Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Giáo dục cho trẻ khuyết tật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.86 KB, 15 trang )

Giáo dục cho trẻ khuyết tật

MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................................................2
I) CÁC KHÁI NIỆM...............................................................................................................................3
II) THỰC TRẠNG.................................................................................................................................3
III) MỘT SỐ RÀO CẢN TRẺ KHUYẾT TẬT TIẾP CẬN GIÁO DỤC CÓ CHẤT LƯỢNG................................5
1) Rào cản trong việc đi học chuyển cấp........................................................................................5
2) Rào cản trong quá trình học tập................................................................................................5
3) Rào cản từ phía công tác quản lý giáo dục trẻ khuyết tật........................................................10
IV) MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM KHẮC PHỤ RÁO CẢN..........................................................................10
LỜI KẾT............................................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................................14

1
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, trẻ em luôn được quan tâm hàng đầu, Bác nói: “trẻ
em là chủ nhân tương lai của đất nước”, vậy mà hiện nay, có rất nhiều trẻ em
phải chịu những thiệt thòi về vật chất lẫn tinh thần, điều này càng ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển của đất nước trên mọi phương diện.
Theo thông kê, Việt Nam hiện có khoảng 6.7 triệu người khuyết tật, chiếm
7,8% dân số, trong đó có khoảng 1,3 triệu là trẻ em. Đây là nhóm dễ bị tổn
thương và chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Họ gặp khó khăn trong học tập, việc
làm, hôn nhân.


Giáo dục là 1 quyền cơ bản của con người và là điều kiện thiết yếu để thực
hiện các quyền khác của con người. Người khuyết tật là nhóm đối tượng thiệt
thòi về cơ hội thực hiện quyền thụ hưởng một nền giáo dục chất lượng. Đối với
người khuyết tật, quyền được giáo dục cần phải được hỗ trợ trên cơ sở bình đẳng
và không phân biệt đối sử thông qua giáo dục hòa nhập, thân thiện, chất lượng ở
các cấp độ và các cơ hội học tập.
Giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với giáo dục trẻ
khuyết tật trên thế giới. Hơn nữa cũng không có nhiều tài liệu khẳng định một
cách tương đối đầy đù và chi tiết về vấn đề này. Tuy nhiên, tương tự như lịch sử
giáo dục trẻ khuyết tật trên thế giới, các trường hợp, cơ sở giáo dục trẻ khiếm
thính và khiếm thị được ra đời sớm so với ác cơ sở giáo dục trẻ chậm phát triển
trí tuệ, trẻ khuyết tật vận động, trẻ khuyết tật ngôn ngữ…

2
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

I) CÁC KHÁI NIỆM.
-Trẻ em: Mọi người dưới 18 tuổi ( Trừ khi theo luật có thể áp dụng với trẻ
em tuổi trưởng thành được quy định sớm hơn). Về mặt sinh học, một đứa trẻ là bất
kỳ ai trong quá trình phát triển của tuổi ấu thơ, giữ sinh trưởng và trưởng thành.
-Khuyết tật: Bất cứ sự hạn chế hay thiểu hụt khả năng thực hiện hoạt động
theo cách thức hoặc trong phạm vi được coi là bình thường của con người. Theo
cách hiểu này thì khuyết tật được đề cập chủ yếu là do các yếu tố xã hội, môi
trường gây nên.
-Trẻ chậm phát triển (CPTTT): là một khiếm khuyết của 1 sự phát triển trí
não. Trẻ có hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình, hạn chế về kỹ năng thích ứng

và khuyết tật xuất hiện trước 18 tuổi.
II) THỰC TRẠNG
-Thực tế chứng minh rằng,: Người khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật nói
riêng luôn luôn chiếm 1 tỉ lệ nhất định trong thành phần dân cư của mọi chế độ
xã hội.
-Hơn 1 thập kỹ qua, thực hiện các chủ trương, chính sách hỗ trợ giáo dục
của Đảng và Nhà nước, công tác giáo dục ở nước ta đã có những bước tiến đáng
kể. Số lượng trẻ khuyết tật tham gia học ở các cơ sở giáo dục mầm non, phổ
thông tăng, chất lượng giáo dục của người khuyết tật từng bước được nâng lên.
Nhiều học sinh khuyết tật đã tự tin, không ngừng nổ lực phấn đấu vương lên đạt
thành tích cao trong học tập, nghiên cứu khoa học.
-Công tác đào tạo nguồn lực cho giáo dục khuyết tật ngày càng được quan
tâm. Đến nay, các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã có các khoa đào tạo, giáo
dục đặc biệt. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ liên quan đã ban hành
mã ngành đào tạo giáo dục trẻ em khuyết tật, giáo dục đặc biệt. Có 264 cán bộ
quản lý giáo dục của 63 tỉnh, thành phố và giảng viên của các trường đại học và
cao đẳng sư phạm trong cả nước đã được bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật,
gần 700 giáo viên trung học được đào tạo trình độ chuyên môn về giáo dục hòa
nhập trẻ khuyết tật tại 7 trường cao đẳng sư phạm, hơn 10.000 giáo viên mầm
non và trung học được bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng dạy học trẻ khuyết tật,
mạng lưới giáo viên cốt cán của các huyện được hình thành để đáp ứng nhu cầu
đi học của gần 230.000 trẻ khuyết tật.
-Tuy nhiên công tác giáo dục đối với người khuyết tật vấn còn những khó
khăng thách thức về nhận thức và trách nhiệm của xã hội về nguồn lực cho giáo
3
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật


dục đối với người khuyết tật (đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy học sinh
khuyết tật, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho người khuyết tật). Ngoài ra
công tác huy động các lực lượng xã hội tham gia hỗ trợ giáo dục đối với người
khuyết tật vẫn còn nhiều khó khăn đã làm hạn chế hiệu quả của giáo dục hòa
nhập và cơ hội tiếp cận các giáo dục của người khuyết tật.
-Vẫn còn phần lớn trẻ em khuyết tật chưa tiếp cận với các dịch vụ giáo dục,
nhất là ở nông thôn. Theo đánh giá của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hôi
năm 2008, mới chỉ có 36.8% người khuyết tật đã từng đi học tại khác trường tiểu
học và phổ thông. Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế khó khăn, nhận
thức của gia đình và cộng đồng, cơ sở vật chất giáo dục chưa được bảo đảm điều
kiện tiếp cận…
-Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của giáo dục, hệ thống quản
lý giáo dục trẻ khuyết tật được hình thành ở 63 tỉnh, thành phố và bước đầu đi
vào hoạt động. Tuy nhiên, thực trạng giáo dục trẻ khuyết tật ở Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Các hạn chế này nằm ở mọi mặt của giáo dục trẻ khuyết tật và chi
phối mọi hoạt động của mảng giáo dục này. Trong khi cộng đồng chưa nhận thức
đủ vai trò và trách nhiệm của xã hội trong việc giáo dục trẻ khuyết tật thì mọi
điều kiện phát triển cho giáo dục trẻ khuyết tật đều rất hạn chế.
-Cơ sở vật chất cho giáo dục trẻ khuyết tật còn kém về chất lượng và thiếu
về số lượng, chủng loại. Các cơ sở giáo dục trẻ khuyết tậ chưa có những trang
thiết bị cần thiết cho việc dạy học như sách giáo khoa, đồ dùng dạy học đặc thù
cho từng loại trẻ khuyết tật.
-Ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục trẻ khuyết tật chưa chính thức và
còn ít. Cơ chế chính sách về giáo dục trẻ khuyết tật chưa đủ để đảm bảo cho việc
xây dựng, quản lý và phát triển hệ thống giáo dục trẻ khuyết tật.
-Hầu hết phụ huynh trẻ khuyết tật chưa được tiếp cận với chương trình giáo
dục của con em mình. Chính vì vậy, vai trò của phụ huynh trong việc chăm sóc,
giáo dục trẻ khuyết tật ở nước ta còn nhiều hạn chế. Có thể nói phụ huynh là lược
lượng hổ trợ giáo dục quan trọng bậc nhất nhưng chưa được phát huy. Phụ huynh

có nhiều thời gian với trẻ, hiểu tâm sinh lí trẻ nhất nhưng do kiến thức, kỹ năng
và không biết nội dung, tiếng trình dạy trẻ cho nên sự hỗ trợ của phụ huynh trong
việc chăm sóc, giáo dục trẻ rất hạng chế.

4
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

III) MỘT SỐ RÀO CẢN TRẺ KHUYẾT TẬT TIẾP CẬN GIÁO DỤC CÓ
CHẤT LƯỢNG.
1) Rào cản trong việc đi học chuyển cấp.
a) Số lượng tỉ lệ trẻ khuyết tật đi học phổ thông hiện nay ở địa phương chưa
xác định được đầy đủ và chính xác, điều này là bất cập so với yêu cầu về “xây
dựng hệ thống quản lý thông tin về trẻ em có hoàn cảnh khó khăng từ trung ương
đến địa phương” trong Điều 6: Nội dung quản lý về giáo dục hòa nhập (thông tư
số 39/2009/TT-BG-ĐT)
b) Một số trẻ khuyết tật còn khả năng đi học nhưng chưa tiếp cận được giáo
dục tiểu học do công tác tuyên truyền vận động và nhận thức của cha mẹ còn hạn
chế, hoàn cảnh gia đình khó khăng, nhà xa trường học hoặc bị từ chối dưới các
hình thức khác nhau.
Một số trẻ khuyết tật đi học muộn so với độ tuổi do gia đình không để con
đi học hoặc do tiếp cận thông tin muộn. Thông thường khi quá tuổi, bản thân trẻ
khuyết tật và gia đình sẽ không muốn đi học nữa, nhà trường cũng ngại nhận…
c) Tỉ lệ học sinh khuyết tật cấp trung học cơ sở thấp hơn rất nhiều so với cấp
tiểu học do gia đình trẻ khuyết tật bằng lòng với mục tiêu là trẻ biết đọc, biết viết
sau khi hoàn thành bậc tiểu học, hơn nữa học sinh khuyết tật đã nhiều tuổi có thể
lao động giúp gia đình hoặc kiếm sống, đặc biệt trương trình trung học cơ sở khó

hơn so với tiểu học, thêm vào đó là thiếu sự quản lý, theo dõi chặt chẽ việc
chuyển cấp của học sinh khuyết tật.
Việc học chuyển tiếp của học sinh khuyết tật còn gặp khó khăn khi học sinh
khuyết tật học chuyên biệt có khả năng học tiếp gặp khó khăn khi chuyển lên cấp
THCS, hoặc THPT vì ở các trường hòa nhập chưa sẵn sàng tiếp nhận lý do là:
cán bộ quản lý và giáo viên chưa được bồi dưỡng chuyên môn, thiếu các phương
tiện đặc thù như sách giáo khoa chữ nổi, giáo viên không biết chữ nổi hoặc giao
tiếp bằng ngôn ngữ ký hiệu như trong trường chuyên biệt.
d) Chưa có quy chế chuyển cấp từ THCS lên THPT cho học sinh khuyết tật.
Học sinh khuyết tật học chuyên biệt có khả năng học tiếp gặp khó khăn khi
chuyển hòa nhập cấp THCS, hoặc THPT vì các trường chưa đủ điều kiện để tiếp
nhận.
2) Rào cản trong quá trình học tập.
a) Do thiếu tiêu chí và công cụ đánh giá trẻ khuyết tật nên không đánh giá
đúng khả năng của học sinh khuyết tật gây ảnh hưởng đến xác định mục tiêu và
5
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

biện pháp tác động đến từng em. Học sinh khuyết tật thường được xác định khả
năng dưới mức độ phát triển nên khi dạy học giáo viên không đặt kỳ vọng đúng
mức với trẻ, hoặc giáo viên nhầm lẫn dạng và mức độ khó khăn dẫn đến sai lệch
trong sử dụng phương tiện hỗ trợ học sinh khuyết tật.
Tiêu chí để xác định thế nào là trẻ khuyết tật ở Điều 2.Dạng tật trong Nghị
định 28/2012/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều luật
Người khuyết tật chưa phù hợp với tất cả các dạng tật. Đồng thời, cho đến nay
vẫn chưa có hướng dẫn và công cụ để xác định trẻ khuyết tật. Do vậy, các địa

phương mới chỉ xác định người khuyết tật một cách chủ quan theo cảm tính và
những biểu hiện bên ngoài và tập trung vào việc khả năng tự phục vụ bản thân
của người khuyết tật. Một số dạng khuyết tật như khiếm thị, khiếm thính thường
được xác định dựa vào kết luận của Y tế. Việc xác định và đánh giá chức năng
cho trẻ khuyết tật trí tuệ một cách khoa học thì vẫn chưa thực hiện được. Tiêu chí
về dạng trẻ chậm phát triển trí tuệ (CPTTT) và công cụ đánh giá dạng tật này
còn chưa rõ ràng, cũng như việc xác định cơ quan chuyên môn nào có thẩm
quyền xác nhận trẻ khuyết tật đang là vấn đề và trở thành rào cản đối với thực
tiễn giáo dục trẻ khuyết tật. Những khó khăn này dẫn tới hệ quả không muốn, thể
hiện ở cả hai khía cạnh sau:
+Thứ nhất, trẻ khuyết tật thực sự nhưng chưa được thừa nhận là khuyết tật
để được ứng xử và tiếp cận phù hợp trong giáo dục. Điều này xảy ra khá phổ
biến đối với học sinh CPTTT ở các địa phương mà không có cơ quan chuyên
môn về tâm lý, tâm thần để có thể sử dụng các công cụ đánh giá, sàng lọc. Ngay
ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM thì cũng chưa có sự thống nhất sử
dụng công cụ nào để đánh giá cho phù hợp và cơ quan, tổ chức nào được coi là
có thẩm quyền chuyên môn để đánh giá TCPTTT. Chính vì vậy, mặc dù Luật
người khuyết tật đã có hiệu lực nhưng chính quyền cấp xã, phường có thể vẫn từ
chối việc xác nhận trẻ khuyết tật, điều này có nghĩa là trẻ khuyết tật khó có được
giấy xác nhận khuyết tật theo quy định tại Điều 15 và 16 Luật người khuyết tật
và Điều 2,3 của Nghị định 28/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2012 hướng dẫn xác
định dạng tật và đánh giá mức độ tật. Do đó dẫn đến khó khăn trong việc lập
được hồ sơ học sinh khuyết tật. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ học sinh
lưu ban của trường hòa nhập, mà còn dẫn đến hậu quả là học sinh khuyết tật quá
tuổi tiểu học nhưng chưa hoàn thành chương trình tiểu học và phải nghỉ học,
không có cơ hội học tiếp lên THCS.
+Thứ hai, HS không phải là khuyết tật nhưng bị coi là khuyết tật. Trong
thực tế có những trường hợp trẻ có các khiếm khuyết nhỏ và không gây khó khăn
thực sự cho việc nhìn và học nhưng bị gán mác cho là khuyết tật từ đó bị coi là
6

SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

hạn chế về khả năng và có thể được xếp vào nhóm trẻ khuyết tật cần đánh giá
theo sự tiến bộ, mà không xếp loại, để đỡ ảnh hưởng đến tỷ lệ xếp loại học sinh
về văn hóa.
b) Việc lập kế hoạch giáo dục cá nhân cho học sinh khuyết tật ở các cơ sở giáo
dục (cả hòa nhập và chuyên biệt) còn chưa thật phù hợp hoặc còn mang tính hình
thức, thậm chí có trường tiểu học không làm. Điều này ảnh hưởng đến toàn bộ
quá trình dạy học, đánh giá kết quả và sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh
của trẻ khuyết tật. Chỉ có 52 giáo viên dạy hòa nhập chiếm 42,6% trong mẫu
khảo sát biết cách dạy học sinh khuyết tật, số còn lại do chưa được tập huấn,
hoặc chưa được chỉ đạo về điều chỉnh mục tiêu, nội dung dạy học sinh khuyết tật,
cũng như không nắm được phương pháp dạy học đặc thù nên quan niệm và dạy
học sinh khuyết tật như dạy học sinh yếu kém. Phương pháp dạy không phù hợp
với học sinh khuyết tật nên giáo viên bất lực và đổ lỗi cho trẻ khuyết tật, bỏ rơi
các em trên lớp và dẫn đến hoài nghi của một số cán bộ quản lý và giáo viên về
tính thích hợp của giáo dục hòa nhập, đặc biệt ở các trường có học sinh khuyết
tật dạng CPTTT, tự kỉ và ở cấp THCS.
Đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục hoà nhập là
một yêu cầu có ý nghĩa chiến lược, nhưng trên thực tế còn rất bất cập so với
quyền của giáo viên tham gia dạy hòa nhập.
c) Ở tất cả các cơ sở giáo dục hòa nhập và chuyên biệt đều thiếu phương tiện
dạy học phù hợp với học sinh khuyết tật và phương tiện hỗ trợ học sinh khuyết
tật học tập, nên càng làm cho việc dạy học sinh khuyết tật khó khăn hơn.
Về thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục trẻ khuyết tật ở
Việt Nam: Đa số các trường hòa nhập đều có phòng máy tính để học sinh học tin

học (tự chọn đối với tiểu học, bắt buộc đối với THCS), do đó đã có 47% HSKT
học hòa nhập đã tiếp cận máy tính trong quá trình học môn Tin học, hoặc ở nhà.
Đây là điều kiện tích cực nếu ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học sinh
khuyết tật. Các trường hòa nhập đều có máy chiếu projector, máy tính xách tay
phục vụ chủ yếu cho giáo viên thực hiện các tiết thao giảng theo yêu cầu từ 2 đến
4 tiết trong năm học, nhưng có trường chuyên biệt lại chưa có. Giáo viên ít sử
dụng công nghệ thông tin trong dạy học vì thiếu phần mềm dạy học, và năng lực
sử dụng công nghệ thông tin đối với một bộ phận giáo viên còn hạn chế. Trong
bối cảnh đó việc ứng dụng cộng nghệ thông tin trong dạy học cho học sinh
khuyết tật trong môi trường hòa nhập gần như chưa có gì. Tại các trường chuyên
biệt đã có những ứng dụng phần mềm dạy ngôn ngữ ký hiệu theo chủ đề và mục
tiêu chính là cung cấp các khái niệm - từ ngữ có kèm theo hình ảnh minh họa cho
7
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

học sinh khiếm thính hay giáo viên xây dựng giáo án điện tử để dạy bài học cụ
thể cho học sinh khiếm thị. Tác động của những ứng dụng công nghệ thông tin
đối với học sinh khuyết tật là tích cực và học sinh khuyết tật hứng thú với những
giờ học có ứng dụng công nghệ thông tin. Do đó, cần phải mở rộng ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học trẻ khuyết tậ theo cả hướng xây dựng học liệu
phục vụ giáo dục hòa nhập, lẫn phần mềm hướng vào khắc phục những khó khăn
đặc thù của từng loại khuyết tật.
d) Môi trường giáo dục hòa nhập còn nhiều học sinh khuyết tật học hòa nhập
bị trêu chọc và xa lánh gây tổn thương cho các em, nhưng ban giám hiệu và giáo
viên không biết. Sự phân biệt đối xử với bạn khuyết tật ở môi trường hòa nhập
THCS thể hiện rõ hơn ở Tiểu học. Hiện tượng bắt nạt trêu chọc nhau cũng xảy ra

ở cả trong môi trường giáo dục chuyên biệt. Ban giám hiệu và giáo viên chưa
quan tâm tìm hiểu những hiện tượng xa lánh, trêu chọc, kỳ thị học sinh khuyết tật
nằm sâu dưới bề mặt quan hệ trong sinh hoạt hàng ngày, để có biện pháp khắc
phục kịp thời, giúp các em tránh bị tổn thương, tự ty, mặc cảm để hòa nhập tốt
hơn. Điều này dẫn đến tình trạng là ban giám hiệu và giáo viên không nắm được
những gì mà một số học sinh khuyết tật đang phải chịu đựng. Mặc dù một số
trường đã quan tâm tổ chức các nhóm bạn giúp học sinh khuyêt tật trong học tập,
sinh hoạt.
Hầu hết các trường hòa nhập chưa có cải thiện về cơ sở vật chất cho phù
hợp với học sinh khuyết tật, có trường còn chưa bố trí lớp học phù hợp cho học
sinh khuyết tật vận động trong điều kiện sẵn có. Môi tường chuyên biệt cũng
chưa đảm bảo thuận tiện, an toàn cho học sinh khuyết tật, thậm chí có trường mới
xây cũng không đảm bảo yêu cầu này. Thực tế này cho thấy các trường hòa nhập
còn chưa đảm bảo những tiêu chí cơ bản trong việc xây dựng trường học thân
thiện theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục-Đào tạo.
e) Đánh giá kết quả học tập hay sự tiến bộ của học sinh khuyết tật ở Tiểu học
dựa vào hướng dẫn của Thông tư 32 theo các nguyên tắc:
+Động viên, khuyến khích và chú trọng đến quá trình rèn luyện kỹ năng
sống, khả năng hoà nhập và sự tiến bộ của các em.
+Căn cứ vào mục tiêu nội dung giáo dục đã điều chỉnh theo kế hoạch giáo
dục cá nhân.
+Dựa vào quy định chung, có giảm nhẹ yêu cầu hoặc miễn giảm nội dung
giáo dục phù hợp với đặc điểm của nhóm và mỗi cá nhân trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn.
8
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật


Còn đánh giá kết quả học tập hay sự tiến bộ của học sinh khuyết tật ở
THCS dựa vào hướng dẫn của Thông tư 58, theo đó học sinh khuyết tật được
đánh giá theo nguyên tắc động viên, khuyến khích sự nỗ lực và sự tiến bộ của HS
là chính. Nếu học sinh khuyết tật có khả năng đáp ứng các yêu cầu của chương
trình giáo dục THCS thì được đánh giá, xếp loại như học sinh không khuyết tật
nhưng có giảm nhẹ yêu cầu về kết quả học tập; còn nếu học sinh khuyết tật
không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của chương trình giáo dục THCS thì được
đánh giá dựa trên sự nỗ lực, tiến bộ của học sinh và không xếp loại đối tượng
này. Nhưng trên thực tế sự vận dụng những hướng dẫn này rất khác nhau. Có nơi
theo quy định chung yêu cầu học sinh khuyết tật phải đạt điểm trung bình ở 2
môn tiếng Việt và Toán dẫn đến tình trạng đã quá tuổi học tiểu học mà chưa hoàn
thành chương trình tiểu học, từ đó không có cơ hội học lên THCS; có nơi có
quan điểm tích cực trong đánh giá hoặc cho học sinh khuyết tật lên lớp dựa trên
sự tiến bộ của các em; cũng có nơi không dựa vào nội dung đã điều chỉnh để ra
đề kiểm tra đánh giá các em, mà ra đề thi/kiểm tra chung sau đó nhân đôi số điểm
thực cho học sinh khuyết tật khi đánh giá. Ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt chưa
tiếp cận được chương trình Bộ đã ban hành năm 2010, nên mỗi nơi tự xây dựng
không có sự chia sẻ, tham khảo lẫn nhau. Chương trình dạy học là một cơ sở để
giáo viên đánh giá kết quả học tập của học sinh khuyết tật, cho nên việc đánh giá
chất lượng ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt cũng không thống nhất. Thực tế này
cần có sự chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể hơn của Bộ Giáo dục-Đào tạo.
f) Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng trong tổ chức giáo dục
hòa nhập còn lỏng lẻo.
Do hạn chế về nhận thức, có những gia đình học sinh khuyết tật (thậm chí
cả người có tri thức) không muốn chấp nhận con mình có khuyết tật, sợ bị kì thị,
nên không đưa con đi khám theo tư vấn của cán bộ quản lý giáo dục hoặc giáo
viên. Hiện tượng cha mẹ không đồng thuận là con bị khuyết tật ngay cả khi y tế
cơ sở khám và kết luận là hiện tượng phổ biến.
Nhà trường chưa lôi cuốn được gia đình vào lập và thực hiện kế hoạc giáo

dục cá nhân. Nhìn chung là chưa hướng dẫn được gia đình cách giúp học sinh
khuyết tật học ở nhà và rèn luyện các kỹ năng đặc thù. Một số nơi chưa tham
mưu được cho chính quyền và các ban ngành đoàn thể trong cộng đồng cùng
tham gia vận động trẻ khuyết tật đi học, xác nhận hồ sơ khuyết tật, hỗ trợ học
sinh khuyết tật học tập và tạo môi trường vật lý, tinh thần thuận lợi cho các em
phát triển .

9
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

3) Rào cản từ phía công tác quản lý giáo dục trẻ khuyết tật.
a) Cán bộ quản lý nhà trường thiếu các biện pháp hỗ trợ và phát triển chuyên
môn dạy học hòa nhập cho giáo viên, chưa có quy chế thi đua khen thưởng giáo
viên dạy hòa nhập. Điều này dẫn đến tình trạng giáo viên dạy hòa nhập chưa
được đảm bảo hài hòa giữa trách nhiệm và quyền lợi. So sánh với yêu cầu trong
Điều 16.(Thông tư 39) về Nhiệm vụ của cán bộ quản lý trong giáo dục hoà nhập
cho thấy còn khá nhiều tồn tại trong thực tiễn.
b) Các cấp quản lí Sở, phòng Giáo dục-Đào tạo thiếu chỉ đạo sát sao và quản lí
chặt chẽ về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
Thông thường các Sở, phòng chỉ đạo giáo dục trẻ khuyết tật chung trong
Hội nghị triển khai kế hoạch năm học mới, thiếu tập huấn và thiếu chỉ số giám
sát, cho nên một số cán bộ quản lí cảm nhận việc tổ chức giáo dục hòa nhập trẻ
khuyết tật như thế nào cũng được. Việc thu thập thông tin phản hồi từ các trường
thông qua lồng ghép trong kế hoạch năm học, trong báo cáo tổng kết chỉ để theo
dõi sự tăng giảm số học sinh khuyết tật, hoặc để không tính học sinh khuyết tật
trong tỉ lệ đánh giá thi đua và phổ cập, mà chưa nhằm mục đích để có biện pháp

hỗ trợ, cải thiện các điều kiện và cải tiến phương pháp dạy học phù hợp với học
sinh khuyết tật… làm cho việc thực hiện giáo dục hòa nhập thiếu hiệu quả.
IV) MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM KHẮC PHỤ RÁO CẢN.
Trên cơ sở các vấn đề trên, có thể đưa ra các đề xuất sau đây nhằm giảm thiểu
rào cản đối với giáo dục trẻ khuyết tật.
1) Đối với các trường tiểu học, trung học cơ sở.
Để tăng cường chất lượng giáo dục hòa nhập, nhà trường cần chủ động bồi
dưỡng chuyên môn cho giáo viên thông qua các sinh hoạt chuyên môn; Tăng
cường kiểm tra giám sát và tạo điều kiện để giáo viên chủ động, sáng tạo trong
việc giáo dục học sinh khuyết tật; Có biện pháp khắc phục triệt để các hiện tượng
cố tình trêu chọc học sinh khuyết tật, Quan tâm cải thiện môi trường vật lý phù
hợp với học sinh khuyết tật thông qua xã hội hóa giáo dục; Phối hợp với gia đình
trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục cá nhân; Tăng cường phối
hợp với chính quyền địa phương trong việc huy động trẻ khuyết tật đi học và xác
nhận học sinh khuyết tật.
Đối với học sinh khuyết tật, việc trang bị kĩ năng sống và dạy nghề cho các
em cần được nhà trường quan tâm đặc biệt để các em có thể hòa nhập thực sự và
có thể sống độc lập khi trưởng thành. Tùy từng loại khuyết tật và mức độ khuyết
tật mà xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống và nghề phù hợp với nhu cầu và
10
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

khả năng của các em. Thực hiện được nhiệm vụ này đảm bảo công bằng trong
giáo dục đối với trẻ khuyết tật.
2) Đối với gia đình trẻ khuyết tật.
Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữ nhà trường gia đình xã hội trong việc

quản lý giáo dục trẻ em.
Tìm hiểu, nắm rỏ chương trình, phương pháp, kỹ năng giáo dục trẻ khuyết
tật.
3) Đối với Phòng và sở Giáo dục-Đào tạo.
Xây dựng và thực hiện các tiêu chí giám sát, đánh giá giáo dục học sinh
khuyết tật trên cơ sở cụ thể hóa các văn bản hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục - đào tạo có trách nhiệm tổ chức giáo dục học
sinh khuyết tật có chất lượng; Xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa các cơ sở
giáo dục chuyên biệt và giáo dục hòa nhập trên địa bàn trong việc phát triển năng
lực chuyên môn.
4) Đối với Bộ Giáo dục-Đào tạo
Cần chỉ đạo các sở Giáo dục-Đào tạo triển khai tập huấn, bồi dưỡng thường
xuyên cho giáo viên dạy hòa nhập trẻ khuyết tật, đồng thời ban hành thêm những
văn bản hướng dẫn về độ tuổi được học ở các cấp học; Hướng dẫn giảm các môn
học mà từng dạng trẻ khuyết tật gặp khó khăn; Hướng dẫn đánh giá cần cụ thể
hơn và có sự thống nhất (các tiêu chí đánh giá để chuyển lớp, chuyển cấp đối với
học sinh khuyết tật) để tạo điều kiện cho học sinh khuyêt tật không gặp khó khăn
khi chuyển trường; Điều chỉnh những điểm chưa phù hợp với thực tiễn… Đặc
biệt, cần có chính sách về chế độ phụ cấp cho giáo viên dạy hòa nhập. Đồng thời,
chỉ đạo cơ quan nghiên cứu xác định công cụ đánh giá và các tiêu chí phân loại
trẻ khuyết tật.
5) Về ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục trẻ khuyết tật.
Hình thành và xây dựng một mô hình ứng dụng CNTT cho giáo dục TKT ở
VN cần tránh lệ thuộc vào từng dự án, tránh lệ thuộc vào trình độ công nghệ tại
một thời điểm và không chỉ nhìn vào một vài hình thức giáo dục TKT đang thịnh
hành tại một số nước. Cần có một lộ trình phát triển mô hình tổng thể lâu dài với
các hoạt động tác động vào cả 3 phương diện:
+Một là mở rộng hình thức học của trẻ khuyết tật.
11
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc

GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

+Hai là tăng cường tài nguyên, hệ thống và công cụ
+Ba là xây dựng hệ thống học liệu đa dạng về nội dung và hình thức.
Trong đó, cần ưu tiên thiết kế và xây dựng một hệ thống quản lý, chia sẻ học liệu
và các công cụ (phần mềm) hỗ trợ cho giảng dạy trẻ khuyết tật.
Trước mắt nên đầu tư vào những việc sau:
+Xây dựng mô hình học liệu cho mô hình giáo dục hòa nhập trẻ khuyết
tật.
+Tiếp nhận và Việt hóa một số phần mềm đã dùng trên thế giới nhằm
khắc phục rào cản của một số loại khuyết tật.
+Cần xây dựng cổng thông tin chính thống về giáo dục cho trẻ khuyết tật.
+Hỗ trợ trang thiết bị phục vụ việc dạy của giáo viên và việc học của trẻ
khuyết tật phù hợp với từng loại khuyết tật khác nhau.

12
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

LỜI KẾT
Giáo dục cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp cần sự chú
ý cấp bách từ các quan chức chính phủ, giáo viên, phụ huynh, và toàn bộ xã hội.
Chúng ta đã có một số thành công nhất định, ví dụ như số lượng trẻ
khuyết tật trong các trường học công lập ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, những

nỗ lực cải tiến giáo dục hòa nhập ở Việt Nam vẫn còn rải rác và chưa được thống
nhất vào một bản kế hoạch hành động quốc gia.

13
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân


Giáo dục cho trẻ khuyết tật

TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Luật người khuyết tật (Luật 51/2010/QH 12)
-Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 về hướng dẫn thực hiện Luật
người khuyết tật.
-Quyết định số 23/2006/QĐ- BGD&ĐT ngày 25 tháng 5/2006 của Bộ trưởng
Bộ GD&ĐT ban hành “Quy định về giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, tàn
tật”.
-Thông tư số 39/2009/TT-BGD-ĐT quy định về giáo dục hòa nhập cho trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn.
-Thông tư 32/ 2009 /TT- BGDĐT ngày 27/10/2009 của Bộ GD&ĐT ban hành
quy định đánh giá và xếp loại HS tiểu học.
-Thông tư 58/ 2010 /TT- BGDĐT ban hành quy định đánh giá và xếp loại học
sinh THCS.
-Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nguyên cứu giáo dục, Tập 29, Số 2 (2013)
- />option=com_content&task=view&id=506&Itemid=303
- />- />- />
14
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân



Giáo dục cho trẻ khuyết tật

ĐIỂM KẾT LUẬN BÀI THI
Điểm kết luận của bài thi
Bằng số

Bằng chữ

Chữ ký xác nhận của CB
chấm thi
CB chấm thi CB chấm thi
1
2

Chữ ký xác
nhận của CB
nhận bài thi

15
SV: Huỳnh Phước Anh Quốc
GVHD: Bùi Văn Vân



×