Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận hành chính so sánh SO SÁNH nền HÀNH CHÍNH GIỮA VIỆT NAM và TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.86 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
Môn học: HÀNH CHÍNH SO SÁNH

Tên đề tài: SO SÁNH NỀN HÀNH CHÍNH GIỮA VIỆT NAM VÀ
TRUNG QUỐC

Năm 2013


MỤC LỤC:
Mở đầu
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH CHÍNH SO
SÁNH
1.1. Khái niệm
1.2. Phương pháp so sánh trong nghiên cứu hành chính học
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của hành chính so sánh
Chương 2: NỘI DUNG SO SÁNH NỀN HÀNH CHÍNH GIỮA VIỆT
NAM VÀ TRUNG QUỐC
2.1. Khái quát về Trung Quốc và tổ chức hành chính Trung Quốc hiện nay
2.1.1. Khái quát chung về Trung Quốc
2.1.2. Khái quát về tổ chức hành chính Trung Quốc hiện nay
2.2. Khái quát về Việt Nam và tổ chức hành chính Việt Nam hiện nay
2.2.1. Khái quát chung về Việt Nam
2.2.2. Khái quát về tổ chức hành chính Việt Nam hiện nay
2.3. So sánh nền hành chính giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay
2.3.1. Những điểm giống nhau
2.3.2. Những điểm khác nhau
Chương 3: ĐÁNH GIÁ VỀ NỀN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM VÀ TRUNG
QUỐC
3.1. Ưu điểm nền hành chính Việt Nam và Trung Quốc
3.2. Hạn chế nền hành chính Việt Nam và Trung Quốc


3.3. Nguyên nhân
3.4. Giải pháp
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: Cải cách nền
hành chính nhà nước là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước, với mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch có đủ
năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có
hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành
mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống
và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Như vậy, năng lực, hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của nền hành chính vừa là mục tiêu của cải cách hành chính,
vừa là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu cải cách hành chính, trước tiên cần
làm rõ và nhận thức đầy đủ các khái niệm về năng lực, hiệu lực và hiệu quả
của nền hành chính nhà nước.
Nền hành chính Việt Nam trong những năm qua đã có sự tiến bộ rõ rệt
vầ hiệu quả hoạt động và chức năng phục vụ mọi mặt hoạt động của đời
sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, nền hành chính
Việt Nam còn nhiều yếu kém cần khắc phục.
Trung Quốc là nước láng giềng lớn của Việt Nam với những đặc điểm
tương đồng về thể chế chính trị, đặc điểm về địa lý, con người... Sự phát
triển vượt bậc của Trung Quốc trong những năm qua đã cho thấy đường lối
phát triển đúng đắn của một đất nước Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những ưu
điểm về nền hành chính nhà nước là một vấn đề cần tìm hiểu, nghiên cứu.
Chính vì vậy, em chọn đề tài "so sánh nền hành chính Việt Nam và

Trung Quốc" làm đề tài tiểu luận môn học " hành chính so sánh " với mong


muốn từ thực trạng nền hành chính hai nước, rút ra được những ưu, nhược
điểm, đưa ra những giải pháp thực hiện và vận dụng vào cải cách nền hành
chính Việt Nam một cách hiệu quả nhất.


Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH
CHÍNH SO SÁNH
1.1. Khái niệm
Hành chính so sánh là một bộ phận quan trọng cấu thành nên hành
chính học. Trong các lĩnh vực nghiên cứu hành chính, hành chính so sánh có
vị trí đặc biệt: hành chính so sánh cung cấp các trị thức mới, những hiểu biết
về các nền hành chính khác nhau để làm nền tảng cho sự phát triển của khoa
học hành chính. Đó là lĩnh vực đặc biệt nghiên cứu các đặc điểm, môi
trường phát triển của các mô hình hành chính và những bộ phận cấu thành
của các nền hành chính khác nhau nhằm tìm kiếm các quy luật chung và cả
những điểm khác biệt giữa chúng. Các nhà nghiên cứu về hành chính đều
tương đối thống nhất quan điểm cho rằng hành chính so sánh tập trung vào
nghiên cứu sự giống nhau và khác nhau giữa các nền hành chính trên thế
giới. Tuy nhiên, các nghiên cứu so sánh trong lĩnh vực hành chính còn được
áp dụng rộng rãi để so sánh sự giống nhau và khác nhau trong phương thức
tổ chức và nguyên tắc hoạt động của bộ máy hành chính trong nội bộ một
quốc gia, qua đó tìm ra các quy luật vận động chung cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của chúng.
Việc nghiên cứu các mô hình hành chính khác nhau trên thế giới cho
phép rút ra các bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào việc nâng cao hiệu
lực và hiệu quả của hoạt động hành chính nhà nước ở mỗi quốc gia. Các nhà
nghiên cứu đều thừa nhận rằng các yếu tố lịch sử, địa lý, văn hóa,…có thể

ảnh hưởng rất lớn tới cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính
và khiến cho nền hành chính ở các nước khác nhau được tổ chức và hoạt
động không giống nhau. Tuy nhiên, cũng có những nguyên tắc chung chi


phối tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính của mọi quốc gia trên thế
giới. Nhận xét về vấn đề này, Leonard D. White cho rằng, một nguyên tắc
hành chính “là hữu ích với tư cách hướng dẫn các hành động trong nền hành
chính công của nước Nga thì cũng hữu ích đối với nền hành chính công của
Vương quốc Anh, Irắc và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.
Hành chính so sánh đã xuất hiện từ thời cổ đại trong các nghiên cứu
so sánh về nhà nước và chính trị. Tuy nhiên, lĩnh vực này mới chỉ được quan
tâm và phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu của Thế kỷ XX, đặc biệt là từ sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở Mỹ, vào cuối thập kỷ 40 của Thế kỷ XX,
hành chính so sánh đã xuất hiện với tư cách là một môn học trong các
chương trình đào tạo hành chính. Đến những năm 1950 đã có hàng loạt các
hội thảo bàn về hành chính so sánh và năm 1960 Hội hành chính so sánh
thuộc Hiệp hội Hành chính công Hoa Kỳ đã ra đời.
Ở Việt Nam, hành chính so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu mới
mẻ. Trong tiến trình đổi mới và hội nhập, việc nghiên cứu, học tập kinh
nghiệm của các nước để vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam để “đi tắt đón đầu”, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển có ý
nghĩa quan trọng. Trong bối cảnh hiện nay, khi cải cách hành chính đã và
đang được Đảng và Nhà nước ta xác định là trọng tâm của cải cách nhà
nước, các nghiên cứu trong lĩnh vực hành chính so sánh giành được sự quan
tâm mạnh mẽ và có cơ hội để phát triển. Chính phủ đã xác định một trong
các bài học của cải cách hành chính là: Cải cách hành chính phải xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam với đặc điểm, truyền thống, bản sắc Việt Nam; đồng
thời tham khảo, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm của các nước về tổ chức và
hoạt động quản lý để vận dụng thích hợp.



1.2. Phương pháp so sánh trong nghiên cứu hành chính học
1.2.1. Phương pháp so sánh trong nghiên cứu khoa học
So sánh là một trong những phương pháp nghiên cứu quan trọng đối
với hầu hết các khoa học, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mục
đích của phương pháp so sánh là qua việc nghiên cứu so sánh các trường
hợp cụ thể để rút ra nhận thức về các quy luật vận động chung của sự vật và
hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Nhiều nhà khoa học đã đánh giá so sánh
không chỉ là một phương pháp nghiên cứu khoa học mang tính thực nghiệm
mà đã từ rất lâu nó được sử dụng như một biện pháp để tìm ra các quy luật
chung và những nét đặc thù riêng của sự vật, hiện tượng.
1.2.2. Sử dụng phương pháp so sánh trong hành chính học
Trong các nghiên cứu về hành chính học, phương pháp so sánh đóng
vai trò quan trọng. Hành chính so sánh không chỉ chỉ ra những khác biệt
giữa các nền hành chính khác nhau ở các quốc gia mà còn góp phần quan
trọng chỉ ra những quy luật chung, chi phối tổ chức và hoạt động của các
nền hành chính khác nhau trên thế giới, không phụ thuộc vào những đặc
điểm riêng có của mỗi quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu so sánh, các quốc gia
có thể rút ra các bài học, vận dụng các kinh nghiệm của các quốc gia khác
một cách thích hợp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động hành chính
ở quốc gia mình.
Thêm vào đó, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng
tăng đặt ra yêu cầu cấp bách phải hội nhập, tương đồng cả về cấu trúc tổ
chức, thể chế và hoạt động hành chính của nhà nước nhằm đáp ứng các yêu
cầu giải quyết công việc chung, mang tính toàn cầu. Các kết quả nghiên cứu
hành chính so sánh sẽ góp phần tích cực vào việc hình thành những kết cấu


tương đồng ở các nền hành chính khác nhau, phục vụ cho quá trình quản lý

nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Trong khi thừa nhận vai trò quan trọng của nghiên cứu hành chính
so sánh, cần phải khẳng định rằng hoạt động của bộ máy hành chính ở mỗi
quốc gia chỉ là một bộ phận cấu thành hoạt động của nhà nước và cả hệ
thống chính trị của quốc gia đó. Do đó, hoạt động hành chính bị chi phối
mạnh mẽ bởi định hướng chính trị đang chi phối quốc gia, lịch sử hình thành
quốc gia cũng như những đặc điểm phát triển khác nhau của quốc gia đó.
Các nghiên cứu so sánh hành chính có mối liên hệ mật thiết với các nghiên
cứu so sánh về chính trị phải được bắt nguồn từ thực tiễn vận hành của cả hệ
thống chính trị trong quốc gia.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của hành chính so
sánh 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu của hành chính so sánh
Đối tượng nghiên cứu của hành chính so sánh rất đa dạng. Đó
có thể là nền hành chính của các quốc gia khác nhau hay của một quốc gia
nhưng ở những thời điểm khác nhau, cũng có thể là các bộ phận của nền
hành chính của cùng một quốc gia nhưng tại các thời điểm khác nhau. Trong
khuôn khổ của chương trình này chỉ tập trung vào so sánh các nền hành
chính ở các quốc gia khác nhau.
Cách thức phân chia các quốc gia thành các nhóm theo những
tiêu chí nhất định có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu hành chính so
sánh. Mỗi nhóm quốc gia như vậy đều có đặc điểm chung nhất định có ảnh
hưởng tới hệ thống hành chính nhà nước (chẳng hạn trình độ phát triển kinh
tế - xã hội, đặc điểm chung của văn hóa hành chính...) và do đó có thể nhận
thấy những đặc trưng chung nhất định về hành chính trong mỗi nhóm quốc
gia.


Nhìn chung, các quốc gia trên thế giới có thể được phân chia
thành hai nhóm chủ yếu là các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát
triển theo tiêu chí mức độ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, việc phân chia

này chỉ mang tính tương đối: nhiều quốc gia thuộc nhóm đang phát triển
cũng có mức thu nhập bình quân đầu người rất cao và trình độ phát triển
công nghiệp cũng cao. Bên cạnh đó, cuixng có những nước có những đặc
thù nhất định có thể được xem xét riêng như các nước chuyển đổi hay các
nước XHCN.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu của hành chính so sánh
Hành chính so sánh có thể được thực hiện trên nhiều cấp độ
khác nhau, ở các phạm vi khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu.
Các nghiên cứu có thể được thực hiện trên phạm vi của nền hành chính quốc
gia, tức là nghiên cứu tổng thể nền hành chính nhà nước của một quốc gia,
cũng có thể được nghiên cứu trên từng lĩnh vực chuyên sâu của nền hành
chính như thể chế hành chính, tổ chức bộ máy hành chính, nhân sự hành
chính nhà nước và tài chính công...
1.3.3. Nhiệm vụ của hành chính so sánh
Mục đích chủ yếu của các nghiên cứu hành chính so sánh là mô
tả và khám phá những đặc điểm và các quy tắc chi phối hoạt động hành
chính nhà nước ở các quốc gia khác nhau để đưa ra các kiến thức mới. Việc
phân tích, nghiên cứu, đánh giá các nền hành chính khác nhau trên thế giới
với tư cách là một chỉnh thể hoặc từng yếu tố cấu thành nên các nền hành
chính đó giúp chúng ta tìm ra các điểm tương đồng và khác biệt trong hoạt
động hành chính giữa các quốc gia này.
Tuy nhiên, mục đích của hành chính so sánh không chỉ dừng lại
ở mức đưa ra các thông tin về các nền hành chính hay các bộ phận của
chúng mà mục đích cuối cùng của các nghiên cứu là trên nền tảng của những


kiến thức, hiểu biết đó vận dụng một cách thích hợp các bài học kinh nghiệm
của các nước vào thực tiễn hoạt động hành chính của từng quốc gia nhằm
nâng cao năng lực. hiệu lực và hiệu quả hoạt động thực tế của bộ máy hành
chính của các quốc gia đó.



Chương 2: NỘI DUNG SO SÁNH NỀN HÀNH CHÍNH GIỮA
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
2.1. Khái quát về Trung Quốc và tổ chức hành chính Trung Quốc
hiện nay
2.1.1. Khái quát chung về Trung Quốc
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được gọi tắt là Trung Quốc là một
quốc gia ở khu vực Đông Á. Đây là nước đông dân nhất trên thế giới với
hơn 1,3 tỷ người, phần nhiều thuộc sắc tộc Hán. Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo dưới chế độ một chính trị một
đảng. Đơn vị hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gồm 22 tỉnh,
năm khu tự trị, bốn thành phố trực thuộc Trung ương (Bắc Kinh, Thiên Tân,
Thượng Hải, Trùng Khánh) và hai đặc khu hành chính (Hồng Kông và Ma
Cao). Ngoài ra Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng tuyên bố Đài Loan,
hiện do Trung Hoa Dân Quốc kiểm soát là tỉnh thứ 23. Thủ đô của Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Bắc Kinh.
Với diện tích 9.6 triệu km2, Trung Hoa là quốc gia lớn thứ ba hoặc
thứ tư thế giới về tổng diện tích và lớn thứ hai về diện tích đất. Đây là quốc
gia có địa hình đa dạng với với cao nguyên và sa mạc ở khu vực phía bắc
gần Mông Cổ và Siberi của Nga, rừng cận nhiệt đới ở miền nam gần Việt
Nam, Lào, Myanma. Địa hình ở phía tây gồ ghề với các dãy núi cao
Himalaya và Thiên Sơn hình thành biên giới tự nhiên với Ấn Độ và các quốc
gia thuộc khu vực Trung Á. Ngược lại, phía đông là vùng đồng bằng thấp và
có 14.500 km chiều dài bờ biển. Các biển tiếp giáp với Trung Quốc là Bột
Hải, Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông. Hiện nay, Trung Quốc có
đường biên giới giáp 14 quốc gia khác ở châu Á. Phía bắc giáp Mông Cổ,


Nga; phía tây giáp Afghanistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan; phía

nam giáp Nepal, Bhutan, Myanma, Ấn Độ, Lào, Việt Nam; phía đông giáp
Bắc Triều Tiên và Biển Hoa Đông. Hiện nay, có thể coi rằng Trung Quốc là
nước có đường biên giới tương đối dài trên thế giới. Ngày 12 tháng 1 năm
2011, Quốc hội Tajikistan đã bỏ phiếu đồng ý trao 1,000 km vuông (386,1
dặm vuông) lãnh thổ cho Trung Quốc, chấm dứt cuộc tranh chấp kéo dài
nhiều thế kỷ giữa hai nước.
Trung Hoa là nước lớn thứ tư trên thế giới và có rất nhiều dạng khí
hậu và địa dư khác nhau.
Trung Hoa là một cường quốc và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới
theo GDP danh nghĩa (thứ hai theo PPP) và là thành viên thường trực của
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, cũng như thành viên của các tổ chức quốc
tế như WTO, APEC, G-20 và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Trung Quốc là
quốc gia được công nhận có sở hữu vũ khí hạt nhân và là quốc gia có quân
đội chính quy lớn nhất thế giới. Trung Quốc được nhiều học giả, nhà phân
tích quân sự, nhà phân tích kinh tế đánh giá là một siêu cường tiềm năng.
Trung Quốc là quốc gia đa dân tộc với 56 dân tộc được chính thức
công nhận. Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới khoảng 1,3 tỉ
người. Dân tộc chủ yếu là người Hán chiếm tới 93% số dân cả nước và là
dân tộc chính trên một nửa diện tích Trung Quốc. Ngay người Hán cũng là
một dân tộc tương đối không đồng nhất về mặt chủng tộc, có thể coi như là
sự kết hợp giữa nhiều nhóm dân tộc khác nhau cùng chia sẻ những đặc điểm
văn hóa và ngôn ngữ chung. Người Kinh (người Việt) tạo thành một nhóm
nhỏ tập trung ở vùng ven biển Quảng Tây.
2.1.2. Khái quát về tổ chức hành chính Trung Quốc hiện nay


Cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Trung Quốc là Quốc vụ
viện. Đó vừa là cơ quan chấp hành của Đại hội đại biểu toàn quốc, vừa là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất. Giống như Chính phủ Việt Nam, Quốc
vụ viện có nhiệm vụ thực hiện Hiến pháp, luật và Nghị quyết do Đại hội đại

biểu toàn quốc ban hành và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Đại hội
và Ủy ban thường trực. Quốc vụ viện bao gồm: Thủ tướng là người đứng
đầu Quốc vụ viện, chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của Quốc hội viện;
các Phó Thủ tướng, một số Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ. Số lượng các Phó Thủ tướng và Ủy viên Quốc vụ viện, các
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thể thay đổi tùy theo nhiệm
kỳ và do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc quyết định.
Quốc vụ viện do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu và
chịu trách nhiệm trước Đại hội và Ban Thường trực. Nhiệm vụ của Quốc vụ
viện tường ứng với nhiệm kỳ của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc. Chức
vụ Thủ tướng do Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến cử, Chủ tịch
nước đề cử và do Hội nghị toàn thể Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
thông qua với đa số phiếu và sau đó được Chủ tịch nước bổ nhiệm. Các
thành viên khác của Quốc vụ viện do Thủ tướng đề cử và được Đại hội đại
biểu nhân dân toàn quốc thông qua. Ủy viên Quốc vụ là chức danh nhỏ hơn
Phó Thủ tướng nhưng lớn hơn các Bộ trưởng. Thủ tướng, Phó thủ tướng và
các Ủy viên Quốc vụ không được đảm nhiệm vị trí quá hai nhiệm kỳ.
Số lượng các Bộ và cơ quan ngang Bộ ở Trung Quốc cũng có
sự thay đổi tương tự như ở các nước chuyển đổi kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường. Nếu trước thời kỳ đổi mới Trung Quốc có gần
100 Bộ và cơ quan ngang Bộ thì hiện nay số Bộ và cơ quan ngang Bộ đã
giảm xuống đáng kể. Trong nhiệm kỳ hiện tại, Trung Quốc có 24 Bộ và 3 cơ


quan ngang Bộ là Ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình, Ngân hàng nhà
nước và Kiểm toán nhà nước.
Hành chính ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được tổ chức
thành bốn cấp: ngoài cấp Trung ương, địa phương gồm có cấp tỉnh (tỉnh và
thành phố thuộc Trung ương), huyện (huyện và thành phố cấp huyện) và
hương, trấn. Bên cạnh đó còn có một số đơn vị hành chính được tổ chức đặc

biệt. Tại các cấp địa phương, có tổ chức cơ quan đại diện là Đại hội đại biểu
nhân dân (tương tự như Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính. Cơ quan
hành chính ở địa phương được tổ chức theo chế độ thủ trưởng, bao gồm
người đứng đầu (tỉnh trưởng, huyện trưởng hay hương (trấn) trưởng, một số
phó thị trưởng và các cơ quan chuyên môn giúp việc.

2.2. Khái quát về Việt Nam và tổ chức hành chính Việt Nam hiện
nay
2.2.1. Khái quát chung về Việt Nam
Việt Nam (chính thể hiện tại: Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
là một quốc gia nằm ở phía đông bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông
Nam

Á.

Việt

Nam

phía

bắc

giáp Trung

Quốc,

phía

tây


giáp Lào và Campuchia, phía tây nam giáp vịnh Thái Lan, phía đông và phía
nam giáp biển Đông và có hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và
xa bờ, có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng
trên 1 triệu km²). Trên biển Đông có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được
Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng vẫn đang bị tranh chấp với các quốc
gia khác như Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia và Philippines.


Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Mặt trận dân
tộc giải phóng miền nam Việt Nam giành chiến thắng trước Việt Nam Cộng
hòa ở miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai miền Bắc-Nam được thống
nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976 nước Việt Nam được đặt Quốc hiệu là Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2.2. Khái quát về tổ chức hành chính Việt Nam hiện nay
Chính phủ là một chủ thể có quyền lực để thi hành luật pháp trong
một tổ chức quốc gia hay một nhóm người ở tầm quốc gia.
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan
hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp tối cao của Nhà
nước.
Chính phủ do Chủ tịch nước thành lập và Quốc hội phê chuẩn, có
nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội (5 năm). Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ,
Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ
tịch nước và phê chuẩn chính phủ mới. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính
phủ, các Phó Thủ tướng, các bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ
tướng, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
Quốc hội bầu Thủ tướng theo đề nghị của của Chủ tịch nước trong

số các đại biểu Quốc hội và chỉ có Quốc hội mới có quyền miễn nhiệm, bãi
nhiệm Thủ tướng trước khi kết thúc nhiệm kỳ.
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm
các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.


Căn cứ vào nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ.
Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước.
Theo Điều 112 Hiến pháp 1992, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Một là, lãnh đạo công tác của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các
cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn
hệ thống thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ
và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ
viên chức Nhà nước;
Hai là, bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân;
tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật
trong nhân dân;
Ba là, trình dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc
hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Bốn là, thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế
quốc dân; thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lý và bảo
đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn



hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước;
Năm là, thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và
làm tròn nghĩa vụ của mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của
xã hội; bảo vệ môi trường;
Sáu là, củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng
các lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố
tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước;
Bảy là, tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà
nước; công tác thanh tra và kiểm tra Nhà nước, chống quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân;
Tám là, thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; ký
kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ; chỉ đạo
việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc tham gia; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính
đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
Chín là, thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính
sách tôn giáo;
Mười là, quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành
chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;


Mười một là, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều
kiện để các tổ chức đó hoạt động có hiệu quả.

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính
phủ có quyền ban hành các Nghị quyết, Nghị định. Các quyết định của
Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán
thành, trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý
kiến của Thủ tướng Chính phủ.
Ở Việt Nam, được chia làm 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Chính quyền địa phương ở Việt Nam được gọi là Ủy ban Nhân dân,
bao gồm các cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Người đứng đầu chính quyền địa
phương là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Về danh nghĩa, chức vụ này do Hội
đồng Nhân dân cùng cấp bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường,
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân sẽ đồng thời là Phó Bí thư Đảng ủy Đảng Cộng
sản Việt Nam của địa phương. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân hai thành phố trực
thuộc Trung ương lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đồng thời sẽ là
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Các cơ quan
của chính quyền địa phương cấp huyện là các phòng (Phòng Giáo dục,
Phòng Tài chính, ...), của chính quyền cấp tỉnh là các sở (Sở Giáo dục, Sở
Tài chính, ...). Trách nhiệm cũng như quyền hạn về thuế của chính quyền địa
phương các cấp từng được xác định khá rõ ràng thông qua Luật Ngân sách
Nhà nước 1996, song trở nên thiếu rõ ràng trong Luật Ngân sách Nhà nước
2002 (chỉ quy định chung cho toàn bộ khối địa phương đại diện là chính
quyền tỉnh, còn cụ thể từng cấp địa phương có trách nhiệm và quyền gì thì
để cho chính quyền tỉnh quyết định).


2.3. So sánh nền hành chính giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện
nay
2.3.1. Những điểm giống nhau
Thứ nhất, cơ quan hành pháp của hai nước đều do Quốc hội bầu ra
và là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Người đứng đầu Chính phủ, các
thành viên Chính phủ đều là Đảng viên Đảng Cộng sản và phải là đại biểu

Quốc hội.
Thứ hai, phạm vi quản lý của Chính phủ hai nước đều rất rộng lớn,
bao gồm các lĩnh vực như ngoại giao, an ninh, tài chính, kinh tế, văn hóa,
giáo dục…
Thứ ba, cả hai nước đều có chế định Chủ tịch nước là nguyên thủ
quốc gia.
Thứ tư, phân cấp hành chính ở hai nước đều chia thành chính quyền
Trung ương và địa phương.
2.3.2. Những điểm khác nhau
Thứ nhất, ở Trung quốc cơ quan hành pháp gọi là Quốc vụ viện. Ở
Việt Nam gọi là Chính phủ. Cơ cấu của Quốc vụ viện Trung Quốc gồm có
Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Uỷ viên Quốc vụ, các bộ trưởng và người đứng
đầu các cơ quan ngang bộ. Ở Việt Nam cơ cấu Chính phủ có Thủ tướng, Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng và người đứng đầu cơ quan ngang bộ.
Thứ hai, Quốc vụ viện Trung Quốc không quản lý hoạt động
của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Quân đội Trung Quốc đặt dưới
sự lãnh đạo của Ủy ban Quân sự Trung ương Nhà nước – cơ quan do Quốc
hội bầu ra.


Thứ ba, phân cấp hành chính ở Trung Quốc theo Hiến pháp Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa quy định có 3 cấp hành chính: tỉnh, huyện và
hương. Nhưng trên thực tế Trung Quốc được chia thành 5 cấp đơn vị hành
chính là: tỉnh, địa khu, huyện, hương và thôn. Tuy nhiên cấp thôn không
phải là cấp chính quyền chính thức.
Trung Quốc có 33 đơn vị hành chính cấp tỉnh, không kể Đài Loan,
gồm:
+ Tỉnh có 22 đơn vị. Đài Loan (Trung Hoa Dân quốc) được Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa coi là tỉnh thứ 23 của mình.
+ Khu tự trị: có 5 đơn vị.

+ Đặc khu hành chính: có 2 đơn vị.
+ Thành phố trực thuộc Trung ương: có 4 đơn vị. Tuy là thành phố
nhưng vẫn có khu vực nông thôn trực thuộc dưới dạng các huyện ngoại
thành. Điển hình như thành phố Trùng Khánh là nơi khu vực nông thôn rộng
lớn hơn khu vực thành thị rất nhiều.
Cấp này tương đương cấp tỉnh tại Việt Nam.
Thứ tư, Quốc vụ viện Trung Quốc gồm 28 bộ và ủy ban : Bộ ngoại
giao, Bộ quốc phòng, Ủy ban phát triển và cải cách nhà nước, Bộ giáo dục,
Bộ khoa học công nghệ, Ủy ban công nghiệp khoa học công nghệ quốc
phòng, Ủy ban dân tộc nhà nước, Bộ công an, Bộ an ninh quốc gia, Bộ kiểm
tra, Bộ dân chính, Bộ tư pháp, Bộ nhân sự, Bộ lao động và đảm bảo xã hội,
Bộ đường sắt, Bộ giao thông, Bộ tài nguyên lãnh thổ, Bộ xây dựng, Bộ
thông tin viễn thông, Bộ thủy lợi, Bộ y tế, Bộ nông nghiệp, Bộ thương mại,
Ủy ban dân số và kế hoạch hóa gia đình, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc,
Cơ quan kiểm toán.


Ở Việt Nam có 22 bộ và cơ quan ngang bộ.
Thứ năm, ở Trung Quốc người đứng đầu cơ quan hành chính địa
phương là tỉnh trưởng, có toàn quyền quyết định mọi vấn đề ở địa phương
mình. Còn ở Việt Nam người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương là
Chủ tịch tỉnh kiêm Phó Bí thư tỉnh ủy, thành ủy có quyền lực không lớn như
tỉnh trưởng ở Trung Quốc.

Chương 3: ĐÁNH GIÁ VỀ NỀN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM VÀ
TRUNG QUỐC
3.1. Ưu điểm nền hành chính Việt Nam và Trung Quốc
Cách thiết lập cơ quan hành chính bảo đảm sự công tâm, khách
quan. Các đại biểu Quốc hội là những con người ưu tú được nhân dân bầu
nên cho nên có sự sáng suốt trong lựa chọn ra những con người trong bộ

máy hành chính. Bộ máy hành chính Việt Nam, Trung Quốc từ Trung ương
đến địa phương ngày càng đơn giản, gọn nhẹ, bảo đảm quản lý tốt các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Cơ chế kiểm soát quyền lực của cơ quan hành pháp
ngày một cải thiện. Đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
ngày một nâng cao về trình độ và ý thức phục vụ nhân dân tốt hơn. Phân cấp
quản lý của nền hành chính hợp lý, rõ ràng. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan hành pháp và người đứng đầu các bộ phận được quy định rõ, cụ thể.
3.2. Hạn chế của hành chính Trung Quốc và Việt Nam
Về phía Trung Quốc, bộ máy của Quốc vụ viện quá cồng kềnh,
quyền lực tập trung vào một người đứng đầu các cơ quan dẫn đến tình trạng


quan liêu, hách dịch, lạm quyền. Trình độ dịch vụ công của chính quyền
được nâng cao rõ rệt, song vẫn khó lòng thỏa mãn được nhu cầu xã hội ngày
càng tăng; bộ máy các cơ quan chính quyền vẫn còn nhiều cồng kềnh, chức
trách chồng chéo, ảnh hưởng đến việc quản lý tổng quát đối với kinh tế - xã
hội; chế độ quản lý của chính quyền vẫn chưa hoàn thiện; chế độ quản lý dự
toán công, khống chế vốn hành chính còn phải cải cách hơn nữa; cách thức
quản lý và dịch vụ của chính quyền vẫn còn hạn chế, hiệu suất không cao,
không thích ứng với yêu cầu cạnh tranh của nền kinh tế; công dân hoặc
doanh nghiệp khi cần giải quyết thủ tục phải qua nhiều khâu, nhiều hạng
mục và nhiều cấp xét duyệt; môi trường đầu tư và môi trường thương nghiệp
cần cải thiện một cách cấp bách và cần thiết; tình trạng tham ô, tham nhũng
của một số cán bộ trong bộ máy hành chính vẫn xảy ra do chưa có quy định
cụ thể và có biện pháp phòng chống có hiệu quả, làm ảnh hưởng lòng tin
trong quần chúng nhân dân.
Về phía Việt Nam, Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng,
nhưng so với yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và
chủ động hội nhập quốc tế thì nền hành chính còn hiệu quả thấp. Nền hành
chính còn bộc lộ một số tồn tại, yếu kém sau:

Một là, hệ thống thể chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất
quán và trong một số lĩnh vực chưa bám sát quá trình chuyển đổi khó khăn
và phức tạp. Sự chưa đồng bộ của hệ thống thể chế một mặt thể hiện ở chỗ
một số luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng
dẫn triển khai chậm được ban hành. Sự thiếu nhất quán trong hệ thống thể
chế biểu hiện rõ trong việc chậm chuẩn bị và ban hành các văn bản dưới
luật, pháp lệnh để hướng dẫn thi hành. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn có xu


hướng giữ thuận lợi cho hoạt động quản lý của mình nhiều hơn là đáp ứng
nhu cầu tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân.
Thủ tục hành chính vẫn chưa được cải cách đơn giản hoá triệt để, tính
công khai minh bạch còn thấp. Sau một thời gian có những kết quả bước đầu
trong cải cách thủ tục hành chính, thời gian gần đây vẫn còn nhiều thủ tục
hành chính không hợp lý, phức tạp, tiếp tục gây phiền hà cho dân và doanh
nghiệp.
Hai là, Chậm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước vĩ mô của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, nhất là ở
cấp Chính phủ và các bộ. Chính phủ làm gì và làm đến đâu trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tương tự như vậy là các bộ
và chính quyền các cấp, đây vẫn là vấn đề còn chưa hoàn toàn được làm
sáng tỏ. Mặc dù hiện tại Chính phủ đã không còn làm một số việc giống như
20 năm trước đây, nhưng trong thực tế những việc Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ phải quyết vẫn quá nhiều chưa xứng tầm Chính phủ. Nhìn tổng
thể thì mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường, giữa nhà nước với doanh
nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đủ rõ.
Ba là, tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc với 22 bộ, cơ quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc Chính phủ. Bộ máy
hành chính ở cấp Trung ương còn quá lớn, số lượng tổ chức bên trong các
bộ, ngành còn nhiều và có xu hướng phình ra. Việc thực hiện phân cấp về

ngành và lĩnh vực giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền
địa phương còn chậm, vẫn chưa có sự phân biệt rõ về chức năng, nhiệm vụ
và tổ chức bộ máy của chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn.


Bốn là, chế độ công vụ mới chậm hình thành đầy đủ, chất lượng cán
bộ, công chức chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội.
Đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập về kỹ năng quản lý mới, thiếu tính
nhạy bén thị trường, trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao. Một bộ phận
cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng. Rõ ràng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức đang là vấn đề có ý nghĩa sống còn không
chỉ riêng của công cuộc cải cách hành chính mà của cả sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ đất nước.
Năm là, phương thức, lề lối làm việc còn thủ công, lạc hậu chưa đáp
ứng yêu cầu chuyên nghiệp, hiện đại
Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương chưa thực sự thống nhất, thông suốt.
Quy trình làm việc của cán bộ, công chức nhìn chung còn thủ công,
thiếu tính chuyên nghiệp. Dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu còn khá
đậm nét trong điều hành và tổ chức công việc của các cơ quan và đội ngũ
cán bộ, công chức ở tất cả các cấp. Họp hành nhiều, giấy tờ hành chính gia
tăng, thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết công việc của từng cán bộ, công
chức không rõ; đặc biệt khâu phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà
nước trong quá trình giải quyết công việc còn yếu.
Trang bị thiết bị, điều kiện làm việc của cơ quan hành chính nhà nước
nói chung còn nhiều hạn chế. Sau hơn một nửa thế kỷ xây dựng và củng cố
chính quyền vẫn còn tới 10% chính quyền cấp xã chưa có trụ sở làm việc,


khoảng 30% trụ sở cấp xã là nhà cấp 4, không bảo đảm điều kiện làm việc

và giải quyết công việc của dân.
Việc triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật và nhất là công nghệ tin
học vào hoạt động quản lý nhà nước còn chậm, đạt hiệu quả thấp. Chủ
trương hiện đại hoá nền hành chính, thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các
nước trong khu vực như Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001-2010 đã đề ra vẫn là một thách thức lớn.
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
- Tàn dư của chế độ phong kiến còn in đậm trong tư tưởng của cán bộ,
công chức. Nó thể hiện ở tác phong, lề lối làm việc và thái độ phục vụ nhân
dân.
- Sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức cấp ủy với ban xây dựng đảng,
các tổ chức trong hệ thống chính trị, cơ tổ chức cán bộ chính quyền, các
ngành, đoàn thể có lúc thiếu chặt chẽ, đồng bộ.
- Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế; đồng thời
chưa có giải pháp thiết thực tạo động lực phát huy hết tiềm năng của đội ngũ
cán bộ này.
- Những chính sách với cán bộ còn nhiều bất hợp lý, thiếu công bằng,
thực hiện không thống nhất và đồng bộ, chưa tạo được động lực và phát huy
tài năng, chưa khuyến khích được cán bộ công tác ở cơ sở, ở những vùng
khó khăn. Đội ngũ cán bộ còn bộ phận suy thoái về tư tưởng đạo đức. Về
mặt khách quan, có sự ảnh hưởng nhiều mặt của cơ chế thị trường, tình hình
chính trị thế giới, từ những yếu tố xã hội, tập quán, truyền thống; các thế lực
thù địch tìm cách lôi kéo, mua chuộc, làm biến chất đội ngũ cán bộ. Về mặt
chủ quan, do cơ quan làm công tác cán bộ chậm đổi mới. Chưa chú trọng


×