVT.
Hệ thống đường trục bản, liên bản
Có tổng số 17 tuyến, chiều dài 28,2 km. Trong đó đường trục bản, liên bản
được cứng hóa đạt tiêu chuẩn cấp B theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT (theo Quyết định
315/QĐ – GTVT ngày 23/2/2011 của Bộ GTVT), CHIẾM 9,9%, còn lại 25,4 km chưa
đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ GTVT; chiếm 0%.
Hệ thống đường ngõ bản, nội bản

Tổng chiều dài các đường ngõ bản 42,6 km. Trong đó có 0 km đường ngõ bản
sạch, không lầy lội vào mùa mưa đạt tiêu chuẩn cấp đường của Bộ GTVT; chiếm 0%.
Hệ thống đường giao thông nội đồng
Chiều dài trục chính nội đồng 32,8 km. Trong đó có 0 km đường được cứng
hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện đạt tiêu chuẩn cấp đường của Bộ GTVT.

25


×