Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vận dụng chủ nghĩa MácLênin để nghiên cứu sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ ngành sản xuất da giày ở Tp Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.85 KB, 20 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu sự phát triển của công nghiệp
hỗ trợ ngành sản xuất da giày ở Tp Hồ Chí Minh

1

1


I.

GIỚI THIỆU

Lý do lựa chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, hiện nay Việt Nam đã mở rộng quan hệ ngoại giao với
200 quốc gia và đặt quan hệ thương mại với hơn 150 nước trong đó có hơn 60
quốc gia và tổ chức lãnh thổ có quan hệ đầu tư trực tiếp vào lãnh thổ Việt Nam. Là
thành viên chính thức của nhiều tổ chức: ASEAN, APEC, WTO... Tăng cường
quan hệ với các nước phát triển, các nước Mỹ La Tinh, Trung Đông và các nước
khác. Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh trong lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, kinh tế, chính trị... Theo xu hướng chung của thế giới, Việt Nam cũng đang
từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Việc đẩy mạnh hợp tác là vấn đề quan
trọng trong công cuộc đổi mới. Trong đó, phải nhắc đến ngành công nghiệp nói
chung và ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng đã góp phần vào tiến trình công
nghiệp hóa- hiện đại hóa của Việt Nam. Trong nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ
hiện nay, da giày là một ngành mũi nhọn. Việt Nam là một trong 10 nước xuất
khẩu sản phẩm da giày hàng đầu trên thị trường quốc tế với tốc độ tăng trưởng
ngành cũng như tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt trung bình trên 10%/ năm.
Để biết rõ hơn về sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ da giày ở thị trường
Việt Nam trong những năm gần đây, đề xuất những giải pháp cùng với những kiến


nghị, dựa trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin, hôm nay chúng em xin được
trình bày đề tài : Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu sự phát triển của
công nghiệp hỗ trợ ngành sản xuất da giày ở TPHCM.

Mục tiêu
Tìm hiểu về thực trạng trong ngành công nghiệp hỗ trợ sản xuất da
giày tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
- Liệt kê các nguyên phụ liệu trong ngành da giày và thực trạng về trình
độ công nghệ máy móc được áp dụng vào sản xuất của ngành công nghiệp
hỗ trợ sản xuất da giày tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Xác định sự chênh lệch trong tỷ lệ giữa nguyên vật liệu trong nước và
nguyên vật liệu nhập khẩu.
- Xác định thế mạnh và nhược điểm cần khắc phục trong công nghiệp
hỗ trợ da giày.
- Đề ra các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ da giày:
• Về phía nhà nước và chính phủ
• Về phía doanh nghiệp.
-

góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển ngành công nghiệp này tại nước ta.
2

2


Phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 đã
được đề ra hơn một thập kỷ qua, cùng với đó là chiến lược phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ cũng đã được khởi động. Tuy nhiên, đến nay ngành công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn mới chỉ qua vạch xuất phát. Làm thế nào để

ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển đúng với vai trò và tiềm năng của Việt
Nam là vấn đề đang đặt ra và việc cần làm trước tiên là bắt đầu từ chính sách.
Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ
Với mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, trong những năm
vừa qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển ngành
công nghiệp hỗ trợ (CNHT). Theo đó, để xây dựng ngành CNHT, từ năm 2007, Bộ
Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) đã ban hành Quyết định số 34/2007/QĐBCN phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm
2020. Tiếp theo ngày 4/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
12/2011/QĐ-TTg về Chính sách khuyến khích phát triển một số ngành CNHT.
Ngay sau đó là Quyết định số 1483/QĐ- TTg ngày 26/8/2011 về việc ban hành
Danh mục CNHT ưu tiên phát triển, trong đó, ngành da - giày có các mục ưu tiên
phát triển: Da thuộc, vải giả da, hóa chất thuộc da, da muối, chỉ may giày. Đây là
hai trong rất nhiều lợi thế lớn để CNHT trong nước có thể phát triển trong tương
lai.
Triển khai thực hiện Quyết định 12/2011/QĐ-TTg, Bộ Tài chính ban hành
Thông tư 96/2011/TT- BTC hướng dẫn chính sách tài chính khuyến khích phát
triển CNHT. Theo đó, Thông tư hướng dẫn chính sách tài chính khuyến khích phát
triển CNHT đối với các ngành cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô
tô, dệt - may, da - giày và công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghệ cao theo
quy định tại Quyết định trên.
Ngoài ra, các chính sách về thuế cũng đã có sự hỗ trợ rất tích cực cho ngành
CNHT phát triển. Cụ thể: (1) Về thuế nhập khẩu, các DN được miễn thuế nhập
khẩu đối với các hàng hoá, thiết bị, máy móc; phương tiện vận tải chuyên dùng
trong dây chuyền công nghệ trong nước chưa sản xuất được; phương tiện vận
chuyển đưa đón công nhân gồm xe ô tô từ 24 chỗ ngồi trở lên và phương tiện thủy;
linh kiện, chi tiết, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm để lắp
ráp đồng bộ với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng; vật tư xây
dựng trong nước chưa sản xuất được...; (2) Về thuế thu nhập DN, trường hợp dự án
sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp công nghệ cao
thuộc DN thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ, sản xuất sản phẩm phần mềm, hoặc DN thành
lập mới từ dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn
3

3


có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn... được ưu đãi về thuế suất, miễn,
giảm thuế thu nhập DN theo quy định tại Chương III Luật Thuế thu nhập DN; (3)
Các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, lĩnh vực
đặc biệt ưu đãi đầu tư hoặc đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn cũng được hưởng chính sách miễn, giảm thuế giá trị gia tăng và tiền sử dụng
đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đối với. Bên
cạnh đó, các chính sách về vay vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, bảo lãnh tín
dụng để đầu tư hạ tầng và sản xuất sản phẩm CNHT; miễn và giảm thuế thu nhập
cá nhân đối với người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại các khu CNHT
cũng đã được triển khai mạnh mẽ.
Những tác động đến phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
Với chiến lược đặt ra cùng những chính sách hỗ trợ trên nhưng kết quả mang
lại của việc phát triển ngành CNHT Việt Nam chưa như mong muốn, vẫn tồn tại
nhiều vấn đề cần giải quyết.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương, hiện nay Việt Nam có khoảng 30
ngành kinh tế - kỹ thuật cần đến CNHT. Trong đó, nhiều ngành sản xuất hàng xuất
khẩu mang lại kim ngạch hàng chục tỷ USD/năm nhưng lại đang phải nhập khẩu
tới 80-85% nguyên liệu, làm cho tỷ lệ giá trị gia tăng chỉ chiếm một phần rất nhỏ
trong cơ cấu sản phẩm, điển hình như các ngành: sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, dệt
may, da giày. Một điển hình khác là ngành công nghiệp dệt may - ngành công
nghiệp xuất khẩu rất lớn của Việt Nam, hàng năm kim ngạch xuất khẩu chiếm từ
15 - 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và chiếm trên 50% kim ngạch xuất
khẩu ngành công nghiệp, bình quân mỗi năm tốc độ tăng trưởng 20%, năm 2011

đạt 13,8 tỷ USD, năm 2012 đạt 17,2 tỷ USD, tăng 8,5% so với năm trước và năm
2013 khoảng 19 tỷ USD. Kết quả này chiếm tỷ lệ rất lớn trong cơ cấu xuất khẩu
hàng hóa của cả nước nhưng thực tế giá trị gia tăng lại chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong
mỗi sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa nguyên vật liệu trong nước ngành dệt may chỉ đạt
từ 3 - 8%, phần còn lại là nhập nguyên liệu, thậm chí nhập sản phẩm bán thành
phẩm về để gia công tại Việt Nam sau đó xuất khẩu để tận dụng nhân công giá rẻ
và các ưu đãi chính sách thuế, đất đai của Nhà nước.
Theo khảo sát, đánh giá của các chuyên gia thì nền sản xuất công nghiệp nói
chung và trình độ công nghệ trong lĩnh vực CNHT của Việt Nam hiện nay còn ở
mức thấp, dường như mới chỉ vượt qua mốc xuất phát điểm không xa. Phần lớn
các sản phẩm CNHT chủ yếu do các DNNN sản xuất và cung ứng cho thị trường,
chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh hạn chế so với các sản phẩm cùng loại nhập
khẩu, vì thế rất khó vươn ra xuất khẩu, thậm chí vẫn không đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng, chủng loại, mẫu mã và cả số lượng cho các DN sản xuất trong
nước.
4

4


Bên cạnh đó, một trong nhưng điểm rất đáng báo động cho cả nền công nghiệp
sản xuất của nước ta là tình trạng thiếu liên kết giữa các nhà sản xuất lớn với các
DN sản xuất sản phẩm phụ trợ, giữa DN đầu tư nước ngoài với DN trong nước,
dẫn đến mạnh ai nấy làm. Nhiều DN vẫn còn tư duy “bán những cái mình có chứ
không phải những cái thị trường cần”; Phần lớn DN trong nước là các DN nhỏ, lẻ
quy mô sản xuất bé, chi phí quản lý cồng kềnh, hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn
vốn vay với lãi xuất cao. Điều này dẫn đến chi phí giá thành sản phẩm cao, không
cạnh tranh được với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại từ các nước trong khu vực,
không chiếm được thị trường, phải giải thể, bỏ cuộc chơi... Thảm cảnh này khiến
không ít nhà đầu tư nản lòng không muốn đầu tư vào sản xuất CNHT và cứ như

thế CNHT Việt Nam đã thiếu, yếu lại đang ngày càng “teo tóp”.
Cần tiếp tục đột phá
Trước thực trạng tồn tại nhiều bất cập trong ngành CNHT, ngày 8/10/2014, Bộ
Công Thương đã ban hành Quyết định số 9028/QĐ-BCT phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, mục
tiêu chung của Quy hoạch là nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp. Sản phẩm CNHT đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu
cho sản xuất, đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%, tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá
trị sản xuất công nghiệp. Từ nay đến năm 2020, Việt Nam tập trung phát triển
CNHT thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu và theo các định hướng sau:
Hiện cả nước có khoảng trên 300 DN sản xuất linh kiện, phụ tùng cung cấp cho
DN lắp ráp ô tô, xe máy, nhưng phần lớn là các linh kiện, phụ tùng đơn giản, hàm
lượng công nghệ thấp các linh kiện quan trọng như động cơ, hộp số, cụm chuyển
động gần như vẫn phải nhập khẩu 100%.
Một là, lĩnh vực linh kiện phụ tùng kim loại, nhựa - cao su, điện - điện tử, đến
năm 2020 đáp ứng 60% nhu cầu sản phẩm linh kiện phụ tùng cho các ngành công
nghiệp của nước ta. Năm 2030, đáp ứng 80% nhu cầu này. Các ngành công nghiệp
cơ khí, ô tô, máy nông nghiệp, điện tử… được ưu tiên phát triển. Hỗ trợ DN sản
xuất sản phẩm linh kiện phụ tùng tham gia thị trường khu vực v quốc tế.
Hai là, lĩnh vực CNHT ngành dệt may - da giày với mục tiêu đạt tỷ lệ cung cấp
trong nước 65% ngành dệt may, 75%-80% ngành da giày. Đặc biệt, ưu tiên thu hút
vào lĩnh vực nguyên vật liệu và phụ liệu phục vụ ngành dệt may, da giày, hình
thành các cụm liên kết ngành trong sản xuất CNHT ngành dệt may, da giày tại các
vùng kinh tế trọng điểm.
Ba là, lĩnh vực CNHT cho công nghiệp công nghệ cao, đồng thời phát triển hệ
5

5



thống DN cung cấp thiết bị hỗ trợ chuyên dùng, hỗ trợ chuyển giao công nghệ
trong lĩnh vực này; hình thành các DN bảo trì, sửa chữa máy móc đạt tiêu chuẩn
quốc tế làm tiền đề phát triển DN sản xuất thiết vị, phần mềm phục vụ các ngành
công nghiệp công nghệ cao. Trong đó, ưu tiên thu hút đầu tư vào sản xuất vật liệu
chế tạo như thép chế tạo, nhựa, cao su, composit, gốm phục vụ công nghiệp công
nghệ cao, hóa chất cơ bản, hóa chất chuyên dụng trong công nghiệp công nghệ
sinh học, vật liệu điện tử…
Cùng với các mục tiêu phát triển được xác định cụ thể, Quyết định số
9028/QĐ-BCT cũng nêu ra định hướng và một số giải pháp cần tập trung thực hiện
như:
- Hoàn thiện cơ chế chính sách cho phát triển CNHT; Đẩy mạnh thu hút đầu tư vào
phát triển CNHT; Phát triển số lượng và nâng cao năng lực DN CNHT nội địa;
Phát triển khoa học công nghệ cho CNHT; Đào tạo nguồn nhân lực CNHT.
- Đẩy mạnh thực hiện: Kết nối DN đầu tư nước ngoài với DN nội địa; Củng cố,
nâng cao vai trò Hiệp hội ngành nghề; Nâng cao tính chuyên nghiệp của hội chợ
CNHT; Hỗ trợ DN CNHT tìm kiến đối tác; Tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế;
Xây dựng quy hoạch, khuyến khích đầu tư sản xuất nguyên, vật liệu phục vụ sản
xuất CNHT…
Thực tế cho thấy, các chính sách ưu đãi đề ra chưa thực sự tạo đột phá để thu
hút các DN đầu tư vào sản xuất CNHT, thậm chí còn có thể nói là chính sách
khuyến khích, ưu đãi phát triển CNHT của Việt Nam theo kiểu mũi nhọn “gai
mít”. Vì thế, đã đến lúc cần rà soát lại các chính sách ưu tiên phát triển CNHT theo
hướng trọng tâm, trọng điểm, theo từng giai đoạn phát triển. Trong đó, trước tiên,
cần rà soát một cách tổng thể nền công nghiệp, trên cơ sở đó phân loại, xem xét
đâu là công nghiệp cần ưu tiên phát triển, từ đó có chính sách ưu tiên cụ thể về
vốn, đất đai, tài chính, thuế, đào tạo nguồn nhân lực để tạo sức hút mạnh cho các
loại hình kinh tế tham gia đầu tư phát triển CNHT. Trong quá trình rà soát, cần
thành lập đầu mối cơ sở dữ liệu về công nghiệp nói chung và nhu cầu cung - cầu về
CNHT, thường xuyên cập nhật thông tin về ngành, lĩnh vực.
Việc phát triển CNHT cần các giải pháp mang tính đồng bộ nhưng một trong

những giải pháp chủ yếu, có sức hút lớn nhất đó là ưu đãi chính sách thuế. Muốn
có ngành CNHT phát triển, đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, các nhà làm chính sách cũng nên cân nhắc, lựa chọn, có
thể hy sinh một mặt nào đó trong ngắn hạn để có được nền CNHT trong tương lai 3
-5 năm sau, mặc dù như thế đã là muộn nhưng muộn còn hơn không. Theo đó, có
thể xây dựng chính sách thuế theo hướng miễn thuế nhập khẩu các loại máy móc
thiết bị phục vụ sản xuất sản phẩm CNHT trong thời hạn từ 4-5 năm đầu tính từ
6

6


khi DN đi vào sản xuất; miễn, giảm thuế TNDN, thuế TNCN; miễn hoặc giảm đến
mức thấp nhất tiền thuê đất, chấp nhận giảm thu NSNN đối với các DN đầu tư sản
xuất CNHT, coi đó là khoản nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai.
Về vốn, hình thành ngay một quỹ với nguồn vốn góp từ NSNN, các tổ chức tài
chính cả trong và ngoài nước và của chính những DN sản xuất, lắp ráp sản phẩm
có liên quan đến các ngành CNHT, coi đó như là trách nhiệm hỗ trợ, tạo dựng ban
đầu của Nhà nước cũng như các DN đối với ngành CNHT. Nguồn vốn từ quỹ này
phải được tạo mọi điều kiện tốt nhất về thủ tục hành chính để các DN có thể tiếp
cận và giải ngân nhanh chóng, giảm thiểu mọi phiền hà đối với DN khi tham gia
vay vốn. Còn về lãi suất phải ở mức rất thấp, thậm chí có thể lãi suất 0% trong các
năm đầu, khi DN làm ăn có lãi sẽ bắt đầu đóng góp trở lại cho quỹ ở mức nhất
định. Tuy nhiên, trong hoạt động cũng cần có những quy định chặt chẽ về hiệu quả
hoạt động, hạn chế thấp nhất tình trạng gian lận, lợi dụng cơ chế, chính sách của
Nhà nước để rút vốn, sử dụng sai mục đích.
Nhà nước cần có chính sách ưu đãi các DN, các cá nhân trong nước và nước
ngoài đầu tư vào xây dựng khu CNHT, trước mắt tập trung vào xây dựng cơ sở hạ
tầng, các dịch vụ cung cấp cho khu CNHT hoạt động như: điện, nước, mạng truyền
thông, internet... Cung cấp dịch vụ hỗ trợ với giá rẻ để thu hút các DN CNHT tập

trung vào các khu công nghiệp. Bên cạnh đó, thu hút DN FDI vào CNHT và hình
thành đội ngũ DN trong nước để nhận chuyển giao công nghệ. Ðể thu hút được
những được đối tượng này thì hệ thống chính sách phải có mối liên kết chặt chẽ
nhằm thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào CNHT, nhất là các
DN FDI.
Cần thống nhất trong nhận thức đối với người làm công tác thuế đó là miễn
giảm thuế liên quan đến giảm thu NSNN. Song đối với hoạt động CNHT, giảm
thuế về lâu dài lại tăng thu cho NSNN. Cần phải coi phần giảm đó như một khoản
đầu tư của NSNN hiện tại cho CNHT, nguồn này sẽ giúp tăng thu rất lớn trong
tương lai. Tuy nhiên, nếu xét miễn giảm thuế không đúng, sẽ gây tổn thất cho
NSNN cả ở trước mắt và lâu dài. Vì vậy, nghiên cứu để có chính sách thuế khoa
học là việc làm cần thiết của hệ thống thuế Nhà nước.
Bên cạnh đó, cần sử dụng linh hoạt công cụ tín dụng từ đó đẩy mạnh cung cấp
tín dụng cho DN CNHT; Đa dạng hóa các hình thức vay vốn bằng cách thực hiện
và mở rộng các hình thức vay mới: bảo lãnh tín dụng, thuê mua tài chính... ngoài
các hình thức đang thực hiện; Tranh thủ mọi vốn vay ưu đãi đầu tư bên ngoài; Giữ
lãi suất ở mức độ ổn định hợp lý trong sự ổn định của thị trường tiền tệ, vừa đảm
bảo cho tồn tại của tổ chức tín dụng, vừa tạo khả năng trả nợ và yếu tố yên tâm về
tâm lý cho cơ sở sử dụng vốn.
Mục tiêu chung đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất,
7

7


đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%, tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá trị sản xuất
công nghiệp.
Mặt khác, Nhà nước cần có ưu đãi cụ thể trong chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực là các chuyên gia, kỹ sư chế tạo, thiết kế và đội ngũ công nhân kỹ thuật

làm việc trong các ngành sản xuất sản phẩm CNHT theo hướng hỗ trợ ngay từ giai
đoạn đào tạo bằng hình thức miễn, giảm học phí, hỗ trợ chỗ ăn, ở hoặc có thể hoàn
tiền đào tạo khi các đối tượng trên tham gia và cam kết làm việc trong ngành
CNHT trong khoảng thời gian nhất định (có thể là 5 năm hay 10 năm và khuyến
khích cam kết lâu dài). Đặc biệt, cả Nhà nước và các DN sản xuất cần có cơ chế
khuyến khích, thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần ở mức cao cho những phát minh,
sáng chế hay cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng, làm giảm giá thành, tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm CNHT trong nước so với các sản phẩm nhập khẩu cùng
loại… Có như vậy mới thực sự thu hút, tạo sức bật và, đột phá cho ngành CNHT
trong thời gian tới để hỗ trợ công nghiệp trong nước phát triển, tiến tới công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thành công như mục tiêu đã đặt ra.

Nội dung
II.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Khái niệm và đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ
8

8


Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật
liệu, phụ kiện, phụ tùng linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công
nghiệp sản xuất, chế biến, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc
sản phẩm tiêu dùng.
Đặc điểm của CNHT được khái quát: CNHT có phạm vi phụ thuộc vào chính
sách của nhà nước, các sản phẩm được sản xuất tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
sản phẩm CNHT phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu, là ngành đòi hỏi nhiều

vốn và trình độ công nghệ cao, bao phủ một phạm vi rộng trong các ngành chế tạo.
Vai trò và sự cần thiết của phát triển công nghiệp hỗ trợ
CNHT có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Nó hỗ trợ ngành công
nghiệp nội địa phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng công nghiệp xuất
khẩu, đón nhận chuyển giao công nghệ và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Phát
triển CNHT góp phần khắc phục các nguy cơ ô nhiễm môi trường và tạo tiền đề
cho phát triển bền vững. Việt Nam cần phải phát triển các ngành CNHT.
Những tiêu chí đánh giá và những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của
CNHT
Những tiêu chí đánh giá
Để đánh giá sự phát triển của CNHT cần đánh giá qua các tiêu chí là số lượng
doanh nghiệp, quy mô của doanh nghiệp, trình độ công nghệ, mối quan hệ giữa
khách hàng và nhà cung cấp và sự tương quan giữa các doanh nghiệp với nhau.
Những nhân tố ảnh hưỡng tới sự phát triển của CNHT
Có rất nhiều nhân tố ảnh hướng tới sự phát triển của CNHT trong đó tiêu biểu
là các nhân tố như quy mô cầu, các vấn đề về thông tin, tiêu chuẩn chất lượng,
nguồn nhân lực, các chính sách thuế cà chính sách hỗ trợ khác của chính phủ.
III.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Thực trạng
Ngành giày da của thế giới đang tiếp tục chuyển đổi việc sản xuất sang các
nước đang phát triển, đặc biệt là các nước có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư,
nền chính trị ổn định, hòa bình. Khi Việt Nam gia nhập WTO, thuế quan bị bãi bỏ,
cùng với những chính sách khuyến khích xuất khẩu, sản xuất, Việt Nam trở thành
điểm đến cho việc đầu tư của các nhà sản xuất giày da.
9

9



Ngành công nghiệp da giày Việt Nam đã phát triển rất nhanh và được xem là
một trong những ngành công nghiệp chính đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển. Da
giày là một trong 3 ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay sau dầu
thô và dệt may, chiếm trên 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với khoảng 240 doanh
nghiệp đang hoạt động, ngành da giày đang là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, thu
hút khoảng 500.000 lao động.
Bảng số lượng doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp theo các năm

Năm

2006

2007

2008

2009

2010

CNHT Giày dép

257

276

284


312

325

Công nghiệp Giày dép

565

631

786

852

861

Tỷ lệ DN chính/DN CNHT

2,2

2,3

2,8

2,7

2,6

(Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng điều tra DN của Tổng cục thống kê)
Nhiều năm trở lại đây, ngành da giày Việt Nam liên tục gây những ngạc nhiên

khi liên tiếp đạt được những thành quả đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Ở thời
điểm này, ngành da giày đã "ghi tên” mình vào trong top 10 nước xuất khẩu hàng
đầu thế giới về da giày. Riêng xuất khẩu vào thị trường châu Âu, da giày Việt Nam
chỉ đứng thứ 2 sau Trung Quốc.
Theo thông tin từ Hiệp hội Da giày Việt Nam (Lefaso), năm 2012, EU, trở
thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 20,3 tỷ USD,
tăng 22,5% so với năm 2011 và chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của cả nước.
Ngành da giày của Việt Nam được thành lập cách đây hơn 20 năm, quá trình
phát triển ngành da giày cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể như: phát triển khá
nhanh, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu luôn đạt trên 16%/năm. Trong nước,
ngành da giày được xếp hàng thứ ba trong các ngành xuất khẩu lớn, chỉ đứng sau
dệt may và dầu khí.
CNHT da giày, những năm gần đây có nhiều thay đổi tích cực, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu đầu vào cho ngành da giày, góp phần phát huy hiệu
10

10


ứng lan tỏa đối với các ngành kinh tế khác của đất nước, giải quyết một phần vấn
đề việc làm hiện nay. Tuy nhiên hầu hết các sản phẩm da, giả da, vải cao cấp,
nguyên liệu tổng hợp cao cấp, các loại keo dán, hóa chất đặc biệt… Viêt Nam
phải nhập khẩu từ các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc… Riêng đế
giày, nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chỉ động tốt nhất cũng chỉ
đáp ứng được 40-50% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung, chỉ có phụ liệu như
đế, vải bạt, chỉ… là ngành chủ động được khoảng 50%, còn da thuộc và nguyên
liệu giả da, ngành da giày hiện đang phải nhập khẩu gần như hoàn toàn.
Qua quá trình nghiên cứu, nhóm đã đưa ra được những nhận xét chung về
ngành CNHT sản xuất da giày như: số lượng và quy mô doanh nghiệp CNHT

ngành da giày nhiều năm gần đây tăng nhưng không nhiều, nguồn lực còn yếu do
thiếu nguồn vốn đầu tư cũng như việc sử dụng vốn đầu tư chưa hiệu quả, kinh
doanh chưa đạt hiệu quả cao, trình độ tổ chức quản lý còn yếu kém, quá trình đổi
mới công nghệ, trang thiết bị, dây chuyền sản xuất còn chậm, chưa đáp ứng được
với nhu cầu thực tế, trong quá trình chuyển giao công nghệ, công tác xử lý môi
trường còn chưa được quan tâm dẫn đến ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp. Năng lực marketing của doanh nghiệp còn chưa
được đầu tư đúng mức dẫn đến phần lớn các doanh nghiệp chưa tạo dựng được
thương hiệu, chưa gây được sức ảnh hưởng và tạo sự tín nhiệm từ phía các doanh
nghiệp sản xuất da giày lớn trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, kỹ
thuật công nghệ của các doanh nghiệp CNHT da giày còn chưa đáp ứng được đầy
đủ nhu cầu thực tiễn, chất lượng lao động thấp làm cho các doanh nghiệp phải
thuê nhân công từ nước ngoài đảm nhiệm những vị trí quan trọng, trình độ quản lý
bộc lộ nhiều yếu kém làm giảm hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp FDI có công nghệ tiến tiến nhưng chủ yếu chỉ sử dụng nguồn lực của Việt
Nam để phục vụ nhu cầu cho của công ty mẹ.
Hiện nay, TPHCM chưa có được những chính sách khuyến khích thực sự có
hiệu quả và việc thực thi những chính sách này còn gặp nhiều khó khăn. Vai trò hỗ
trợ của nhà nước, các tổ chức, hiệp hội chưa thể hiện rõ, sự liên kết giữa các
doanh nghiệp trong ngành còn lỏng lẻo, hệ thống thông tin doanh nghiệp chưa
phát triển.

Đánh giá thực trạng
Tiến bộ, thành quả

11

11



Với mục tiêu đưa sản phẩm giày da mang thương hiệu Việt Nam vươn xa ra thị
trường quốc tế, bằng sự cố gắng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, ngành
công nghiệp hỗ trợ da giày đã đạt được nhiều thành công bước đầu.
Điều kiện thiết yếu để phát triển một ngành công nghiệp là nguồn vốn và ngành
đã không bị cản trở bởi vấn đề này mà ngược lại đã nhận được nguồn vốn đầu tư
nước ngoài khá cao. Nhờ đâu mà ta lại có được thuận lợi đó? Tất cả đều là nhờ tiềm
năng phát triển ngành công nghiệp này ở nước ta cùng với uy tín ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế. Đồng thời với thực tế nguồn nguyên liệu đầu vào khá
ổn định, xuất xứ rõ ràng với thông tin nguồn nguyên liêu chính xác, cụ thể, chất
lượng tốt cùng hệ thống sản xuất công nghệ cao không ngừng được cải thiện, ngành
đã và đang đem lại những sản phẩm tốt với chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu
của nhiều khách hàng cũng như thị trường khó tính. Với độ tin cậy cao vào chất
lượng sản phẩm, giá cả lại mang tính cạnh tranh so với các hãng sản xuất nổi tiếng
khác trên thế giới, lại một lần nữa ngành khẳng định được vị trí, khả năng cạnh
tranh của mình trên trường quốc tế. Qua đó, lượng sản phẩm xuất khẩu đã tăng lên
đáng kể giúp doanh nghiệp thu lại lượng ngoại tệ cao, góp phần to lớn cho việc tạo
dựng nguồn vốn doanh nghiệp, mở rộng cũng như nâng cao chất lượng quy mô sản
xuất. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh có đội ngũ lao động trẻ, có tay nghề
đáp ứng nhu cầu nhân lực cho ngành da giày phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Đặc biệt có lợi thế khi đón xu hướng dịch chuyển đầu tư của các tập đoàn sản xuất
da giày lớn trên thế giới từ Trung Quốc vào Việt Nam hiện nay. Sau cùng là việc
Việt Nam đang tích cực tham gia vào quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác thương
mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) và các hiệp định thương mại tự do khác (đang
trong giai đoạn sắp hoàn tất), cũng như việc Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự
kiến sẽ được thành lập vào cuối năm 2015 giúp Việt Nam tạo dựng được mối quan
hệ hợp tác vững chắc với nhiều doanh nghiệp nước ngoài, mở ra nhiều cơ hội cho
ngành da giày Việt Nam cũng như TPHCM phát triển tạo điều kiện thuận lợi về thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
Việt Nam đứng trong vị trí 10 nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về da giày,
đứng thứ hai về xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Theo các số liệu mới nhất, tình hình

xuất khẩu của ngành da giày nửa đầu năm 2014 khá ổn định. Xuất khẩu sản phẩm
giày dép sang các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản, Bỉ, Đức… vẫn rất
khả quan. Kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường khác như Chile, Hy Lạp,
Ba Lan cũng tăng mạnh. Sáu tháng đầu năm 2014, ngành da giày đã xuất khẩu 6,09
tỷ USD, trong đó giày, dép đạt 4,84 tỷ USD, tăng 21,9% Với tín hiệu tích cực này,
ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày, túi xách Việt Nam
(LEFASO), khẳng định: “Mục tiêu 12 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2014
hoàn toàn khả thi”.

12

12


Đối với hoạt động xuất khẩu, các chuyên gia và doanh nghiệp đều nhận định,
ngành da giày sẽ có không ít cơ hội phát triển, đặc biệt trong bối cảnh một loạt các
hiệp định thương mại quan trọng đang trong giai đoạn hoàn tất, trong đó có Hiệp
định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU), Việt Nam với Liên minh thuế quan
Nga (Belarus - Kazakhstan). Sản phẩm da giày Việt Nam có khả năng cạnh tranh
về giá so với các quốc gia khác và đã hiện diện tại hầu hết thị trường lớn như Bắc
Mỹ, EU, Nhật Bản… Thêm vào đó, mức tiêu thụ lớn với chất lượng ngày càng cao
của ngành hàng này đủ để bảo đảm “đầu ra” cho các vật tư chiến lược.
Ngoài ra, để đón đầu cơ hội mở rộng thị trường khi Việt Nam chính thức ký kết
các hiệp định thương mại tự do, các doanh nghiệp nước ngoài đang ráo riết triển
khai các dự án đầu tư để sớm thụ hưởng những ưu đãi và tăng lợi nhuận. Xu hướng
chuyển đơn hàng từ Trung Quốc, Bangladesh… vào Việt Nam là một trong những
thuận lợi để phát triển hoạt động xuất khẩu của ngành. Các nhãn hàng nổi tiếng thế
giới như Nike, Adidas đã có đơn đặt hàng sản xuất với các nhà máy tại Việt Nam.
Theo Hiệp hội da giày Việt Nam, hiện đang có ba quốc gia sản xuất chính cho

nhãn hàng Nike là Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia với tỷ trọng lớn nhất thuộc
về Việt Nam là 42%.
Các doanh nghiệp da giày Nhật Bản cũng đang xúc tiến kế hoạch phát triển sản
xuất tại Việt Nam. Theo thống kê của Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản
(JETRO), tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Trung Quốc có ý định mở rộng
sản xuất giảm dần từ 73% năm 2010 xuống còn 57% vào năm 2013. Còn tại Việt
Nam, cùng khoảng thời gian, tỷ lệ này tăng từ 27% lên 30%. Ông Atsusuke
Kawada, Trưởng đại diện văn phòng JETRO Hà Nội, cho biết, chỉ tính trong năm
2013, tổng đầu tư của Nhật Bản vào ASEAN lớn hơn nhiều so với Trung Quốc,
trong đó Việt Nam là một trong những điểm đến hấp dẫn. JETRO hiện đang hỗ trợ
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào các nước đang phát triển, Việt Nam và
Thái Lan được xem là những lựa chọn hàng đầu.
Hạn chế, tồn đọng
Da giày được xem là một trong những thế mạnh của Việt Nam. Không chỉ là
một trong những ngành kinh tế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn trong
những năm qua, các sản phẩm da giày Việt Nam còn là một mặt hàng xuất khẩu
chủ lực. Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trên thị trường quốc tế,
nhưng ngành da giày Việt Nam trên thực tế vẫn còn nhiều lúng túng trong việc tạo
lập một thế đứng vững chắc ngay tại sân nhà.
Mặc dù gặp nhiều thuận lợi trong hoạt động làm ăn với các đối tác nước ngoài
cũng như xuất khẩu, song, phát triển ngành da giày vẫn tồn tại những yếu tố chưa
13

13


bền vững, trong đó có yếu tố tỷ lệ nội địa hóa thấp, các doanh nghiệp FDI vẫn
chiếm đa số trong hoạt động xuất khẩu và doanh nghiệp trong nước chưa có chỗ
đứng vững chắc tại thị trường nội địa.
Theo báo cáo của LEFASO, tỷ lệ nội địa hóa của ngành mới chỉ chiếm 40 45% (chủ yếu là đế giày và chỉ khâu), trong khi nguyên liệu quan trọng nhất là da

thuộc và da nhân tạo vẫn phải nhập khẩu. Đối với da thuộc thành phẩm, tỷ lệ nội
địa hóa dưới 30%. Phần lớn nguyên liệu mũ giày vẫn phải nhập khẩu… Việt Nam
chỉ cung ứng được vải cho sản xuất loại giày vải cấp thấp, các chủng loại vải cao
cấp đều phải nhập khẩu. Theo Phó Chủ tịch LEFASO Diệp Thành Kiệt, ngành da
giày mới chỉ chủ động được 30% nguyên liệu da thuộc. Với mức độ phụ thuộc
khoảng 70%, mỗi năm ngành da giày nhập khẩu từ 1,1 - 1,5 tỷ USD da thuộc cho
sản xuất hàng xuất khẩu.
Ngoài ra, hầu hết máy móc thiết bị sản xuất sử dụng trong ngành đều phải nhập
khẩu… Ngành còn thiếu năng lực kỹ thuật và thiết kế để xây dựng thương hiệu và
các dây chuyền sản phẩm. Bên cạnh đó, mặc dù chi phí lao động thấp nhưng đại bộ
phận công nhân đều có tay nghề hạn chế, năng suất lao động thấp, chưa thoát khỏi
cảnh gia công. Ông Diệp Thành Kiệt nhận định, nếu không thể gia tăng giá trị và
sản lượng ở phân khúc thiết kế, nghiên cứu tạo sản phẩm mới; tạo năng lực sản
xuất; phân phối sản phẩm thì 5 năm nữa ngành sẽ không thể tăng trưởng được.
Nguyên nhân:
Về phía doanh nghiệp
Không đáp ứng được yêu cầu thị trường, sản phẩm không đạt chất lượng,
giá thành cao
Không đủ niềm tin và ý thức tích lũy kỹ năng trong doanh nghiệp như:
yêu cầu tính năng nâng cao, chất lượng, giá thành, thời gian giao hang,
dịch vụ, tốc độ
Thường thì có thói quen cái gì cũng muốn làm từ A tới Z, ít chịu hợp tác,
chịu liên kết với nước ngoài trong chi một ngành CNHT phát triển đòi
hỏi một sự liên kết chặt chẽ và rộng khắp
Chưa năng động nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng, quá trình làm
việc còn thụ động.
o









Về phía nhà nước:
Chưa có 1 khái niệm mang tính pháp lý về CNHT nên việc thực thi 1
cách có hiệu quả các biện pháp thúc đẩy CNHT còn hạn chế
o



14

Các chính sách hỗ trợ DN còn chưa cụ thể
14


Thiếu cơ chế kiểm tra sản phẩm, các cơ quan dám sát DN họat động kém
hiệu quả




Chưa có cơ quan đầu mối cung cấp thông tin về CNHT và các DN

Ôm đồm quá nhiều mục tiêu và định hướng trong khi vốn, con người, công
nghệ có hạn



Doanh nghiệp được phân loại và đối xử hết sức khác biệt giứa DN là doanh
nghiệp Nhà nước, tư nhân và nước ngoài


Thủ tục hành chính lien quan đến hoạt động của doanh nghiệp sau chi ra đời
còn nhiều phiền toái


o

Về phía người lao động



Trình độ còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu, lực lượng có trình độ
cao ít,không ổn đinh



Chưa chủ động trong công việc cũng như chưa tiếp cận KH-CN



Tác phong công nghiệp còn hạn chế.

Ngoài ra, đáng chú ý là, đang có nghịch lý trong chính sách, gây cản trở việc
phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước. Đó là, doanh nghiệp xuất khẩu mua
nguyên phụ liệu từ các nhà sản xuất trong nước phải đóng trước khoản thuế VAT
10%, sau đó khi họ xuất khẩu thành phẩm thì mới được thực hiện khấu trừ. Trong
khi đó, nếu doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, mà nhập khẩu vật tư phụ liệu thì

không phải đóng trước thuế VAT và sẽ được Nhà nước cho thiếu trong vòng 90
ngày, sau đó tính theo hình thức tạm nhập tái xuất, tức doanh nghiệp không phải
đóng khoản thuế này.

Cơ hội
Việc Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP) đang mở ra nhiều cơ hội cho ngành da giày. Lợi thế trước tiên là xóa
bỏ mức thuế hiện tại từ 3,5 - 57.4% để hưởng ưu đãi các dòng sản phẩm da giày về
mức 0%, từ đó giúp DN ngành da giày tăng trưởng xuất khẩu. Hiện nay, ngành Da
15

15


giày là một trong những ngành quan trọng trong đàm phán của phía Việt Nam tại
TPP. Mặc dù giá trị gia tăng của ngành da giày không lớn nhưng với trên 500 DN,
600.000 lao động, ngành da giày đã mang lại công việc cho một số lượng lớn lao
động phổ thông. Trong tổng số lao động đó thì nữ chiếm tới 85%. Song song với
các hoạt động thu hút khá lớn nguồn nhân lực thì DN còn tạo ra an sinh xã hội...
đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Khi ngành Da giày Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu với lợi thế
về nguồn nhân lực "vàng" sẽ tạo điều kiện làm tốt các khâu sử dụng nhiều lao
động, đồng thời không có hiện tương gian lận thương mại và đã bảo vệ tốt quyền
sở hữu trí tuệ cho các thương hiệu lớn.
Theo Lefaso, với vai trò bên liên quan có tiếng nói tại các hội nghị Stakeholder
ở Peru, Malaysia, tại các hội nghị đã đưa ra quan điểm: Ngành da giày sản xuất
kinh doanh theo cơ chế thị trường; xóa bỏ thuế nhập khẩu giày trong phạm vi các
nước tham gia TPP ngay ngày đầu tiên. Hiện nay ngành này đang làm lợi cho kinh
doanh sản phẩm da giày và tạo việc làm tại Mỹ; áp dụng nguyên tắc xuất xứ minh
bạch, dễ sử dụng. Cùng với đó, đây cũng là cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ và

cơ hội kinh doanh cho các bên. Quan hệ hưởng lợi từ TPP trong việc hình thành
chuỗi cung ứng mới và các bên khai thác triệt để lợi ích lẫn nhau. Thậm chí còn
nâng cao quan hệ tiếp nhận đầu tư từ các nhà đầu tư trong và ngoài khối.
Mới nhất, từ ngày 1/1/2014, các sản phẩm giày dép của Việt Nam được hưởng
ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của EU trong vòng 3 năm là một ưu thế lớn cho các
doanh nghiệp xuất khẩu da giày Việt Nam khi đây là thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam năm 2013 với trị giá 3,4 tỷ USD
Thách thức
Thách thức đầu tiên cần được nhắc đến là sự cạnh tranh gay gắt với TQ, đất
nước với ngành giày da lớn mạnh. Gần đây, TQ có những lợi thế như gia nhập Tổ
chức thương mại quốc tế (WTO) trong khi bản thân những sản phẩm giày dép từ
TQ cũng đã có những ưu điểm vượt trội hơn Việt Nam, chẳng hạn như đa dạng
kiểu, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lí, đặc biệt là công nghệ cao. Sức mua của các thị
trường truyền thống (EU) vẫn ổn định tuy nhiên, Việt Nam vẫn chịu thuế và những
rào cản khác với các quốc gia như Brazil, Indonesia… Từ 6/10/2006, EU thi hành
thuế chống bán phá giá lên mặt hàng giày da làm từ Việt Nam xuất khẩu sang EU
là 10%. Xuất khẩu sang Mỹ cũng đẩy mạnh trong những năm gần đây, nhưng thị
phần của Việt Nam chỉ chiếm 2.1% so với 83.5% của TQ. Thị trường xuất khẩu
khác như Nga, Đông Âu, Trung Đông, châu Phi dù không có nhu cầu cao về mẫu
mã và chất lượng, Việt Nam cũng không thể thu hút được những thị trường này.
16

16


Kế tiếp, nguyên liệu để sản xuất giày da chiếm 80% giá trị trong khi công
nghiệp sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Các vật liệu phụ trợ khác còn tệ
hơn, những doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sản xuất được những mặt hàng hạn
chế như nhãn, dây giày, ren… nhưng hoàn toàn bỏ qua các phụ kiện nhựa khác,
chẳng hạn khoen, móc, hạt, đồ trang trí cho giày, đặc biệt là giày trẻ em và phụ nữ.

Năng lực sản xuất cho ngành này thường đến từ các công ty nhà nước và các công
ty với nước ngoài, chiếm 90% năng suất. Sự thật này chứng minh rằng hiệu suất
ngày giày dép phụ thuộc nhiều vào nguồn đầu tư vốn từ các cá nhân trong và ngoài
nước.

Giải pháp
o

17

Về phía doanh nghiệp



Thiết lập một hiệp hội doanh nghiệp về CNHT để tạo được một sự liên
kết, trao đổi kinh nghiệm,công nghệ giữa các doanh nghiệp



Xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất, cải tiến kĩ thuật và xử lí môi
trường



Tự điều tra thị trường, tìm ra dòng sản phẩm phù hợp để bắt đầu, sau đó
phải luôn tìm tòi cải tiến để mở rộng sản phẩm, nâng cao trình độ CNKT, chất lượng sản phẩm



Đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng được một đội ngũ kỹ sư lành nghề, có

khả năng sản xuất nguyên phụ liệu hoặc nghiên cứu công nghệ để đưa
công nghiệp phụ trợ phát triển. Áp dụng những biện pháp khuyến khích
đào tạo và học tập ngành công nghiệp phụ trợ như đưa ra những chính
sách khen thưởng, chứng chỉ cho các cá nhân có quá trình học tập tốt, có
tay nghề cao. Chứng chỉ này sẽ giúp công nhân, kỹ sư được nâng lương
hoặc nâng cao vị trí trong công ty.



Chủ động nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng, học tập kinh nghiệm
các doanh nghiệp thành công, không ỷ lại vào các chính sách của nhà
nước



Đảm bảo đạo đức sản xuất kinh doanh.



Mở rộng thị trường



Cần thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo sự liên kết
giữa các địa phương, khu vực

17





Việc tăng nhu cầu nội địa là một trong những việc quan trọng nhất nhằm
đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, để đảm bảo có thể
thu được lợi nhuận cao nhất cũng như xây dựng được một thị trường nội
địa phát triển thì cần quan tâm đến hệ thống phân phối. Hệ thống phân
phối có thể cung cấp đầy đủ, dễ dàng những nhu cầu về linh kiện cho
những DN có nhu cầu sẽ góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ
trợ.
o

18

Về phía nhà nước



Chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực



Có định hướng phát triển ngành tập trung và các sản phẩm da giày xuất
khẩu



Có chính sách hỗ trợ và bảo vệ sản xuất trong nước



Chính sách ưu đãi trong việc vay vốn từ các nguồn tín dụng hoặc bảo vệ

vay vốn từ các nguồn tài chính nước ngoài



Kiểm soát việc đầu tư công nghệ tránh việc nhập các công nghệ quá cũ,
quá lạc hậu gây ảnh hưởng đến môi trường



Tạo môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng và tôn trọng giữa các
doanh nghiệp, không phân biệt là DN tư nhân, nhà nước hay nước ngoài



Chính sách thuế lợi tức, thuế xuất khẩu ưu đãi để khuyến khích DN tham
gia phát triển ngành



Khuyến khích đầu tư tư nhân và kêu gọi FDI



Có biện pháp kiên quyết và hiệu quả ngăn chặn hàng nhập lậu từ Trung
Quốc, đồng thời hỗ trợ ngành tìm thị trường mới.



Cần có các văn bản quy định về phẩm cấp kỹ thuật, đăng ký ngành nghề,
thay đổi về hải quan, về chính sách thuế... Cần xây dựng Luật phát triển

công nghiệp cơ khí, công nghiệp điện tử… để đưa ra các biện pháp tổng
hợp, có hệ thống và quy trình cụ thể như phát triển kỹ thuật, đào tạo
nhân lực, hỗ trợ tài chính, bảo đảm vị trí, khai thác thị trường…



Chính phủ cần có các ưu đãi về tài chính, về đất đai hạ tầng, về đầu tư,
về nguồn nhân lực, rồi chính sách khuyến khích thành lập các doanh
nghiệp sản xuất công ngiệp hỗ trợ da giày, xây dựng các quỹ đặc thù
riêng cho công nghiệp hỗ trợ này. Hình thành tổ chức đầu mối để thực
hiện sự quản lý Nhà nước dẫn dắt liên kết các doanh nghiệp làm công
18


nghiệp hỗ trợ, phân xử các tranh chấp hợp đồng cung ứng, xây dựng ban
hành cơ sở dữ liệu đầy đủ về công nghiệp hỗ trợ...

o

Về phía người lao động



Năng động sang tạo trong công việc



Chủ động tiếp cận KH-CN...

Như vậy, để tận dụng được thời cơ, vượt qua các thách thức trong thời gian tới,

công nghiệp hỗ trợ ngành sản xuất da giày TPHCM cần phải nỗ lực, cố gắng rất
nhiều, phải có chiến lược phát triển mang tính đột phá mạnh mẽ. Các doanh nghiệp
phải có những biện pháp tích cực, khẩn trương để chuẩn bị các điều kiện thâm
nhập vào thị trường quốc tế, đưa ngành da giày trở thành một ngành công nghiệp
vững mạnh đủ khả năng hội nhập và cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường thế giới
và khu vực trong những năm tới.

19

19


IV.

KẾT LUẬN
Công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, phụ

kiện, phụ tùng linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản
xuất, chế biến, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm
tiêu dùng.
Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ được xem là một trong những chính sách
ưu tiên hàng đầu của Việt Nam nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công
nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ mà cụ thể là ngành công nghiệp hỗ
trợ da giày Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng còn yếu, vẫn
đang còn khoảng cách tiêu chuẩn chất lượng khá lớn giữa các nhà cung cấp linh
kiện trong và ngoài nước nên cần những chính sách phù hợp để phát triển. Để phát
triển, cần một lộ trình và cần phát triển 4 yếu tố quan trọng là nguồn nhân lực,
công nghệ, tài chính và hệ thống phân phối. Đề tài nghiên cứu đã góp phần hệ
thống hóa về lý luận cũng như thực trạng của ngành công nghiệp hỗ trợ da giày tại

thành phố Hồ Chí Minh, từ những điểm mạnh, điểm yếu đó nhóm đã rút ra được
nhiều giải pháp để phát triển ngành.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, thành phố Hồ Chí Minh có tiềm năng
rất lớn để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, đặc biệt là cho ngành có tiềm năng
xuất khẩu như giày da.

20

20


21

21



×