Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

BÀI GIẢNG NGOẠI KHOA THÚ Y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.99 MB, 158 trang )

BÀI MỞ ĐẦU
I. Khái niệm
Ngoại khoa thú y là một môn khoa học chuyên nghiên cứu những nguyên tắc và
phương pháp chung thực hiện các phẫu thuật ngoại khoa và các bệnh ngoại khoa xảy
ra ở vật nuôi. Là tổng hợp những tác động cơ giới vào một tổ chức, cơ quan của động
vật để thực hiện mục đích nào đấy.
Ví dụ: Thực hiện các phẫu thuật trong chấn thương, nhiễm trùng, tổn thương,
hoại tử, hoại thư, hecnia..
Theo tiếng latinh ngoại khoa được gọi là Chirurgie, được kết hợp từ 2 từ Chiros
và Urgos. Chiros: có nghĩa là ngón tay và Urgos: có nghĩa là nhanh chóng, cấp tốc.
Tức là phẫu thuật cần đến sự nhanh chóng và khéo léo để chữa lành vết thương.
II. Vị trí môn học ngoại khoa trong phòng và chữa bênh vật nuôi
Ngoại khoa thú y là môn học chuyên khoa quan trọng trong hệ thống kiến thức
thú y. Cùng với các môn học chuyên khoa khác như : Bệnh học nội khoa, Truyền
nhiễm, Ký sinh trùng, Sản khoa,... môn học ngoại khoa khoa thú y góp phần hoàn
thiện kiến thức chuyên môn cho người học nghề và hành nghề thú y
- Nhiều bệnh hoặc nhiều kỹ thuật xử lý vật nuôi không thể dùng thuốc để can
thiệp mà phải có phẫu thuật ngoại khoa mới giải quyết được.
Ví dụ : Nối ruột, Cắt bỏ khối u, mổ áp xe, mổ đẻ, mổ Hernia, nối gân, …
- Thực hiện các quy trình công nghệ chăn nuôi bình thường phải nhờ các phẫu
thuật ngoại khoa giải quyết.
Ví dụ: Triệt sản để vỗ béo gia súc, cắt sừng hươu, nai hàng năm, lấy nhung, cắt
bỏ răng nanh lợn con...
- Phẫu thuật ngoại khoa chỉnh hình
Ví dụ: vá mũi trâu, bò bị sứt, phẫu thuật bắt chéo dương vật để làm đực thí tình…
Từ những ví dụ trên cho thấy môn ngoại khoa có liên quan rất nhiều đến môn học
khác và người bác sỹ ngoại khoa có một vai trò quan trọng để chứng minh kết quả
chẩn đoán của bác sĩ nội, sản khoa là chính xác và bằng lưỡi dao mổ họ sẽ hoàn tất
việc điều trị bệnh.
III. Mối quan hệ với môn học khác
Môn ngoại khoa gia súc là một môn học có quan hệ với nhiều môn học khác. Do


vậy, muốn nắm chắc được môn ngoại khoa và ứng dụng vào điều kiện sản xuất, chúng
ta cần biết mối liên quan giữa môn học này với các môn học khác. Sự liên quan này
được thể hiện chặt chẽ và logic với một số môn học sau:
- Giải phẫu học: Không thể mổ tốt nếu không có kiến thức tốt về giải phẫu định
khu các vùng mổ. Ví dụ: Không thể mổ đẻ tốt, nếu không có kiến thức giải phẫu về
cơ, mạch máu, thần kinh,....ở vùng bụng, ở cơ quan tử cung.
-1-


- Sinh lý, Bệnh lý, Dược lý, Vi sinh vật: sẽ không thành công với bất kỳ một ca
phẫu thuật nào nếu người phẫu thuật không có kiến thức tốt về những môn học này,
đặc biệt môn Dược lý và Vi sinh vật học. Kiến thức hai môn học này góp phần quyết
định sự thành công của của điều trị ngoại khoa.
- Chẩn đoán bệnh: giúp người thầy thuốc thú y xác định và phân biệt chính xác
các bệnh ngoại khoa với các bệnh khác, để lựa chọn phương án điều trị tối ưu.
- Vệ sinh gia súc: Trong lĩnh vực thú y nói chung và ngoại khoa thú y nói riêng,
ta không chữa bệnh bằng mọi giá, phải có quan điểm kinh tế rõ ràng, toàn diện. Nếu
sau phẫu thuật con vật không khôi phục được khả năng làm việc, không nâng cao khả
năng sản xuất thì tốt nhất nên loại thải, không điều trị. Quá trình phẫu thuật điều trị
ngoại khoa thú y phải luôn diễn ra trong môi trường vệ sinh sạch sẽ, ngược lại phẫu
thuật điều trị sạch sẽ (tiêu độc khử trùng tốt) sẽ góp phần đảm bảo môi trường an toàn,
bền vững.
- Luật Chăn nuôi thú y : Moị việc làm phải xuất phát từ lợi ích xã hội, lợi ích của
người chăn nuôi, của cộng đồng.
Ví dụ: Các thao tác chọn lọc rò túi mật để chữa các bệnh về gan, mật là đúng, là
tốt: nhưng chọc dò túi mật nhằm thu gom mật (mật gấu) một cách tàn nhẫn, tràn lan làm
tổn hại đến quần thể vật nuôi quý hiếm cần được bảo vệ lại là có “tội’’, trái pháp luật.
Tóm lại, môn học ngoại khoa thú y có liên quan trực tiếp đến rất nhiều các môn
học khác, ngành học khác, người học nghề cần phải quán triệt đủ và thực thi cho tốt.
IV. Nội dung chính của môn học ngoại khoa thú y

Bao gồm hai phần chính yếu:
4.1. Ngoại khoa thú y thực hành (phẫu thuật ngoại khoa)
Trong phần này đề cập đến những nguyên tắc, phương pháp chung để thực hiện
những phẫu thuật ngoại khoa. Trang bị cho người học những kỹ thật cơ bản như :
Phương pháp khử trùng tiêu độc trước, trong và sau phẫu thuật, kỹ thuật gây mê, gây
tê, phương pháp rạch mổ, bóc tách tổ chức, phương pháp cầm màu trước, trong và sau
phẫu thuật, phương pháp khâu vết mổ, kỹ thuật chăm sóc hậu phẫu...
Người thầy thuốc ngoại khoa phải là người rất khéo tay trong thao tác, linh hoạt
chuẩn xác trong xử lý tình huống phẫu thuật, nhằm đảm bảo mỗi ca phẫu thuật phải
đạt được yêu cầu: sạch, đẹp, nhanh, vô trùng chính xác và thành công
4.2. Bệnh học ngoại khoa
Tại phần này cung cấp kiến thức về bệnh ngoại khoa thú y, chia làm hai nội dung
cơ bản.

-2-


- Ngoại khoa đại cương: Phần này đề cập đến những khái niệm chung, những
dạng bệnh lý chung: Chấn thương, nhiễm trùng ngoại khoa, vết thương, tổn thương vật
lý, hoá học
- Ngoại khoa chuyên khoa: Đề cập đến những bệnh ngoại khoa cụ thể của cơ thể như:
bệnh ở xương, bệnh về khớp, bệnh tại cơ, bệnh của mắt, bệnh ở cơ quan sinh dục...
V. Yêu cầu khi hành nghề ngoại khoa thú y
5.1. Về kiến thức
Phải có kiến thức tốt về Chẩn đoán, Giải phẫu, Vi sinh vật và kỹ thuật vô trùng,
kiến thức về Dược học, Bệnh lý học,...
Phải hiểu được các quá trình bệnh lý, các triệu chứng lâm sàng,... của các Bệnh
ngoại khoa thú y.
Phải biết cách Chẩn đoán, điều trị các bệnh ngoại khoa thú y thông thường nhất,
phổ biến nhất trong chăn nuôi thú y ở Vệt Nam.

Phải hiểu biết về kiến thức xã hội, kinh tế, luật pháp có liên quan đến ngành nghề
thú y.
5.2. Về kỹ năng
Biết làm và tiến tới thành thạo các phẫu thuật ngoại khoa cơ sở như: tiêm, mổ,
kỹ thuật cầm máu, kỹ thuật khâu, kỹ thuật băng bó, kỹ thuật vô trùng,...
Biết tiến hành chẩn đoán đúng và điều trị chính xác các bệnh ngoại khoa thú y.
Về yêu cầu này, tuỳ trình độ đào tạo trung cấp thú y, cao đẳng thú y hay thú y cơ sở
mà xác định cho tương thích.
5.3. Về thái độ
Phải thường xuyên học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực ngành nghề.
Học trong sách vở, học trong thực tế.
Chống mọi biểu hiện qua loa đại khái, tắc trách khi hành nghề. Phải làm việc cẩn
trọng, chính xác, hiệu quả.
Có ý thức bảo vệ mình đối với những rủi ro nghề nghiệp có thể xảy ra (lây nhễm
bệnh từ vật nuôi mắc bệnh).
Có tình thương yêu con bệnh, hạn chế tối đa đau đớn gây ra cho con vật. Phải gây
mê, gây tê đúng chỉ định trong mọi phẫu thuật. Thực hiện nghiêm túc vệ sinh tiêu độc
trước, trong và sau phẫu thuật.
Quan tâm, phối hợp tốt với chủ bệnh súc để chăm sóc, hộ lý tốt đối với con bệnh
sau phẫu thuật, để con bệnh mau lành bệnh, nâng cao uy tín chuyên môn cho bản thân
mình. Đây chính là một phần y đức của người thầy thuốc thú y.

-3-


* Phân loại phẫu thuật
.Căn cứ vào mục đích phẫu thuật:
- Phẫu thuật chẩn đoán, điều trị
- Phẫu thuật kinh tế
- Phẫu thuật nghiên cứu, thí nghiệm

- Phẫu thuật thẩm mỹ
Tuy nhiên phẫu thuật ngoại khoa được tiến hành khi các phương pháp điều trị
khác không đạt được mục đích. Khi tiến hành một ca phẫu thuật cần phải cân nhắc tới
tính kinh tế. Ngoại trừ các trường hợp đối với thú quý hiếm hay vật nuôi yêu thích.
.Căn cứ vào qui mô của phẫu thuật:
- Đại phẫu thuật: cần nhiều thời gian và nhiều người tham gia
- Tiểu phẫu thuật: cần vài phút đến vài chục phút và có 2-3 người tham gia.
.Căn cứ vào tính chất của phẫu thuật:
- Phẫu thuật vô trùng: thực hiện ở những vết thương, vết mổ vô trùng. Từ khâu
chuẩn bị, phẫu thuật tới hộ lý, chăm sóc đều đảm bảo nguyên tắc vô trùng.
- Phẫu thuật nhiễm trùng: là những phẫu thuật tiến hành trên vết thương, vết
mổ nhiễm trùng (mổ áp xe, lỗ rò,…). Những trường hợp này sau khi phẫu thuật xong
phải điều trị như vết thương nhiễm trùng. ứng dụng, yêu cầu phải có những hiểu biết
sâu sắc về kỹ thuật mổ xẻ và am hiểu tận
Như vậy: Phẫu thuật ngoại khoa là một khoa học về cấu tạo cơ thể gia súc
nhưng đồng thời cũng đòi hỏi ở người thực hiện phẫu thuật một kỹ năng nhất định
nhằm đạt được sự chính xác và nhanh chóng. Để có được điều này, người phẫu thuật
cần có sự luyện tập thường xuyên.

-4-


Phần 1

THỰC HÀNH NGOẠI KHOA THÚ Y
Chương 1. KỸ THUẬT CƠ BẢN CỦA NGOẠI KHOA THÚ Y
I. PHƯƠNG PHÁP CỐ ĐỊNH GIA SÚC
Khi phẫu thuật gia súc, dù phẫu thuật lớn hay nhỏ nhất thiết phải cố định gia
súc chắc chắn. Cố định gia súc là việc làm cần thiết, trước tiên của một ca phẫu thuật.
Cố định gia súc giúp ngăn ngừa việc chống cự, tấn công của gia súc; tránh được những

tai nạn đáng tiếc cho cả người và gia súc; tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn được thời
gian thực hiện, giảm nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và tránh việc mất máu nhiều khi
phẫu thuật.
1.1. Một số điểm cần lưu ý khi cố định gia súc
Khi tiếp xúc với gia súc phải có thái độ ôn hòa, thân mật nhất là đối với loài có
tính hưng phấn cao. Cần tránh có những động tác thô bạo, thái độ nóng nảy làm cho
gia súc sợ hãi gây khó khăn cho việc cố định.
Trước khi thực hiện cố định gia súc cần kiểm tra kỹ lưỡng dụng cụ cố định (dây
thừng, rọ mõm, giá cố định…).
Nơi cố định phải được dọn vệ sinh sạch sẽ, đặc biệt không có vật cứng (gạch
đá, đinh thép, dây thép gai, mảnh sành,...) nhằm tránh những tổn thương cho gia súc
khi cố định.
Khi gia súc ăn quá no, cần tránh việc vật ngã một cách thô bạo. Đối với gia súc
mang thai cần thận trọng khi cố định.
Các thao tác cố định phải được tiến hành nhanh, chính xác. Các nút buộc cần
đơn giản mà chắc chắn, dễ giải thoát cho vật nuôi khi có các tai biến. Trong phẫu thuật
ngoại khoa khi cố định cần sử dụng các nút thắt “sống” để dễ dàng giải thoát gia súc
khi có tai biến xảy ra.
Tùy theo vị trí phẫu thuật, loài gia súc mà có các cách cố định cho hợp lý. Tư
thế của con vật sau khi cố định phải thuận lợi cho người thực hiện phẫu thuật.
1.2. Phương pháp cố định
1.2.1. Phương pháp cố định trâu, bò
* Xoắn tai
Để xoắn tai người ta dùng dây xoắn tai. Dây xoắn tai là nguyên nhân gây đau
đớn cho bò, làm lệch sự chú ý khi có tác nhân gây đau đớn ở những phần khác trên cơ
thể. Đây là phương pháp có hiệu quả nhưng cần chú ý tránh gây hư hại cho lớp sụn
của tai.
-5-



* Cố định một chân trước
Một vòng dây được buộc vào cổ chân, đầu còn lại vòng qua u vai, đưa ra phía
trước và được giữ chặt. Nó sẽ được bỏ ra khi bò bắt đầu ngã.
* Cố định một chân sau
Cố định một chân sau của trâu, bò khó khăn hơn nhiều so với cố định chân
trước vì trâu, bò rất khỏe. Muốn thực hiện được, chúng ta phải dùng dây thừng buộc
vào đốt ngón chân của chúng rồi kéo lên. Đầu dây thừng tự do vắt qua người con vật
hoặc thanh dọc của gióng cố định.
* Cố định đứng trong giá
Gía cố định được làm với 4 cột trụ chôn chặt xuống đất hoặc có bộ giá bằng sắt
hay xi măng cốt thép. Kết nối giữa bốn trụ là các gióng dọc và ngang trải đều 2 tầng
trên và dưới. Có các dây thừng và chão để buộc giữ; ghìm đầu, đỡ bụng, chằng ngang
lưng, khóa hai chân sau hoăc cả bốn chân. Cố định trâu, bò đứng trong giá bốn trụ
dùng để thực hiện các ca phẫu thuật phức tạp có thời gian kéo dài.

Hình 1. Cố định bò trong gióng 4 trụ

Hình 2. Phương pháp cố định bò

* Phương pháp vật trâu bò
+ Vật bò:
- Cách thứ nhất: dùng một sợi dây thừng bền chắc, dài 5-6 m. Một đầu dây buộc
cố định vào hai gốc sừng con vật. Đầu kia luồn thành hai vòng; một vòng quanh ngực,
một vòng quanh bụng sao cho tạo thành hai vòng nút. Đoạn dây còn lại được kéo dọc
thân con vật. Khi vật, một người vặn đầu con vật ở tư thế: một tay ghìm sừng xuống,
một tay cầm mõm hất lên; một người cầm đuôi kéo về phía định cho con vật ngã; một
số người khác kéo đầu dây tự do. Nếu có đủ người thì cả 2 đầu dây được thả tự do,
chia số người ra làm 2 tốp kéo về 2 phía ngược chiều nhau, dọc thân con vật. Phải có
sự hiệp đồng chặt chẽ giữa những người tham gia. Con vật nằm xuống, nhanh chóng
ghìm sừng, đè đầu và cột 4 chân lại. Đây là động tác quan trọng nhất khi vật bò; nếu

để đầu nó cất lên thì con vật lập tức đứng dậy.

-6-


- Cách thứ 2: dùng dây thừng có độ dài từ 4-5m. Một đầu buộc chặt vào hai
gốc sừng; đầu còn lại luồn qua vòng dây buộc quanh bụng tại vị trí tiếp giáp giữa các
đốt sống hông – khum. Khi vật: một người vặn đầu, kéo đuôi, những người khác kéo
đầu dây tự do. Con vật ngã, nhanh chóng ghì đầu rồi chói chặt 4 chân lại. Phương pháp
này thường dùng để vật những con bò gầy yếu, bò béo khỏe thường rất khó vật.
Đối với bê ta có thể áp dụng phương pháp sau: người vật vòng người qua lưng
bê, nắm chặt 2 chân (chân trước và chân sau ở cùng một bên) rồi nhấc lên. Bê ngã, lập
tức dùng đầu gối đè lên vai và phần sau, lấy dây thừng cột 4 chân lại.

Hình 3. Phương pháp vật bê

Hình 4. Phương pháp vật trâu

+ Vật trâu
Dùng dây thừng bền chắc, luồn thành các nút số 8 ở hai chân trước và hai chân
sau. Buộc sao cho các nút thắt lại được khi kéo mà không bị tuột ra (đoạn dây tự do
phải nằm phía dưới vòng nút). Khi vật, một người khỏe ghìm giữ đầu; một người kéo
đuôi; số còn lại chia làm 2 tốp kéo cùng về 1 phía. Khi kéo, các vòng của nút số 8 thiết
chặt dần; hai chân phải, hai chân trái sát lại gần nhau; con vật mất khả năng trụ và đổ vật
xuống. Tương tự như vật bò, nhanh chóng ghìm đầu, dùng dây thừng buộc chặt 4 chân.
1.2.2. Phương pháp cố định ngựa
* Xoắn mũi
Dùng để cố định ngựa ở tư thế đứng. Phương pháp này chỉ nên áp dụng trong
các trường hợp thăm khám, điều trị mang tính chất đơn giản.
Nguyên tắc: lợi dụng ngựa có môi

trên với gương mũi dài và mỏng, tập trung
nhiều đầu mút dây thần kinh. Khi xoắn
mũi, con vật đau đớn và tập trung sự chú
ý vào vùng mũi mà hoàn toàn không để ý
tới người khác đang ở phía sau thực hiện
thao tác khám bệnh hay điều trị.

Hình 5. Dụng cụ xoắn mũi
-7-


Cách tiến hành: một tay giữ cương, một tay nắm lấy mũi con vật xoay nửa
vòng. Xoay sao cho vừa đủ sự thu hút tập trung của con vật, không nên xoay quá
mạnh. Nếu tay không nắm chặt được thì dùng một vòng dây vòng vào vùng môi trên,
lồng vào đó một chiếc que sau đó cầm que xoắn dây lại hoặc dùng dụng cụ xoắn mũi
chuyên dụng. Chú ý những thao tác xoắn mũi khi thực hiện không gây ra sự hoảng
loạn và ít đau đớn. Nếu đau đớn quá con vật sẽ hoảng loạn, giẫy giụa nhằm thoát khỏi
sự cố định.
* Giữ dây cương hàm thiếc
Để điều khiển ngựa, người ta dùng dây cương và hàm thiếc. Hàm thiếc làm
bằng kim loại, cho vào miệng ngựa để đè lưỡi xuống nhằm tránh cắn vào lưỡi khi làm
việc, vận động mạnh. Dây thừng buộc vào hàm thiếc để điều khiển ngựa gọi là dây
cương. Khi muốn khám bệnh, tiêm hay cho uống thuốc… chỉ cần giữ dây cương tại
nơi tiếp xúc với hàm thiếc, con vật tạm thời đứng yên tại chỗ (bốn chân vẫn rậm rịch)
nếu việc làm của chúng ta không gây sợ hãi cho con vật.
* Cố định bằng khung càng xe ngựa kéo
Đối với ngựa kéo xe, khó cố định bằng xoắn mũi hay giữ dây cương hàm thiếc
ta có thể cho vào trong khung càng xe kéo (như là mắc xe cho chúng đi làm). Xe ngựa
kéo có hai càng khỏe, do đó khi cố định bằng phương pháp này cũng gần như đạt được
sự chắc chắn như cố định trong giá bốn trụ.

* Cố định một chân
Vật nuôi 4 chân khi bị cố định một chân bằng cách bắt chân co lên thì sự di
chuyển của nó trở nên khó khăn rất nhiều. Lợi dụng đặc điểm này, chúng ta có thể cố
định vật nuôi đứng tạm thời bằng cách bắt chúng co một chân lên; việc bắt gia súc co
chân trái hay phải, trước hay sau là tùy thuộc vào vị trí cần kiểm tra.
* Cố định một chân trước
Cố định một chân trước ở ngựa có thể dùng tay hoặc dùng dây thừng
Cố định bằng tay: người cố định quay mặt
về phía đuôi ngựa. Khi cố định chân trái thì dùng
tay phải và ngược lại. Tay phải vuốt nhẹ từ cổ
xuống vai, đến cổ chân thì nắm chặt; tay trái tỳ
lên vùng gáy con vật đồng thời hơi đẩy sang bên
kia rồi nhấc chân trái lên; tay phải đẩy chân trái
con vật về phía sau rồi nhấc lên, dùng hai tay nắm
chắc cổ chân con vật.

Hình 6. Cố định một chân trước

-8-


Cố định bằng dây thừng: dùng một đầu dây thừng buộc thành nút sống ở cổ chân
ngựa, dùng tay đẩy nhẹ vai đồng thời cầm dây kéo chân con vật lên. Sau đó, vắt đầu
dây thừng còn lại qua vai, luồn qua nách con vật đồng thời quấn đầu dây thừng về phía
sau, một người giữ đầu dây thừng.
* Cố định một chân sau
Cố định một chân sau của ngựa cũng có thể dùng tay hoặc dây thừng.
Cố định bằng tay: Người cố định mặt quay về phía đuôi, dùng tay trái để giữ
chân phải con vật và ngược lại. Muốn cố định chân phải của ngựa thì tay phải tỳ nhẹ
lên khớp xương cánh chậu của con vật, tay trái vuốt nhẹ từ mông xuống đùi đến cổ

chân thì nắm chặt rồi nhấc lên và đưa về phía sau đồng thời chân trái người cố định
bước lên một bước rồi tỳ cổ chân con vật lên đầu gối mình hay kẹp chân của nó giữa 2
đùi của người cố định và dùng 2 tay giữ chặt.
Cố định bằng dây thừng: sử dụng dây thừng dài 3 – 4m buộc đoạn giữa vào
đuôi ngựa hai đầu dây tự do, vòng qua mặt trước ngón chân rồi kéo về 2 phía nhấc lên.

Hình 7. Cố định một chân sau bằng tay

Hình 8. Cố định một chân sau bằng dây thừng

* Cố định 2 chân sau
Phương pháp này được sử dụng để tránh trường hợp ngựa đá, ứng dụng trong
các trường hợp khám bệnh hay phẫu thuật ở trực tràng hay âm đạo.
Trước hết buộc một vòng dây ở cổ, hai đầu của sợi dây đưa về phía sau và nằm
ở giữa 2 chân trước. Sau đó buộc một vòng ở mỗi chân sau. Hoặc có thể sử dụng một
vòng đeo cổ bằng vải để thay thế cho vòng dây và 2 vòng tròn nhượng để thay thế cho
mối cột ở trên 2 khớp nhượng.

Hình 9. Cố định hai chân sau

Hình 10. Phương pháp vật ngựa

-9-


* Vật ngựa
Có nhiều phương pháp vật ngựa, thông thường hay sử dụng phương pháp sau:
- Dùng sợi dây thừng dài khoảng 4-5m, một đầu dây buộc cố định vào cổ ngựa.
Nếu muốn ngựa ngã về bên nào thì dùng đầu dây thừng còn lại kéo về phía sau bên ấy
rồi vòng qua mông con vật, luồn dây thừng vào vòng dây buộc ở cổ rồi kéo xuống

buộc ở cổ chân sau bên định cho ngựa ngã. Một người giữ chặt đầu ngựa, một người
giữ chặt đầu dây còn lại được vắt qua vai ngựa. Đồng thời kéo mạnh làm cho 2 chân
sau tiến về phía trước, một chân sau của ngựa bị nhấc lên gây mất thăng bằng, nó sẽ
nằm xuống theo tư thế chó nằm. Sau khi ngựa nằm xuống cần có người ghì đầu ngựa
xuống đất, đồng thời nhanh chóng trói hai chân sau và hai chân trước lại.
- Dùng 4 vòng cổ chân, đeo vào chân ngựa. Các vòng này được nối với nhau
bằng sợi dây thừng chừng 5m. Một người nắm đuôi nhằm đỡ con vật khi ngã. Kéo
mạnh sợi dây, 4 chân ngựa gom lại gây mất thăng bằng làm ngựa ngã xuống. Tiếp theo
dùng dây buộc một đầu vào trên khớp nhượng của chân sau phía trên, phần còn lại
luồn qua 2 chân trước, choàng qua vai bên kia và quấn 1 vòng vào cổ chân sau để nhấc
lên. Phương pháp cố định này thường dùng để thiến ngựa. Hình 11,12.

Hình 11. Phương pháp vật ngựa

Hình 12. Phương pháp cố định ngựa khi ngã

1.2.3. Phương pháp cố định lợn
Khi thực hiện phẫu thuật ở những con nhỏ việc cố định rất đơn giản nhưng khi
tiến hành ở những con vật lớn thường rất khó vì chúng béo lẳn và trơn.
* Cố định lợn để thiến
Đối với lợn nhỏ có thể cố định bằng cách xách ngược hai chân sau lên,
mặt bụng quay ra ngoài. Người cố định dùng hai đầu gối để kẹp phần dưới của
lợn lại. Đây là cách đơn giản để tiêm tiêm cho lợn.
Nếu để thiến lợn đực thì phần lưng của lợn quay ra phía ngoài và phần đầu của
nó nằm giữa hai chân sau của người cố định.

- 10 -


Hình 13. phương pháp giữ lợn


Hình 14. Phương pháp cố định lợn nằm ngửa

* Cách cố định để cho lợn uống thuốc
Người cố định nắm hai chân trước của lợn và để ở tư thế tựa mông trên mặt đất.
Dùng hai đầu gối kẹp vào hai bên vai để ghìm giữ lợn.
* Cố định lợn ở tư thế nằm ngửa
Phương pháp cố định này thường dùng trong trường hợp phẫu thuật vùng bụng.
Dùng một máng ăn, bên dưới được lót bằng bao bố, đặt lợn ở tư thế nằm ngửa, dùng
dây để buộc hai chân trước và hai chân sau vào máng ăn.
* Phương pháp vật lợn
Vật lợn bằng tay: dùng tay luồn qua bụng lợn, nắm chân trước và chân sau
cùng phía rồi kéo mạnh.
Vật lợn bằng dây: trước hết dùng một sợi dây buộc mõm, phần cuối sợi dây
đưa ra phía sau rồi làm 1 vòng ở phía trên khớp nhượng của chân sau bên trái. Nắm
phần cuối của sợi dây kéo mạnh về phía sau, con vật sẽ mất thăng bằng và ngã xuống.
Dùng một sợi dây buộc mõm để tạm cố định lợn.
Vật lợn bằng dụng cụ tròng chân sau: đây là phương pháp tốt nhất để quật ngã
và cố định lợn to. Dụng cụ này có thể đưa vào chân sau của lợn rất đơn giản và nhanh
chóng. Dùng một ống hình tròn, đường kính 3-4 cm, chiều dài 40 cm. Hai đầu ống gắn
với 2 vòng kim loại đường kính khoảng
5cm. Hai vòng này được nối với hai sợi dây
xích dài khoảng 50 - 60cm. Đầu cuối của
hai sợi dây xích nối với một vòng kim loại
thứ 3. Từ vòng thứ 3 này nối với sợi dây
thừng chắc chắn. Trước hết dùng dây để
khớp mõm lại. Sau đó đưa dụng cụ tròng vào
hai chân sau của lợn. Nắm sợi dây thừng kéo
Hình 15. Vật lợn bằng dụng cụ tròng chân


mạnh về phía sau. Lợn ngã xuống.

- 11 -


Nếu thực hiện những ca tiểu phẫu mà không gây đau đớn thái quá cho lợn,
người ta chỉ cần sử dụng một sợi dây cột vào mõm lợn và kéo căng dây là được.
1.2.4. Phương pháp cố định chó
Rọ mõm (buộc mỗm): đối với chó việc tiếp cận để thăm khám hay thực hiện
phẫu thuật luôn phải được rọ mõm (rọ mõm có nhiều kích cỡ, được làm bằng da, bằng
inoc hay dùng sợi dây mềm để rọ (buộc) mõm lại.
Cách buộc mõm bằng dây: đầu tiên vòng một vòng quanh mõm rồi thắt lại ở
phía dưới hàm và vòng ra sau gáy rồi thắt lại, đối với giống chó mõm ngắn sau khi đã
buộc mõm như trên thì dùng phần dây thừa sau gáy luồn vào vòng dây quanh mõm
phía trên sống mũi rồi cột nút với phần dây thừa còn lại.

Hình 16. Phương pháp rọ (buộc) mõm chó

Hình 17. Một số loại rọ mõm

Cố định trên bàn mổ: tùy theo vị trí mổ mà có các kiểu cố định khác nhau.
Cách buộc chân: đối với chân trước, vòng đầu tiên buộc vào trên khớp cùi trỏ, đưa dây
xuống phía dưới làm một vòng thứ hai ngay tại khớp cổ tay rồi cột dây vào bàn mổ.
Đối với chân sau, vòng dây đầu tiên được buộc trên khớp nhượng, vòng thứ hai tại
khớp cổ chân rồi mới buộc cố định vào bàn mổ. Có thể cố định chó nằm ngửa: phẫu
thuật vùng bụng, thiến; nằm nghiêng: phẫu thuật vùng tai, mắt, thận, lách; nằm sấp:
phẫu thuật vùng đuôi, hậu môn, đầu.

- 12 -



1.2.5. Phương pháp cố định mèo
Buộc mõm: cách buộc mõm tương tự như cách buộc mõm giống chó mõm ngắn,
ngoài ra mèo có thể cào do đó cần buộc mõm kết hợp với dùng vải mềm bó chặt tứ chi.

Hình 18. phương pháp giữ mèo

Hình 19. Phương pháp cố định mèo

Cố định mèo trên bàn mổ: cách cố định mèo trên bàn mổ cũng tương tự như
cách cố định chó. Tuy nhiên đối với mèo có thể dùng giá cố định chuyên dụng. Giá
này gồm hai tấm gỗ, mỗi bên cắt một lỗ thủng là một nửa vòng tròn, khi ghép lại được
một lỗ thủng hình tròn. Hai tấm đó được chạy trên một thanh trượt. Đưa mèo vào giá,
ép hai tấm gỗ sát nhau ở ngang nách con vật; sao cho đầu và hai chân con vật nằm ở
phía trước tấm gỗ, một người cầm hai chân sau kéo lại.
II. ĐỀ PHÒNG NHIỄM TRÙNG KHI PHẪU THUẬT
2.1. Khái niệm nhiễm trùng
Nhiễm trùng là tổng hợp những hiện tượng xảy ra trong cơ thể vật nuôi do sự
tác động lẫn nhau giữa cơ thể và vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể. Dạng đỉnh điểm của
quá trình sinh học này được thể hiện bằng sự phát triển của nhiễm trùng.
2.2. Tác nhân thúc đẩy nhiễm trùng
Những tác nhân gây nhiễm trùng chủ yếu là vi khuẩn, đôi khi là virus và nấm.
Nó xâm nhập từ môi trường bên ngoài vào cơ thể bằng con đường khác nhau gọi là
nguyên nhân ngoại sinh. Ngoài ra nguyên nhân gây nhiễm trùng có thể đến từ những ổ
nhiễm trùng có sẵn trên cơ thể vật nuôi xâm nhập vào vết mổ thông qua máu, hệ bạch
huyết, gọi là nguyên nhân nội sinh.
Ngoài ra, công tác nuôi dưỡng chăm sóc cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc đề phòng nhiễm trùng vết mổ. Quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc kém; khai thác
không đúng làm suy giảm đột ngột sức đề kháng của con vật là điều kiện thuận lợi để
nhiễm trùng phát triển.

Một yếu tố cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển nhiễm trùng đó là
khâu hộ lý chăm sóc sau khi phẫu thuật. Sau khi phẫu thuật gia súc không được hộ lý

- 13 -


chăm sóc chu đáo, bị nhốt trong những chỗ bẩn thỉu là yếu tố gây ra nhiễm trùng sau
phẫu thuật rất lớn.
Để phòng nhiễm trùng cho gia súc thường dùng 2 biện pháp: khử trùng và vô trùng.
- Khử trùng là dùng các loại hóa chất như: KMnO4, H2O2, formalin, Ca(OH)2
10%, NaOH 10%,... để xử lý bãi mổ, tay người thực hiện phẫu thuật, vùng phẫu thuật
trên cơ thể vật nuôi,…
- Vô trùng là sử dụng các yếu tố vật lý như: nhiệt độ, tia cực tím,… để xử lý
phòng mổ, dụng cụ phẫu thuật,…
Sử dụng các yếu tố vật lý cho hiệu quả tiệt trùng triệt để hơn so với sử dụng các
hóa chất nhưng phương pháp vật lý không thể áp dụng trong mọi trường hợp; vì vậy
trong thực tế chúng ta phải kết hợp các biện pháp sao cho phù hợp với từng đối tượng
xử lý.
Việc đề phòng nhiễm trùng khi phẫu thuật đôi khi còn được gọi là “yếu tố vô
trùng” khi phẫu thuật.
Đề phòng nhiễm trùng khi phẫu thuật là yếu tố quyết định sự thành công của
phẫu thuật. Nhiễm trùng vết mổ là họa thường trực của nhà ngoại khoa, nó chính là
nguyên nhân gây ra biến chứng nặng nề và dẫn đến cái chết của vật nuôi. Để đề phòng
nhiễm trùng vết mổ chúng ta phải thực hiện tốt nhiều việc như: chuẩn bị và xử lý dụng
cụ phẫu thuật; chuẩn bị vật nuôi với vùng phẫu thuật trên cơ thể chúng; chuẩn bị địa
điểm phẫu thuật và xử lý tay của người tham gia phẫu thuật …
2.3. Chuẩn bị nhân sự
2.3.1. Người thực hiện phẫu thuật
Tùy thuộc vào ca phẫu thuật lớn hay nhỏ mà quyết định số người tham gia
nhiều hay ít. Mỗi người sẽ được giao nhiệm vụ cụ thể.

Người mổ chính: là người ra quyết định thực hiện phẫu thuật và chịu trách
nhiệm về ca phẫu thuật đó; trực tiếp thực hiện phẫu thuật với sự trợ giúp của các đồng
nghiệp và đưa ra các quyết định về phương pháp xử lý tình huống khi có sự cố bất
thường xảy ra trong phẫu thuật. Như vậy người mổ chính phải là người hiểu rõ nhất về
tình cảnh bệnh của con vật, nắm vững và thành thạo các phương pháp thực hiện phẫu
thuật đó.
Người phụ mổ thứ nhất: là người cùng thực hiện phẫu thuật với người mổ
chính, giúp người mổ chính trong các khâu bóc tách tổ chức, cầm máu hay kết nối tổ
chức và thay thế người mổ chính khi cần thiết. Như vậy người phụ mổ thứ nhất phải
nắm rõ tình hình con bệnh, thành thạo kỹ năng thực hiện phẫu thuật đó.

- 14 -


Người phụ mổ chuẩn bị dụng cụ: công việc chuẩn bị dụng cụ ở đây chỉ bao hàm
việc lấy dụng cụ từ các khay dụng cụ đã được xử lý đưa cho người mổ chính và người
phụ mổ thứ nhất; đồng thời đưa các dụng cụ không cần thiết ra ngoài. Người chuẩn bị
dụng cụ phải theo dõi tiến trình phẫu thuật, đưa dụng cụ và lấy dụng cụ ra sao cho thật
chính xác; các thao tác phải nhịp nhàng ăn ý với người mổ chính và người phụ mổ thứ
nhất, tránh những tác động thừa.
Người phụ mổ phụ trách gây mê, hồi sức: nếu phẫu thuật có chỉ định gây mê
cần cử người chuyên trách. Khi gây mê có thể xảy ra tai biến do đó cần cử người theo
dõi mọi biểu hiện của con vật, nếu có biểu hiện bất thường cần thông báo và có biện
pháp xử lý kịp thời.
Những người kể trên, trực tiếp thực hiện phẫu thuật hợp lại thành kíp mổ. Để
tránh nhiễm trùng vết mổ do chính những người thực hiện phẫu thuật gây ra tất cả
những người thực hiện phẫu thuật cần phải được xử lý tay cẩn thận, mặc quần áo bảo
hộ, đeo khẩu trang, đội mũ. Trong khi thực hiện phẫu thuật hạn chế nói thành tiếng,
không được cười đùa, khạc nhổ bừa bãi; không để mồ hôi, nước bọt hay các chất tiết
khác rơi vào vết mổ.

2.3.2. Người giúp việc
Người vận hành các trang thiết bị: trong phòng mổ hiện đại có các trang thiết
bị hiện đại hỗ trợ phẫu thuật như: dao mổ điện, máy gây mê, máy hút dịch, đèn mổ,
bàn cố định,…vì vậy cần có người vận hành và theo dõi các hoạt động của chúng.
Người hỗ trợ cố định vật nuôi và dọn vệ sinh: vật nuôi phẫu thuật bao giờ cũng
có phản ứng khi đau hay sợ hãi do đó cần bố trí người cố định vật nuôi khi thực hiện
phẫu thuật lớn hay nhỏ.
Người hộ lý và chăm sóc vật nuôi: sau phẫu thuật phải cắt cử người theo dõi, chăm
sóc, nuôi dưỡng vật nuôi. Nhất là thời gian đầu đối với vật nuôi có thực hiện gây mê.
2.3.3. Xử lý tay người phẫu thuật
Người thực hiện phẫu thuật là những người đầu tiên có khả năng gây ra nguy cơ
nhiễm trùng vào vết mổ vì vậy mỗi người phải chuẩn bị tay cẩn thận.
Trên da tay luôn luôn tồn tại một hệ vi khuẩn bao gồm các vi khuẩn hiện diện
thường xuyên và các vi khuẩn không thường xuyên. Các vi khuẩn khu trú ở khe da,
các nếp nhăn, ở lỗ chân lông nên việc tẩy rửa là tương đối khó.
Khi sửa soạn tay, các móng tay phải được cắt ngắn và giũa bằng, tháo bỏ đồ
trang sức trên tay. Tay phải được chà rửa bằng bàn chải mềm với xà phòng, chà xát tất
cả các phần từ đầu ngón tay cho đến cùi trỏ sao cho các phần được chà ít nhất 30 lần
với bàn chải. Năm ngón tay chụm lại khi chà trên các đầu ngón tay. Bọt xà phòng luôn
được duy trì trong suốt thời gian chà. Nếu tiến hành chà trong vòng 7 phút thì tất cả
- 15 -


các chất bẩn đại thể, vi khuẩn không thường xuyên và phần nửa vi khuẩn thường
xuyên sẽ bị rửa trôi. Cuối cùng rửa sạch bọt xà phòng dưới vòi nước mạnh. Lau khô
tay bằng vải mềm đã tiệt trùng.
Tiếp tục sử dụng cồn ethyl 70% ngâm tay để tiêu diệt số vi khuẩn còn lại. Có
thể sử dụng các chất sát trùng sau để xử lý tay:
Cồn iod 5%
Hỗn hợp:

Ethyl alcohol 70%
: 675 ml
N – propyl alcohol 70% : 259 ml
Nước cất
: 250 ml
Hỗn hợp: KMnO4 nóng, bão hòa và acide oxalic để tẩy màu tím. Ngâm
tay trong hỗn hợp này từ 2,5 – 5 phút.
Tóm lại dù có dùng những dung dịch sát trùng tốt nhất để xử lý tay thì tay cũng
chưa hoàn toàn vô trùng. Vì vậy cần phải mang thêm găng tay để đảm bảo vô trùng
khi tham gia phẫu thuật.
Hai tay sau khi được xử lý xong không được sờ vào những vật chưa vô trùng.
Trong thời gian phẫu thuật, nếu tay bị nhiễm bẩn thì tùy mức độ mà xử lý từ đầu hay
chỉ cần sát trùng bằng cồn 70%.
2.4. Chuẩn bị địa điểm phẫu thuật
2.4.1. Phòng mổ
Phòng mổ là phòng chỉ dùng để thực hiện các cuộc phẫu thuật mà không sử
dụng vào việc khác, như vậy nguy cơ nhiễm trùng đã bị hạn chế rất nhiều. Một phòng
mổ cần phải được trang bị tối thiểu các thiết bị sau: bàn mổ, bàn để dụng cụ, bàn để
thuốc và hóa chất, hệ thống đèn chiếu sáng, hệ thống thông gió và điều hòa nhiệt độ,
hệ thống cấp thoát nước, hệ thống tiệt trùng,…
Đối với bàn mổ phải có kích thước phù hợp cho vật nuôi. Bàn mổ vật nuôi lớn
thường được thiết kế phù hợp với việc cố định và vật gia súc. Mặt bàn có các mấu
chốt, móc để buộc dây cố định gia súc; có đệm lót nên có thể thực hiện được những ca
phẫu thuật trong thời gian dài mà không cản trở tuần hoàn da của gia súc khi nằm.
Cách thức hoạt động của các loại bàn mổ này rất thuận tiện cho việc cố định gia súc:
trước tiên để mặt bàn ở tư thế đứng như một giá cố định, đưa vật nuôi vào, buộc ép sát
con vật vào mặt bàn, sau đó xoay mặt bàn nằm ngang ra, lúc này vật nuôi đã nằm
nghiêng trên mặt bàn.
Bàn mổ của gia súc nhỏ được thiết kế đơn giản hơn nhưng trên bàn mổ cũng
được thiết kế đầy đủ các móc, chốt và các lỗ để thuận tiện cho việc cố định, thu hồi

dịch tiết và vệ sinh bàn mổ.

- 16 -


Đèn mổ được thiết kế 3 hay 6 bóng. Loại đèn pha tập trung ánh sáng lại một
chỗ giúp tăng cường độ ánh sáng lên rất nhiều, có thể điều chỉnh ánh sáng chiếu vào
vùng phẫu thuật giúp người phẫu thuật nhìn rõ được mô bào hơn. Đối với các phòng
mổ hiện đại còn được trang bị các thiết bị hiện đại hơn như: dao mổ điện, máy gây mê,
máy hút dịch,...
Để tiệt trùng phòng mổ, người ta trang bị trong phòng hệ thống đèn tử ngoại.
Mỗi loại đèn tử ngoại có khả năng tiệt trùng hiệu quả ở một dung tích nhất định do đó
cần tính toán số lượng đèn phù hợp với với thể tích phòng mổ. Trước khi thực hiện
phẫu thuật cần bật đèn và duy trì trong vòng 30 phút, sau khi tắt đèn 10-15 phút mới
vào làm việc được do sau khi tắt đèn trong phòng có mùi hắc rất khó chịu. Chú ý trong
khi bật đèn người và vật nuôi không được vào phòng vì dưới tác động của tia tử ngoại
có thể gây loét giác mạc, khi cần thiết vào phòng thì nên đeo kính màu đen.
Khi phòng mổ bị ô nhiễm cần tổng vệ sinh phòng mổ. Thông thường người ta
sử dụng formalin xông hơi phòng mổ do chất này có khả năng tiêu diệt được những vi
khuẩn tồn tại trong các khe, kẽ, hang hốc của phòng mổ mà tia tử ngoại không làm
được. Tùy theo mức độ ô nhiễm mà đưa ra thời gian xông hơi dài ngắn khác nhau.
2.4.2. Bãi mổ
Trong lĩnh vực thú y không phải lúc nào cũng có phòng mổ để tiến hành phẫu
thuật. Mặt khác thực tiễn đặt ra là đa phần người chăn nuôi không thể vận chuyển gia
súc đến các phòng mạch do nhiều nguyên nhân khác nhau do đó việc phẫu thuật phải
thực hiện tại địa điểm nuôi gia súc.
Trong điều kiện không có phòng mổ chúng ta cần chuẩn bị một khu vực bằng
phẳng, sạch sẽ, đủ rộng để tiến hành phẫu thuật gọi là bãi mổ.
Bãi mổ cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Tuyệt đối không được sử dụng nơi nghi nhiễm vi khuẩn có nha bào làm nơi

phẫu thuật do những vi khuẩn sinh nha bào là nguyên nhân gây nên những bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm như nhiệt thán, uốn ván,...nha bào của các loại vi khuẩn này có thể
tồn tại rất lâu trong đất.
- Những nơi nghi nhiễm nha bào của các loại vi khuẩn này: nền chuồng trại
trước đây có vật nuôi chết; nơi xử lý các ổ nhiễm trùng, mổ xác chết hay nơi chôn xác,
chất thải của các động vật đã chết vì bệnh đó.
- Bãi mổ phải là nơi bằng phẳng, có diện tích đủ rộng để thực hiện phẫu thuật.
- Bãi mổ phải có đầy đủ ánh sáng nhưng tránh được ánh nắng trực tiếp, mưa, gió.
- Trước khi phẫu thuật cần dọn sạch gạch đá, mảnh sành, đinh gai, các vật cứng,
nhọn để tránh gây thương tích cho vật khi thực hiện cố định và phẫu thuật.
- Trong trường hợp bãi mổ có cỏ qúa tốt cần cắt ngắn trước khi thực hiện phẫu
thuật. Cỏ quá dài làm tăng nguy cơ nhiễm trùng vết mổ.
- Dọn sạch phân, rác, nước tiểu trên mặt nền. Mặt nền có nhiều chất bẩn có thể
rơi vào vết mổ khi con vật giẫy đạp nhiều. Vi sinh vật có nhiều trong các hạt bụi, cát

- 17 -


trong không khí được bay lên mỗi khi vật giẫy đạp.
- Để khử trùng và hạn chế cát bay lên, có thể phun lên mặt nền một số dung
dịch sát trùng như: formalin 4%, chloramin T 0,5%, thuốc tím 0,1%, NaOH 10%,
Ca(OH)210%,… phun một lớp mỏng lên bề mặt nền bãi mổ.
- Sau khi thực hiện phẫu thuật xong phải dọn sạch và xử lý các chất thải, máu,
mủ, mảnh vụn mô bào,…nhất là khi xử lý các trường hợp nhiễm các loại vi khuẩn hình
thành nha bào, phải tuân thủ các quy định về vệ sinh thú y, không được phát tán mầm bệnh.
2.5. Chuẩn bị động vật phẫu thuật
2.5.1. Kiểm tra chung
Việc kiểm tra động vật trước khi thực hiện phẫu thuật đóng vai trò quan trọng,
góp phần giúp nhà phẫu thuật tiên lượng, hạn chế được những tai biến xảy ra trong
suốt quá trình phẫu thuật, đồng thời giúp người phẫu thuật quyết định có tiến hành

phẫu thuật không hoặc nếu có thì cần lưu ý những gì.
Trước khi thực hiện phẫu thuật phải kiểm tra toàn diện các cơ quan, hệ thống
trong cơ thể vật nuôi, chẩn đoán xác định, tiên lượng, đi đến kết luận: có thực hiện
phẫu thuật hay không?
Nội dung kiểm tra:
Kiểm tra hoạt động của các cơ quan quan trọng: tim, gan, phổi, thận; đồng thời
xác định sự rối loạn chức năng của chúng.
Kiểm tra các bệnh truyền nhiễm: khi có nghi ngờ có sự tồn tại của bệnh truyền
nhiễm cần nhanh chóng xác định bằng các phương pháp chẩn đoán đặc hiệu.
Kiểm tra trực tràng, bàng quang: vật nuôi lớn kiển tra qua trực tràng, vật nuôi
nhỏ sờ nắn qua thành bụng. Nếu trực tràng, bàng quang tích nhiều phân và nước tiểu
thì phải giải thoát.
- Trâu, bò, ngựa trưởng thành móc phân trực tiếp qua trực tràng. Chó, mèo dùng
ống thông để thụt trực tràng bằng nước muối ấm pha loãng hay nước xà phòng loãng
(không sử dụng thuốc nhuận tràng).
- Giải thoát nước tiểu bằng cách dùng ống thông niệu đạo. Đối với chó, mèo khi
thông niệu đạo phải chỉ định gây mê. Các con đực của loài nhai lại không thông bàng
quang được vì niệu đạo của nó có đoạn hình chữ “s”. Những trường hợp này giải thoát
nước tiểu bằng cách xoa bóp kích thích cổ bàng quang thông qua trực tràng đối với cá
thể trưởng thành; những cá thể bé thì xoa bóp nhẹ nhàng ngoài da vùng bụng dưới.
Làm như thế cơ vòng bàng quang có thể mở ra, con vật sẽ đi tiểu. Nếu kích thích để
con vật đi tiểu không có kết quả thì dùng cách chọc bàng quang hút nước tiểu ra. Đối
với cá thể lớn chọc hút qua trực tràng nhưng cách này rất nguy hiểm, nguy cơ lọt phân
và nước tiểu vào xoang bụng gây viêm phúc mạc; với những các thể nhỏ nguy cơ viêm
phúc mạc ít hơn. Để tránh tình trạng trên, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung khi
thực hiện thủ thuật ngoại khoa nên chọn kim chọc dò cỡ nhỏ. Sau khi hút hết nước tiểu cần
bơm vào trong bàng quang một lượng vừa phải hỗn hợp Novocain 0,25% + kháng sinh.

- 18 -



Phát hiện và xử lý các ổ nhiễm trùng trên cơ thể vật nuôi: trên cơ thể vật nuôi
có các ổ nhiễm trùng từ trước (mụn nhọt, áp-xe, lỗ rò bệnh lý,…) mầm bệnh có thể từ
đó lan sang vết mổ khi nó ở gần nhau hoặc có thể theo máu, mạch lâm ba xâm nhập
vào vết mổ khi ở cách xa nhau.
Kiểm tra tình trạng vệ sinh chung: xem xét cần thiết phải tắm rửa toàn thân hay
cục bộ cho vật nuôi phẫu thuật. Chú ý những cơ quan có nhiều nếp nhăn, nếp gấp, khe,
kẽ như: cổ, yếm, nách, bẹn, bàn chân, ngón chân,…phải được kỳ cọ bằng bàn chải và
rửa sạch bằng xà phòng và nước sạch.
Xác định tính cấp thiết của phẫu thuật: tính cấp thiết của phẫu thuật chia ra làm
2 loại: phẫu thuật không trì hoãn và phẫu thuật có thể trì hoãn.
* Phẫu thuật không trì hoãn:
- Là những phẫu thuật nếu không được tiến hành ngay thì sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tình trạng sức khỏe của vật nuôi.
- Gặp các trường hợp phẫu thuật không trì hoãn chúng ta phải tiến hành ngay trong
bất kỳ thời gian nào, ngay cả khi các điều kiện phẫu thuật chưa được như mong muốn.
* Phẫu thuật có thể trì hoãn:
- Là phẫu thuật chưa phải tiến hành ngay tức thời, dù có thực hiện muộn nhưng
không hoặc ít ảnh hưởng tới sức khỏe vật nuôi.
- Nếu phẫu thuật có thể trì hoãn được, trước khi phẫu thuật cần bắt vật nuôi ăn
ít hoặc nhịn ăn hoàn toàn từ 12-24h nhưng phải cho uống đủ nước.
- Khi phẫu thuật có chỉ định gây mê, thời gian cho vật nuôi nhịn ăn từ 12-24h.
Vật nuôi ăn no gây khó khăn cho việc gây mê bằng đường dạ dày. Hay gây cản trở hô
hấp do chất chứa dạ dày rơi vào khí quản khi nôn. Ở ngựa có thể gây vỡ dạy dày do
cho ăn quá no khi gây mê.
Đối với vật nuôi quá yếu: cần có các biện pháp tăng cường sức khỏe trước khi
thực hiện phẫu thuật bằng các biện pháp: cho ăn các thức dễ tiêu, giàu dinh dưỡng và
vitamin. Sử dụng các kích thích phi đặc hiệu (huyết liệu pháp, mô bào liệu pháp,…).
Sau khoảng thời gian 2 -3 tháng con vật đỡ suy kiệt, có khả năng chịu đựng được phẫu
thuật khi đó mới tiến hành phẫu thuật.

Đối với vật nuôi cái: cần xác định có thai hay không, giai đoạn mang thai. Khi
phẫu thuật vật nuôi mang thai có thể gây sảy thai do việc cố định và gây mê, đặc biệt
đối với những cá thể mang thai ở giai đoạn đầu và giai đoạn cuối. Trong trường hợp
này nếu là phẫu thuật không thể trì hoãn thì cần tiến hành phẫu thuật trong tình trạng
không gây mê mà sử dụng các biện pháp gây tê dẫn truyền, gây tê thấm kết hợp với
việc cố định chắc chắn. Cần chú ý các thao tác khi cố định vật nuôi mang thai cần nhẹ
nhàng, tránh việc gây hoảng sợ cho gia súc.

- 19 -


2.5.2. Xử lý da vùng phẫu thuật
Trên bề mặt lông, da của cơ thể vật nuôi có chứa nhiều vi sinh vật; các vật lạ từ
đó có thể vấy nhiễm vào vết mổ. Bề mặt che phủ của vật nuôi rất rộng vì vậy không
thể xử lý toàn bộ cơ thể của chúng được mà chỉ có thể xử lý tại cục bộ vùng phẫu
thuật. Xử lý vùng phẫu thuật tốt cũng góp phần đảm bảo cho sự thành công của phẫu
thuật, xử lý không đạt yêu cầu nguy cơ nhiễm trùng xảy ra là tất yếu.
Cắt, cạo lông thật sạch rộng gấp 2 – 3 lần vùng phẫu thuật. Thực hiện cạo lông
khi vùng phẫu thuật ít lông. Nếu vùng phẫu thuật nhiều lông phải cắt sơ bộ, sau đó
dùng dao cạo sạch.
Trâu, lợn có ít lông do đó khi thực hiện phẫu thuật chỉ cần cắt lông là được. Vật
nuôi ăn thịt nói chung, chó mèo nói riêng có hệ thần kinh linh hoạt do đó rất dễ bị kích
thích. Nếu xung quanh mép vết mổ có nhiều lông sẽ làm chậm đáng kể thời gian liền
của vết mổ, vì thế khi thực hiện phẫu thuật ở chó mèo hay vật nuôi ăn thịt nhất thiết
phải cạo sạch lông.
Dùng xà phòng và nước rửa sạch da vùng phẫu thuật. Chú ý nếu vùng phẫu
thuật có nhiều nếp nhăn cần kỳ cọ kĩ lưỡng. Sau khi rửa bằng xà phòng thì dùng nước
rửa sạch xà phòng, lau khô bằng vải gạc vô trùng. Sau đó sát trùng kĩ 2 lần bằng cồn
iod 5% hay povidone iodine 5%. Lần thứ nhất ngay sau khi rửa sạch và lau khô vùng
phẫu thuật, lần thứ 2 sau khi gây tê xong và chuẩn bị nhát cắt đầu tiên.

Ngoài ra có thể sử dụng một số chất sau để sát trùng da vùng phẫu thuật như:
tanin 5%, KMnO4 1%, cồn xanh methylen 1%.
Phương pháp sát trùng trên cơ quan, mô bào lành mạnh hoàn toàn khác với trên
cơ quan, mô bào bị bệnh.
- Đối với việc phẫu thuật trên mô bào lành mạnh thì cách sát trùng theo hướng
từ trung tâm vùng phẫu thuật đi ra tạo thành những vòng tròn đồng tâm. Với cách sát
trùng này mật độ thuốc sát trùng tại vùng trung tâm (vị trí vết mổ) là cao nhất do đó sẽ
ngăn cản được sự xâm nhập của vi sinh vật từ vùng bên ngoài vào vết mổ.
- Đối với việc phẫu thuật trên vùng mô bào bệnh lý (đã có sự khu trú của vi sinh
vật tại đó) thì việc sát trùng sao cho không phát tán nguồn bệnh ra vùng có mô bào
lành mạnh. Cần sát trùng theo hướng từ ngoài vào trong (từ ngoài vào trung tâm vùng
phẫu thuật). Bằng cách này sẽ tạo được mật độ thuốc sát trùng ở vòng ngoài cao hơn
vòng trong do đó sẽ ngăn chặn được sự phát tán của mầm bệnh ra xung quanh.
Sau khi xử lý vùng phẫu thuật xong: sử dụng tấm choàng vô trùng phủ lên vùng
phẫu thuật. Thông thường người ta dùng hai tấm choàng chồng lên nhau. Tấm trên nhỏ
hơn tấm dưới một chút, ở giữa các tấm choàng được đục lỗ hình bầu dục có độ lớn
- 20 -


tương đương với vùng phẫu thuật. Dùng panh kẹp cố định tấm choàng chắc chắn vào
da nhằm tránh bị xê dịch trong khi phẫu thuật. Phần còn lại của tấm choàng phủ kín
lên cơ thể vật nuôi nhằm tránh lông bay vào vết mổ.
2.5.3. Xử lý niêm mạc vùng phẫu thuật
Trên bề mặt niêm mạc có rất nhiều vi sinh vật cư trú do đó cần thiết phải xử lý
nhằm hạn chế sự xâm nhập của chúng vào vết mổ. Niêm mạc mỏng và dễ bị kích ứng
hơn da vì vậy khi phẫu thuật ở các niêm mạc thì phương pháp tiệt trùng có khác so với
tiệt trùng vùng da.
Niêm mạc mắt, mũi, miệng rửa bằng dung dịch rivanol 0,1%, cresol 2%, da
vùng xung quanh sử dụng cồn iod 3% để sát trùng.
Đối với niêm mạc âm đạo sát trùng bằng dung dịch acid lactic 1%, rivanol

0,1%, thuốc tím 0,1%, cresol 2%, còn đối với da vùng âm hộ sử dụng cồn iod 3% để
sát trùng.
Đối với niêm mạc trực tràng thụt rửa bằng dung dịch thuốc tím 0,1% hay cresol
2%, da vùng xung quanh hậu môn sát trùng bằng cồn iod 3%.
2.6. Chuẩn bị dụng cụ
2.6.1. Các loại dụng cụ thường dùng
Những dụng cụ cần dùng sẽ tùy thuộc vào mục đích và quy mô của cuộc giải
phẫu. Các dụng cụ sau đây thường được dùng trong các ca phẫu thuật thông thường.

Hình 20. Dao mổ: lưỡi số

Hình 21. Một số loại giao mổ

11, cán số 3

Dao mổ: có hai loại cán rời và cán liền. Nên sử dụng loại cán rời, có hai cỡ: cán
dao số 3 và cán dao số 4. Các lưỡi dao thường dùng là 20, 21,22, 23 cho cán dao số 4;
và lưỡi 10, 11, 15 dùng cho cán số 3.
Kéo mổ: kéo giải phẫu có nhiều kiểu có loại đầu nhọn, tù, kéo cong, kéo
thẳng,…Tùy vào mục đích của ca phẫu thuật mà chọn dụng cụ cho phù hợp. Trong

- 21 -


một ca phẫu thuật cần nhiều loại kéo cho nhiều mục đích khác nhau (kéo cắt chỉ, kéo
cắt lông, kéo cắt mô) chúng ta phải làm dấu để tránh lầm lẫn giữa các loại
Panh kẹp kim: dùng để kẹp kim khi khâu.

Hình 22. Một số loại dụng cụ chuẩn bị phẫu thuật


Panh kẹp máu: có chức năng cầm máu (kẹp các mạch máu đứt hay thực hiện các
động tác xoắn vặn mạch máu). Panh có 2 loại: thẳng và cong
Kẹp cố định tấm choàng phẫu thuật: giúp cố định tấm choàng lên da thú.
Dụng cụ banh vết mổ: giúp việc mở rộng vết mổ để thuận tiện cho người phẫu
thuật dễ thao tác, nhìn rõ mô bào phía sâu của vết mổ. Dụng cụ banh vết mổ có 2 loại:
loại kéo bằng tay và loại điều chỉnh bằng ốc vặn.
Nhíp: có 2 loại, loại có mấu và không có mấu. Loại có mẫu dùng để giữ bờ vết
thương khi khâu. Loại không mấu giúp gắp và quan sát các mô bên trong.
Cây hướng dẫn (xông): sử dụng cây này cho vào dưới phúc mạc và dùng kéo để
mở rộng phúc mạc về hai phía của đường mổ, giúp ngăn ngừa không cho mũi kéo
chạm vào các cơ quan bên trong xoang bụng.
Dụng cụ tách mô bào như: dao, cưa, kéo, đục, khoan, móc mở rộng vết
thương,…Dao, kéo để cắt các mô mềm. Cưa, đục, khoan để cắt các mô cứng. Các
dụng cụ tách mô bào cần sáng bóng và thật sắc sao cho các vết cắt được thực hiện một
cách nhanh gọn.
Dụng cụ cầm máu như: vải gạc thấm máu, panh kẹp mạch máu hay gọi là panh
kẹp máu, thanh kim loại nung nóng, dụng cụ để đặt ga-rô,…
Dụng cụ kết nối tổ chức như: kim, chỉ, đinh, vít, móc,…
Dụng cụ băng bó như: bông, băng, vải gạc, băng chun, băng bột,…
Dụng cụ vệ sinh: bàn chải, xà phòng, xô, chậu, chổi, cuốc, xẻng,… rất cần thiết
nhất là nơi phẫu thuật xa khu dân cư.
Dụng cụ cố định: gióng, giá, cũi, thừng, chão, dây xích, rọ mõm,…cần được
chuẩn bị trước, đủ độ bền chắc tương thích với vật nôi cần cố định.

- 22 -


Mỗi loại dụng cụ cần dùng phải được chuẩn bị đủ về số lượng, ít nhất mỗi loại
phải có 2 chiếc, có loại cần nhiều hơn, các loại dụng cụ phẫu thuật cần sáng bóng, sắc
bén, bền chắc theo yêu cầu. Mỗi loại dụng cụ cần lựa chọn phương pháp tiệt trùng

thích hợp.
2.6.2. Tiệt trùng dụng cụ phẫu thuật
Trong quá trình phẫu thuật, dụng cụ phẫu thuật là yếu tố trực tiếp tiếp xúc với
các mô bào tại vùng phẫu thuật do đó nó một trong các yếu tố chính gây ra nhiễm
trùng vết mổ vì vậy việc tiệt trùng dụng cụ phẫu thuật trở nên vô cùng quan trọng.
Có rất nhiều chủng loại dụng cụ sử dụng trong phẫu thuật do đó cũng có nhiều
phương pháp xử lý khác nhau tương ứng với từng loại dụng cụ.
* Phương pháp luộc
Luộc là phương pháp tiệt trùng dụng cụ phổ biến, tiện lợi và có hiệu quả cao.
Dùng để xử lý những dụng cụ bằng kim loại, cao su, vải gạc, thủy tinh. Để tiệt trùng
dụng cụ bằng phương pháp luộc cần chuẩn bị nồi luộc và nước luộc.
Nồi luộc: nồi chuyên dụng dùng để tiệt trùng dụng cụ bằng phương pháp luộc
được gọi là “nồi hấp dụng cụ”. Nếu không có nồi hấp chuyên dụng ta có thể sử dụng
xoong, nồi có nắp đậy kín.
Nước luộc: tốt nhất là sử dụng nước cất 2 lần. Thông thường nước để luộc dụng
cụ có thể là nước mưa, nước giếng sạch, nước máy. Đối với dụng cụ dùng để pha chế
thuốc gây mê nên luộc bằng nước cất. Chú ý không dùng nước quá cứng để luộc dụng
cụ do trong nước cứng có các muối hòa tan gây lắng đọng và bám vào dụng cụ bằng
sắt gây han gỉ, giảm độ sắc bén.
Chỉ cho dụng cụ vào luộc khi nước đã sôi được tối thiểu 3 phút (trừ những dụng
cụ bằng thủy tinh). Với khoảng thời gian này phần lớn lượng muối hòa tan đã lắng
đọng nên ít gây ăn mòn và bám vào dụng cụ.
Thêm vào nước luộc một số muối kiềm như: Na2CO3 1%, NaOH 2%,…để làm
tăng hiệu quả tiệt trùng cũng như làm kết tủa các muối có sẵn trong nước từ đó tránh
được hiện tượng ăn mòn và han gỉ dụng cụ kim loại.
Đối với các dụng cụ còn mới, trước khi luộc cần được tẩy mỡ sạch sẽ. Các dụng
cụ to, kết cấu phức tạp cần tháo rời.
Thời gian luộc phải đạt tối thiểu 30 phút, nếu có bổ sung thêm muối kiềm thì
thời gian phải đạt từ 10 - 15 phút. Đối với các dụng cụ đã sử dụng để mổ các ổ áp xe,
xác chết thì thời gian sôi khi luộc không dưới 30 phút. Với dụng cụ nghi nhiễm vi

khuẩn sinh nha bào phải dùng phương pháp hấp cao áp.
Dụng cụ sau khi luộc xong được vớt ra để theo từng loại vào trong khay đã tiệt
trùng, rồi dùng vải gạc vô trùng phủ lên tránh bụi, côn trùng rơi vào và đem sử dụng ngay.

- 23 -


* Phương pháp hấp ướt thông thường
Có thể dùng phương pháp hấp hơi ở áp suất thường để xử lý dụng cụ. Dùng
xoong nhôm hay tráng men có thành đứng, cao và nắp đậy kín. Đổ nước vào xoong đạt
1/3 dung tích, phía trên đặt khay đục lỗ đựng dụng cụ, đậy vung, đun sôi nước để tận
dụng hơi nóng của nước khi bay lên. Phương pháp này áp dụng cho những nơi không
có nguồn nước sạch. Thời gian hấp kể từ khi nước sôi phải từ 30 phút trở lên.
* Phương pháp hấp ướt cao áp
Phương pháp này dùng nồi hấp chuyên dụng (nồi hấp cao áp – autochlave) nén
hơi nước sôi lên áp suất cao hơn áp suất khí quyển. Áp suất trong nồi càng cao thì
nhiệt độ trong nồi càng tăng lên cao.
Nếu áp suất ở 1,5 atm thì nhiệt độ đạt được tương ứng 126,80C.
Nếu áp suất ở 2,0 atm thì nhiệt độ đạt được tương ứng là 132,90C.
Nồi hấp cao áp có đặc điểm chung là có thành dày có khả năng chịu được áp
suất cao; có các đồng hồ cho biết áp suất, thời gian hấp.
Dùng nồi hấp cao áp cho phép tiệt trùng các dụng cụ bằng vải bông tự nhiên
(băng, gạc, chỉ khâu, tấm choàng,…), các loại chai lọ bằng thủy tinh, sành sứ, các loại
dung dịch tiêm truyền.
Đây là phương pháp tiệt trùng dụng cụ tốt nhất. Nó tiêu diệt được mọi loại mầm
bệnh, kể cả vi khuẩn có nha bào.
Thời gian hấp: nếu tiệt trùng ở 1,5 atm cần duy trì thời gian hấp là 30 phút; ở
2,0 atm thời gian hấp là 20 phút.
* Phương pháp sấy khô
Phương pháp này dùng tủ sấy để xử lý dụng cụ, nhiệt độ trong tủ sấy có thể đạt

được 1500C. Dùng để tiệt trùng dụng cụ bằng thủy tinh, sành sứ, các dụng cụ có nguồn
gốc khác nhau trừ những dụng cụ bằng nhựa mềm, vải và các dụng cụ bằng cao su.
Không nên sấy dụng cụ bằng kim loại ở nhiệt độ cao vì làm non dụng cụ. Để tiệt trùng
dụng cụ cần duy trì nhiệt độ ở 1200C trong thời gian 30 phút. Chú ý chỉ đưa dụng cụ
vào sấy khi đã được rửa sạch, phơi khô.
* Phương pháp là
Phương pháp này sử dụng sức nóng tỏa ra từ mặt bàn là để tiệt trùng các dụng
cụ có nguồn gốc từ sợi bông tự nhiên (quần áo bảo hộ, tấm choàng, mũ, khẩu
trang,…).
Bàn là có loại sử dụng điện hay bàn là sử dụng than, nhiệt độ tỏa ra từ bàn là có
thể đạt 1500C. Các vi sinh vật nằm dưới mặt bàn là đều bị đốt cháy.

- 24 -


Khi sử dụng bàn là để tiệt trùng chú ý cần di chuyển bàn là trên toàn bộ bề mặt
của đồ vật để đảm bảo tất cả các vị trí của đồ vật đều được là qua một số lần. Thời
gian là trên đồ vật cũng cần đảm bảo đủ thời gian để giết chết vi sinh vật.
* Phương pháp hơ lửa
Một số dụng cụ to lớn kềnh càng như: mặt bàn, khay, chậu không thể tiệt trùng
bằng các phương pháp trên thì có thể dùng phương pháp hơ lửa.
Chuẩn bị những cục bông (bông thấm nước) hay sợi vải có nguồn gốc là các sợi
bông tự nhiên tẩm đẫm cồn 700 đốt rồi hơ toàn bộ bề mặt dụng cụ cần tiệt trùng. Cần
hơ đều toàn bộ bề mặt dụng cụ một số lần với một thời gian nhất định để đảm bảo đã
giết chết vi sinh vật.
Phương pháp hơ lửa được dùng để xử lý que cấy vi khuẩn. Những que cấy này
được đốt trên ngọn lửa đèn cồn.
* Phương pháp dùng hóa chất
Biện pháp dùng hóa chất để tiệt trùng dụng cụ và vật liệu thường không đạt
hiệu quả cao vì các lí do sau:

- Thông thường hóa chất chỉ làm vi khuẩn ngừng phát triển chứ không diệt
được vi khuẩn, nhất là với các vi khuẩn sinh bào tử.
- Hóa chất có tính lựa chọn của nó: diệt khuẩn đối với nhóm vi khuẩn này
nhưng có thể là kìm khuẩn với nhóm vi khuẩn khác.
- Máu, mủ, dầu mỡ, mô bào hay các chất bẩn dính trên dụng cụ sẽ làm giảm
hiệu lực của hóa chất.
Do đó người ta sử dụng hóa chất để tiệt trùng đối với các dụng cụ không chịu
được nhiệt độ. Người ta thường sử dụng các loại hóa chất sau để tiệt trùng dụng cụ:
Công thức 1: Sodium tetraborate : 50g
Formalin 10%
: 1000ml
Công thức 2: Formalin 38%
: 130ml
Potassium nitrate : 0,15g
Sodium hydroxide
Ethyl alcohol 95%
Công thức 3: Formalin 38%
Sodium hydroxide
Nước cất vừa đủ
Công thức 4: Phenol
Acide boric
Formalin
Nước cất vừa đủ

: 0,012g
:100ml
:135ml
: 10g
: 1000ml
: 10-15g

: 15g
: 3g
: 1000ml

- 25 -


×