Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bài tiểu luận chuyên đề phát triển kỹ năng giao tiếp của trẻ mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.77 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
CHUYÊN ĐỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA
TRẺ MẦM NON

ĐỀ TÀI:“NỘI

DUNG PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO

TIẾP CỦA TRẺ NHÀ TRẺ. THIẾT KẾ HOẠT ĐỘNG
CỤ THỂ ĐỂ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA
TRẺ NHÀ TRẺ”

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2016

1


I.

Ý nghĩa:
Trong năm đầu tiên chào đời, rất nhiều điều kỳ diệu mang tính chuyển
biến quyết định xảy ra ở trẻ em như trẻ tăng gấp 3 cân nặng so với khi
mới sinh, trẻ chuyển từ lẫy, bò sang đi đứng, chạy nhảy, từ bập bẹ sang
nói, hát. Điều ngạc nhiên là trẻ sớm có thể hiểu được ngôn ngữ trước khi
trẻ học nói: đến tháng thứ 6 là trẻ có thể ý thức về tên gọi cũng như bản
thân là một cá nhân độc lập. Sự phát triển của khả năng ngôn ngữ song
hành với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội. Não bộ là nơi tiếp
nhận, hình thành ngôn ngữ, và trẻ em ở bất cứ nơi đâu trên thế giới cũng
đều tiếp thu ngôn ngữ theo cùng một cơ chế như nhau, sự phát triển của
kỹ năng này lại là tiền đề cho sự phát triển của kỹ năng kia: như kỹ năng
xã hội và cảm xúc phát triển cùng với sự vận động, kỹ năng giao tiếp hoàn


thiện cùng với tư duy.
Ngay từ khi bé chào đời, thì giao tiếp đã là một kỹ năng quan trọng giúp
bé tồn tại và phát triển, bé giao tiếp qua ánh mắt, qua các cử động của tay
chân và đặc biệt là qua tiếng khóc… Một người mẹ có sự quan tâm và gần
gũi con chắc chắn sẽ hiểu khi nào bé khóc vì đói, khi nào bé khóc vì đau,
vì sợ và cả vì nhõng nhẽo nữa !
Ngôn ngữ được xem là công cụ chính trong việc giao tiếp, từ khi sinh
ra cho đến khi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên thì trẻ giao tiếp bằng tiếng
khóc, và cử chỉ, ánh mắt… Khi trẻ bắt đầu nói và ngôn ngữ sẽ được phát
triển rất nhanh từ khi trẻ trên 12 tháng, cho đến khi trẻ được 5 tuổi thì
ngôn ngữ đã hoàn thiện, trẻ có đủ vốn từ ( khoảng 2000 từ ) để sử dụng
trong cuộc sống hàng ngày. Việc giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ
thông qua việc trò chuyện với trẻ, cho trẻ chơi những trò chơi phát triển
ngôn ngữ, đọc sách hay kể chuyện cho trẻ nghe là những hoạt động cần
thiết để giúp trẻ đạt được sự giao tiếp tốt nhất.
Chúng ta có thể nói với trẻ những câu ngắn gọn : “Con uống nước mát
nhé” hay gợi ý : “Con xem đóa hoa đẹp chưa kìa” hoặc “Bánh ngon lắm,
con thích không”,…vừa giúp cho sự giao tiếp vừa giúp bé gia tăng vốn từ
vựng.
2


Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng những năm đầu đời của trẻ là những
năm quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đứa trẻ và ngôn ngữ
cũng là một quá trình tâm lý diễn ra rất mạnh ở trẻ.Ở giai đoạn này trẻ học
và nắm được tiếng mẹ đẻ của mình, do vậy mà phát triển kỹ năng giao
tiếp cho trẻ là rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng đến tư duy và quá trình
II.

học sau này.

Lý luận:
1. Giao tiếp là gì?
Giao tiếp là một hoạt động rất phức tạp, là đối tượng nghiên cứu của
nhiều khoa học. Ở Mỗi góc độ khác nhau, người ta đưa ra định nghĩa khác





về giao tiếp.
Giao tiếp là quá trình chuyển giao, tiếp nhận và xử lí thông thông giữa
người này với người khác.
Giao tiếp là quá trình nhận thức lẫn nhau:
Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ trao đổi thông tin cho nhau
mà còn nhận thức về nhau.. Tùy theo sự nhân xét, đánh giá về nhau như thế
nào mà quyết định thiết lập các mối quan hệ với nhau. Có thể là mối quan hệ



xã giao, quan hệ bạn bè, quan hệ làm ăn,...
Giao tiếp là quá trình tác động và ảnh hưởng lẫn nhau:
Quá trình giao tiếp không thể tồn tại bên ngoài hoạt động, mà quá trình hoạt
động được tổ chức trong các nhóm. Như vậy, quá trình hoạt động chung của
nhóm chính là nguyên nhân của sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các
thành viên. Sự có mặt và tham gia đồng thời của nhiều người vào hoạt động
chung đòi hỏi mỗi người phải có những đóng góp nhất định vào việc thực
hiện hoạt động này. Điều này cho phép giải thích sự tác động và ảnh hưởng
lẫn nhau như là việc tổ chứ hoạt động chung. Vì vậy, trong giao tiếp con
người không chỉ trao đổi thông tin và thông qua đó thay đổi hành vi của
người khác, mà còn tổ chức các hành động cho phép cả nhóm thực hiện một

hoạt động chung nào đó. Trong quá trình hoạt động, con người cần phải vạch
ra các hình thức và các chuẩn mực cho hành động khác nhau. Chính các
hành động này là một phần của sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Ngôn

3


ngữ thống nhất và sự hiểu biết về hoàn cảnh giao tiếp là điều kiện cần thiết


đảm bảo hiệu quả của sự tác động lẫn nhau.
Như vậy, có rất nhiều khái niệm về giao tiếp, ta có thể hiểu đơn giản giao
tiếp là một quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người
nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó. Thông thường, giao tiếp trải qua
ba trạng thái:
Trao đổi thông tin, tiếp xúc tâm lý.
Hiểu biết lẫn nhau.
Tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.

Kỹ năng giao tiếp là gì?
Kỹ năng giao tiếp là khả năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện bên ngoài
2.

và đoán biết những diễn biến tâm lý bên trong của con người (với tư cách là
đối tượng giao tiếp), đồng thời biết sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ, biết cách định hướng để điều chỉnh và điều khiển quá trình giao
tiếp đạt tới mục đích đã định.
Kĩ năng giao tiếp là một tập hợp những qui tắc, nghệ thuật, cách ứng xử, đối
đáp được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế hằng ngày giúp mọi người giao
tiếp hiệu quả thuyết phục hơn khi áp dụng thuần thục kỹ năng giao tiếp.


Các kỹ năng giao tiếp cơ bản:
Kỹ năng định hướng giao tiếp:
Kĩ năng này được biểu hiện ở khả năng dựa vào các biểu lộ bên ngoài như:
3.



sắc thái, giọng nói, ánh mắt,điệu bộ, động tác,... mà phán đoán tương đối
chính xác về diễn biến tâm lí đối tượng, từ đó đinh hướng cho mối quan hệ
tiếp theo. Kĩ năng định hướng bao gồm:
4


º

Kĩ năng tri giác là dựa vào tri giác để nhận biết đầy đủ các biểu hiện bên
ngoài của đối tượng giao tiếp (kĩ năng đọc trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời
nói).
Kĩ năng chuyển từ tri giác bên ngoài vào nhận biết bản chất bên trong của
nhân cách là khả năng căn cứ vào những dấu hiệu bên ngoài phán đoán tâm
lí bên trong như động cơ, nhu cầu, cá tính của đối tượng giao tiếp.
Người có kĩ năng định hướng giao tiếp là người có khả năng quan sát tốt,
tích lũy nhiều kinh nghiệm trong quá trình sống, tham khảo kinh nghiệm dân
gian về nhân tướng học, tri giác tinh tế, nhạy bén các trạng thái tâm lí qua
nét mặt, cử chỉ, ngữ điệu của lời nói mà phát hiện tương đối chính xác và
đầy đủ thái độ, tâm trạng của đối phương. Ngôn ngữ diễn tả tình cảm hay
còn gọi là ngôn ngữ biểu cảm rất phong phú. Nó thể hiện tính cách, trí tuệ,
tình cảm, ý chí của con người. Tính chủ dộng hay thụ động, chân thành hay
giả dối, tin tưởng hay hoài nghi, vui vẻ hay buồn bực, thoải mái hay gò ép,

tự tin hay thiếu tự tin,... đều in dấu trong nhịp điệu của lời nói. Trạng thái
cảm xúc của con người cũng thường được biểu lộ rõ ở nét mặt, cử chỉ, hành
vi, điệu bộ, ánh mắt,...
Kĩ năng này rất tinh tế vì sự biểu hiện các trạng thái tâm lí của con người
qua ngôn ngữ và điệu bộ rất phức tạp. Có khi cùng một trạng thái xúc cảm
lại được biểu lộ ra bằng ngôn ngữ và điệu bộ khác nhau. Ngược lại, có khi
sự biểu lộ ra bên ngoài như nhau lại là vẻ ngoài của các tâm trạng khác nhau.
Tuy nhiên, nhờ có những biểu hiện chung nhất về xúc cảm qua các dấu hiệu
bên ngoài, chúng ta vẫn có thể phán đoán tương đối đúng các trạng thái, đặc



điểm tâm lí của đối phương khi giao tiếp.
Kỹ năng định vị:
Kĩ năng đinh vị là khả năng xác định vị trí trong giao tiếp biết đặt vị trí của
mình vào vị trí của người cùng giao tiếp để có thể đồng cảm với họ và tạo
điều kiện để họ chủ động giao tiếp với mình.
Trong giao tiếp, chủ thể sẽ nhập vào các vai khác nhau trong các tình huống
khác nhau.

5


Khi các chủ thể có thông tin ngang nhau, vị thế xã hội như nhau, trong
trường hợp các chủ thể quen biết nhau thì cách ứng xử sẽ thân mật, cởi mở,
tự nhiên, giọng điệu trong giao tiếp thoải mái, ít tính chuẩn mực.
Khi các chủ thể có thông tin không bằng nhau, vị trí xã hội không ngang
º

nhau thì:

Người có thông tin nhiều và có vị thế cao hơn thì ngôn ngữ sẽ tùy theo tác
phong lãnh đạo mà có Sắc thái riêng, có thể là nhẹ nhàng, ít tính mệnh lệnh,

º

có tác phong dân chủ,…
Người có thông tin ít và vị thế thấp sẽ khép nép, bị động, e ngại, ngôn ngữ
trong quá trinh giao tiếp thường mang tính chất từ tốn,…
Kỷ năng định vị còn thể hiện ở chổ biết xác năng định đúng không gian và
thời gian giao tiếp: chọn thời điểm mở đầu, dừng, tiếp tục và kết thúc quá
trình giao tiếp; khoảng cách giữa mọi người trong quá trình giao tiếp không
phải là ngẩu nhiên mà thường được xác định bởi mục đích, nội dung giao
tiếp và nói lên mức độ thân tình của chủ thể và đối tượng giao tiếp.
Rèn luyện các kỷ năng định vị bằng cách rèn luyện tính chủ động và điều tiết



các đặc điểm tâm lý vốn có của bản thân và của đối tượng giao tiếp.
Kỹ năng điều khiển trong giao tiếp:
Nhóm kĩ năng này biểu hiện ở chỗ biết thu hút người cùng giao tiếp và biết

tìm ra đề tài giao tiếp, duy trì đề tài, xác định được nguyện vọng, hứng thú của
người cùng giao tiếp. Nhóm kĩ năng này bao gồm:
Kĩ năng làm chủ trạng thái cảm xúc của bản thân: biết tự kiềm chế, che giấu
được tâm trạng khi cần thiết, biết điều chỉnh và điều khiển diễn biến tâm lí
của mình trong những trường hợp nhất định đảm bảo cho sự giao tiếp có
hiệu quả.
Kĩ năng mở đầu sự giao tiếp: cần phải biết tâm trạng của mình, tìm hiểu nhu
cầu hứng thú của người cùng giao tiếp. Cần phải nói gì, làm gì để thu hút
người cùng giao tiếp để bắt đầu cuộc giao tiếp sao cho thoải mái. Cần thể

hiện tình cảm, sự quan tâm, sự tôn trọng người cùng giao tiếp.
Kĩ năng quan sát bằng mắt: Phát hiện bằng mắt những thay đổi về cử chỉ,
điệu bộ, màu sắc,... trên nét mặt.

6


Kĩ năng nghe: Nhìn vào mặt người nói, có cử chỉđộng viên, khích lệ người
nói. Mỉm cười khi cần thiết, nét mặt biến đổi theo cảm xúc của đối tượng
giao tiếp. Phân biệt những thay đổi của âm tiết, ngữđiệu, cách dùng từ,...
Kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp: phải biết chọn những từ và biết biểu
hiện ngữ điệu với giọng nói nhẹ nhàng, nghiêm khắc, mệnh lệnh hay phẫn
nộ phù hợp với những tình huống giao tiếp nhất định.
Kĩ năng duy trì và kết thúc quá trình giao tiếp:
Duy trì quá trình giao tiếp là làm cho quá trình giao tiếp diễn ra liên tục,
không ngắt quãng. Một cuộc giao tiếp thường có nhiều thời gian chết. có
những khoảng trống là những cuộc giao tiếp tẻ nhạt, kém hiệu quả trong đó
người tham gia thường bị gò bó, gượng gạo, khó chịu. để duy trì cuộc tiếp
xúc đòi hỏi chúng ta phải biết lắng nghe, biết gợi mở vấn đề giao tiếp, biết
khuyến khích đối tượng giao tiếp bộc bạch nội tâm của họ, tạo cảm giác an
toàn, hứng thú cho đối tượng giao tiếp, tuy nhiên, duy trì giao tiếp không có
nghĩa là nói năng huyên thuyên để lấp chỗ trống. những lời nói ba hoa, vô
bổ, rỗng tuếch, xen với những tiếng lóng khó hiểu thường làm cho người ta
bực tức, khó chịu.cần chú ý vào trọng tâm câu chuyện, đồng thời cố gắng
nắm bắt nhu cầu của đối tượng từ đó có hành vi giao tiếp phù hợp để tiếp tục
hay kết thúc quá trình giao tiếp.
Kết thúc cuộc giao tiếp đúng lúc là một kĩ năng quan trọng. Nếu chúng ta chỉ
nghĩ đến ,bản thân thì việc kết thúc cuộc giao tiếp thường cứng nhắc lạnh
lùng khó để lại hứng thú gặp lại của đối tượng giao tiếp. thời điểm kết thúc
giao tiếp phụ thuộc trước tiên vào nhu cầu giao tiếp của người tham gia giao

tiếp. khi nhận thấy mục đích giao tiếp đã đạt được cần khéo léo chuyển lên
thật hào hứng, sôi nổi trước lúc tạm biệt. Điều đó sẽ để lại cho đối tượng
cảm giác tiếc nuối phải chia tay. Lúc chia tay nên thể hiện mong muốn rõ
ràng rằng mong sớm gặp lại đối tượng cũng như thái độ vui thích của mình.
Ví dụ: bắt tay thật chặt nói câu (nhờ có anh tôi có được giây phút vui vẻ).
4. Vai trò của giao tiếp với sự phát triển tâm lý của trẻ:
Ngay từ khi bé chào đời, thì giao tiếp đã là một kỹ năng quan trọng giúp bé
tồn tại và phát triển, bé giao tiếp qua ánh mắt, qua các cử động của tay chân
và đặc biệt là qua tiếng khóc,… Một người mẹ có sự quan tâm và gần gũi
7


con chắc chắn sẽ hiểu khi nào bé khóc vì đói, khi nào bé khóc vì đau, vì sợ
và cả vì nhõng nhẽo nữa !
Trẻ hài nhi luôn có nhu cầu giao tiếp cảm xúc vời người lớn. trẻ vui mừng
khi được giao tiếp với người lớn, cùng với sự giao tiếp trực tiếp của người
lớn trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó, cầm nắm các đồ vật từ đó giao tiếp trực tiếp
sẽ chuyển sang nhu cầu giao tiếp với đồ vật lúc này người lớn là khâu trung
gian là người hướng dẫn trẻ chơi giao tiếp vời đồ vật hoạt động với đồ vật
đơn giản.
Khi biết nói ở lứa tuổi lên 3, thì bé bắt đầu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp,
đồng thời với khả năng bộc lộ cảm xúc thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ qua
ánh mắt với những nét mặt và các dấu hiệu của cơ thể, nếu được đáp ứng
đầy đủ sẽ giúp cho bé hình thành sự tự tin vào bản thân cũng như xây dựng
những mối tương giao với mọi người xung quanh.
Nhờ quá trình giao tiếp người lớn luôn hướng dẫn uống nắn hành vi của trẻ
như nụ cười hay lời khen tỏ vẽ hài lòng hoặc vẻ mặt câu có cái lắc đầu của
người lớn đứa trẻ có thể nhận ra hành vi của mình đúng hay không đúng vì
vậy dần hình thành ở trẻ những thói quen tốt và giúp trẻ học cách cư sử đúng
đắn. cũng chính nhờ giao tiếp phương tiện ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển.

Nếu con người khi sinh ra mà bị bỏ rơi, mà được động vật nuôi thì những cử
chỉ và hành động của bản thân con người đó sẽ giống như cử chỉ và hành
động của con vật mà đã nuôi bản thân con người đó.
Vì thế kỹ năng giao tiếp được xem là một năng lực cần thiết cho trẻ mở rộng
quan hệ từ trong gia đình cho đến ngoài nhà trường và xã hội. Đây là một kỹ
năng phức tạp bao gồm nhiều yếu tố và khác nhau, vì thế ngoài những yếu tố
của năng lực nội tại có sẵn nơi trẻ, thì các bậc phụ huynh cũng cần quan tâm
áp dụng những biện pháp để giúp trẻ phát triển về kỹ năng giao tiếp thông
qua việc tác động bằng cách kích thích nhiều giác quan, mà chủ yếu là nghe

º

– nhìn và đụng chạm.
Ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp:
Ngôn ngữ được xem là công cụ chính trong việc giao tiếp, từ khi sinh ra cho
đến khi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên thì trẻ giao tiếp bằng tiếng khóc, và
cử chỉ, ánh mắt… Khi trẻ bắt đầu nói và ngôn ngữ sẽ được phát triển rất
8


nhanh từ khi trẻ trên 12 tháng, cho đến khi trẻ được 5 tuổi thì ngôn ngữ đã
hoàn thiện, trẻ có đủ vốn từ ( khoảng 2000 từ ) để sử dụng trong cuộc sống
hàng ngày. Việc giúp trẻ phát triển khả năng ngôn ngữ thông qua việc trò
chuyện với trẻ, cho trẻ chơi những trò chơi phát triển ngôn ngữ, đọc sách
hay kể chuyện cho trẻ nghe là những hoạt động cần thiết để giúp trẻ đạt được
º

sự giao tiếp tốt nhất.
Chúng ta có thể nói với trẻ những câu ngắn gọn : “Con uống nước mát nhé”
hay gợi ý : “Con xem đóa hoa đẹp chưa kìa” hoặc “Bánh ngon lắm, con


º

thích không”,…vừa giúp cho sự giao tiếp vừa giúp bé gia tăng vốn từ vựng.
Tuy nhiên, không phải cứ nói nhiều, nói hoài với trẻ là tốt, mà nhiều khi một
bà mẹ nói chuyện quá nhiều với con, nói những câu dài và trả lời luôn cho
con khiến trẻ chỉ biết gật gù , lại là một trong những nguyên nhân gây ra sự

thụ động hay chậm nói cho trẻ.
5. Nội dung phát triển kỹ năng giao tiếp của trẻ nhà trẻ:
 Phát triển nhu cầu giao tiếp:
Tiếp tục phát triển nhu cầu giao tiếp xúc cảm với người lớn:
Giao tiếp cảm xúc trực tiếp với người lớn là một nhu cầu bức thiết của trẻ. Sở dĩ
có nhu cầu này là do yêu cầu khách quan của cuộc sống, trẻ em cần phải được
chăm sóc thường xuyên của người lớn mới thoả mãn được những yêu cầu của cơ
thể, mặt khác cũng lại do cư xử của người lớn, đã khơi gợi ở trẻ những xúc cảm
ban đầu.Trẻ mong được người lớn khen ngợi, âu yếm, rất sợ người lớn không
bằng lòng. Ở trẻ cũng xuất hiện tình cảm xấu hổ khi bị chê trách.
Giao tiếp trực tiếp với người lớn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý
của trẻ. Đặc biệt là về mặt xúc cảm.
Từ nhu cầu tiếp xúc da thịt với người lớn đến giao tiếp thực sự với người lớn,
khi mà trẻ đã có những phương thức giao tiếp là một bước phát triển rõ rệt từ
tuổi sơ sinh đến tuổi hài nhi. Trong giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp nhận được
những sắc thái xúc cảm khác nhau của người lớn, rồi dần dần trẻ cũng thể hiện
được những xúc cảm khác nhau của mình.
Nhu cầu giao tiếp xúc cảm có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của trẻ. Đến
tuổi ấu nhi, nhu cầu này tiếp tục được phát triển.

9



Trong quá trình giao tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ,
bằng con đường đó, đứa trẻ dần dần dần hình thành được những thói quen tốt và
học cách ứng xử đúng đắn.
Khi trẻ thể hiện giao tiếp cảm xúc bằng lời nói người lớn trả lời bằng ngôn
ngữ, phi ngôn ngữ để trẻ cảm nhận được tình yêu thương và bắt chước.
Ví dụ: khi trẻ nói “yêu mẹ, yêu mẹ lắm á”, mẹ hãy cười, cảm ơn trẻ và trả lời
“mẹ cũng thương con”, xoa đầu trẻ hoăc có thể nựng má và ôm nhẹ.
Trẻ thể hiện giao tiếp cảm xúc bằng cử chỉ, nét mặt như: nắm tay cô, ngồi gần
cô, đi theo cô,... bởi cô đã tạo cho trẻ cảm giác tin tưởng gần gũi. Giọng nói
mạnh - nhẹ, lặp lại từ kèm hành động theo ngữ cảnh giao tiếp; cảm xúc tích cực.
Tiếp tục phát triển nhu cầu giao tiếp công việc tình huống với người lớn:
Cùng với giao tiếp trực tiếp với người lớn, dần ở trẻ xuất hiện nhu cầu sờ mó,
cầm nắm các đồ vật. Từ đó nhu cầu giao tiếp trực tiếp sẽ nhường chỗ cho giao
tiếp với đồ vật, tức là giao tiếp với người lớn để tiếp xúc với đồ vật. Lúc này
người lớn trở thành khâu trung gian giữa trẻ và đồ vật. Sự giao tiếp này dần dần
trở thành hoạt động phối hợp giữa người lớn và trẻ em. Người lớn dẫn dắt đứa
trẻ đến với thế giới đồ vật và hướng dẫn nó biết hành động với các đồ vật đơn
giản.Sự hứng thú của trẻ đối với đồ vật, đối với các thuộc tính của chúng và
hành động với chúng tăng lên kích thích trẻ giao tiếp dần với người lớn. Nhưng
trẻ chỉ có thể yêu cầu và nhận được sự giúp đỡ cần thiết khi giao tiếp bằng lời
với người lớn.
Ở giai đoạn này, trẻ nảy sinh nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ
đồng thời với sự phát triển nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ, việc tích luỹ các
biểu tượng do hoạt động với đồ vật mang lại có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển
ngôn ngữ của trẻ. Các biểu tượng đó tạo cơ sở để lĩnh hội nghĩa của các từ và
liên kết chúng với hình ảnh của các sự vật, hiện tượng xung quanh. Ngôn ngữ
của trẻ phần lớn phụ thuộc vào sự dạy bảo của người lớn. Để kích thích trẻ nói
người lớn cần đòi hỏi trẻ phải bày tỏ nguyện vọng của mình bằng lời nói. Ngôn
ngữ của trẻ phát triển theo hai hướng chính: Hoàn thiện sự thông hiểu lời nói

của người lớn và hình thành ngôn ngữ tích cực riêng của đứa trẻ.
Trong khi hoạt động với đồ vật, trẻ thường gặp những tình huống cụ thể trong
đó các đồ vật và các hành động với đồ vật chưa thể tách rời nhau. Vì vậy trẻ
1
0


không thể lĩnh hội các từ biểu đạt đồ vật riêng, hành động riêng mà chỉ có thể
lĩnh hội ngôn ngữ biểu đạt cả tình huống trọn vẹn ấy.
Ví dụ: Trẻ chỉ hiểu lời nói "đánh trống" khi thấy một người đang đánh trống.
Điều quan trọng khi lĩnh hội những hành động sử dụng đồ vật trẻ lĩnh hội
những qui tắc hành vi trong xã hội. Đồ chơi đối với trẻ rất cần thiết giúp trẻ
khám phá chức năng và phương thức sử dụng,tuy nhiên người lớn cần mạnh dạn
cho trẻ tiếp xúc vật thật và đồ chơi có nhiều thao tác nhằm kích thích trẻ hành
động. Trẻ 1 - 1.5 tuổi, có nhu cầu giúp đỡ trong hoạt động với đồ vật.
Sự tiếp xúc thế giới xung quanh càng rộng thì phương thức hành động với đồ
vật càng phong phú,trong đó những hành động thiết lập các mối tương quan và
những hành động công cụ là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển
của trẻ. Trẻ muốn và yêu cầu người lớn cùng trẻ tham gia hoạt động với đồ vật.
Người lớn cần giúp trẻ nói rõ ràng và yêu cầu trẻ trình bày rõ ý muốn của mình
bằng lời theo khả năng của nó.
Trẻ hướng đến sự cộng tác với người lớn.
Ví dụ: Thấy mẹ lau nhà, trẻ cũng muốn và bắt chước lau nhà.
Thấy chị nhặt rau, trẻ cũng làm theo.
Thông qua đó, trẻ phát triển nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, khả năng tự phục
vụ,...
Người lớn có thể giúp trẻ phát triển giao tiếp bằng cách:
º
Tổ chức cho trẻ chơi với các đồ chơi, hướng dẫn cho trẻ cách chơi bằng
hành động cụ thể, kèm theo những lời nói ngắn gọn, rõ ràng; tạo điều kiện

cho trẻ được hoạt động, được nói, được biểu lộ ý muốn, tình cảm của mình
º

một cách tự nhiên.
Cho trẻ tiếp xúc, làm quen với người lạ; giới thiệu trẻ với trẻ khác để tập cho
trẻ tính mạnh dạng, cởi mở trong giao tiếp. Tập cho trẻ biểu lộ tình cảm với
người thân, với trẻ khác, với búp bê, với vật nuôi trong nhà,... khen trẻ mỗi
khi trẻ biểu hiện sự yêu thương và chăm sóc người khác (kể cả búp bê và các

º

con vật nuôi).
Giao cho trẻ những việc đơn giản để khuyến khích trẻ tham gia giúp đỡ

º

người khác và lao động tự phục vụ bằng giao tiếp ngôn ngữ đối thoại.
Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc nhiều với thế giới xung quanh, hướng
dẫn trẻ quan sát thông qua những câu hỏi phù hợp với trẻ giúp trẻ phát triển
1
1


tính tò mò, ham hiểu biết. Trả lời nghiêm túc, đầy đủ, chính xác, dễ hiểu các
câu hỏi của trẻ.
Hình thành và phát triển nhu cầu giao tiếp nhận thức:
Trước 1.5 tuổi, trẻ chưa chủ động giao tiếp bằng lời với người lớn bởi vốn từ
của trẻ ít và khả năng diễn đạt chưa có, trẻ chủ yếu giao tiếp qua cử chỉ, điệu bộ
nên người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc nhiều hơn với thế giới xung
quanh thông qua tranh ảnh, sách, truyện; trò chuyện với trẻ nhiều hơn, thường

xuyên đặt các câu hỏi và câu trả lời rõ ràng, ngắn gọn để trẻ bắt chước học theo.
Sau 1.5 tuổi, sự hiểu biết của trẻ tiến bộ rõ rệt, trẻ chủ động hơn trong giao
tiếp với người lớn, thể hiện rõ nhu cầu nhận thức.
2 tuổi, lúc này ngôn ngữ của bé phát triển đến 70% khả năng và số từ vựng để
dùng trong cả đời. Bé có thể hiểu các câu phức, nắm được ngôn ngữ sơ bộ và
ngày càng tích cực phát âm. Bé còn rất thích bắt chước những câu nói có âm
điệu như: “đồng nát ơ”, “phớ ơ”,... nghe rất ngộ nghĩnh. Trẻ chủ động giao tiếp
và mong nhận được câu trả lời. Nghe và thực hiện các yêu cầu bằng lời nói.
Nghe các câu hỏi “Cái gì?”, “Làm gì?”, “Ở đâu?”, “Như thế nào?”. Trả lời và
đặt các câu hỏi “Cái gì?”, “Làm gì?”, “Ở đâu?”, “Như thế nào?”, “Để làm gì?”,
“Tại sao?”. thể hiện nhu cầu, mong muốn và hiểu biết bằng 1 - 2 câu đơn giản
và câu dài. Hiểu được những đặc điểm tâm lí đó, người lớn cần phải giúp trẻ
phát triển nhu cầu giao tiếp nhận thức dựa trên những gì trẻ có.
Ví dụ: giáo viên tập cho trẻ đặt câu hỏi “ Cô đang cầm vật này trên tay, nếu các
con muốn biết đây là gì thì các con phải hỏi cô như thế nào đây?”, “Bạn Hoa
đang làm gì thế kia, con lại hỏi bạn xem?”.
Tập cho trẻ thói quen không biết thì phải hỏi.
 Phát triển kĩ năng nghe - nhìn:
Tiếp tục rèn luyện kĩ năng nghe và hiểu ngôn ngữ cho trẻ:
Để luyện khả năng nghe hiểu cho trẻ, chúng ta có thể yêu cầu trẻ thực hiện yêu
cầu bằng lời nói của người lớn. Tùy theo độ tuổi mà chúng ta có thể có số lượng
yêu cầu phù hợp.
Ví dụ: Đối với trẻ 2,3 tuổi, người lớn có thể yêu cầu trẻ thực hiện từng yêu cầu
một: con hãy đi dép vào, con đi rửa tay đi...
Khi trò chuyện với trẻ, người lớn nên sử dụng các từ chỉ đồ vật, con vật, đặc
điểm, hành động quen thuộc, cung cấp cho trẻ thêm vốn từ mới, giúp trẻ mở
1
2



rộng sự hiểu biết về nghĩa của từ. Cho trẻ nghe các bài thơ, đồng dao, ca dao,...
và truyện ngắn kết hợp xem tranh ảnh, sách, truyện. Đồng thời sử dụng ngôn
ngữ biểu cảm trong giao tiếp với trẻ mọi lúc, mọi nơi: Tạo cơ hội cho trẻ tiếp
xúc với thế giới xung quanh và hướng dẫn trẻ miêu tả lại các sự vật, hiện tượng,
hình ảnh trẻ quan sát được bằng lời một cách hình tượng. Người lớn cũng cần
khuyến khích trẻ, hướng trẻ đến việc sử dụng ngôn ngữ để thể hiện cảm xúc.
Những hoạt động nhằm giúp trẻ nghe, hiểu nghĩa các từ, nghe hiểu nội dung
các câu nói trong giao tiếp, bày tỏ nhu cầu bằng các câu phức hợp có thể được
thực hiện qua các trò chơi: tìm bạn, tìm đồ vật cho đúng, chọn quà tặng bạn, thi
xem ai nói hay, nói đúng,...
Luyện khả năng quan sát, hiểu được hầu hết các biểu hiện phi ngôn ngữ của
người cùng giao tiếp:
Quan sát là phương thức học hỏi quan trọng của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, với vốn
kinh nghiệm và hiểu biết còn hạn chế, trẻ chưa thể xây dựng phương pháp tự
quan sát có hiệu quả, mà cần được người lớn hướng dẫn để có thể chủ động đối
mặt với các vấn đề, giải quyết chúng độc lập.
Giúp trẻ xác định mục đích quan sát rõ ràng, trước khi đi đến địa điểm cần
quan sát, cha mẹ định hướng giúp trẻ xác định rõ mục đích đi tham quan là đạt
những điều gì, thậm chí yêu cầu trẻ quan sát tỉ mỉ, chi tiết một con vật cụ thể trẻ
thích rồi mô tả lại cho mọi người nghe, như thế trẻ sẽ hứng thú khám phá và thu
hoạch những điều bổ ích. Tạo hứng thú, kích thích tính tò mò, thích khám phá
của trẻ bằng cách đặt câu hỏi: đặt câu hỏi vừa gợi mở, vừa củng cố lại những
kinh nghiệm trẻ từng lĩnh hội, giúp trẻ thấy việc quan sát, tìm hiểu thế giới thật
thú vị, có ý nghĩa thiết thực và là cách học tập chủ động, không áp lực.
Trẻ ở độ tuổi này hiểu được một số dấu hiệu phi ngôn ngữ mà người lớn
thường sử dụng và tập sử dụng theo. Ví dụ: im lặng - đưa ngón tay trỏ lên
miệng.
 Phát triển kĩ năng thực hiện lần lượt trong giao tiếp:
Tiếp tục tập làm lần lượt trong hoạt động với đồ vật cùng người lớn:
Ở gian đoạn này, hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ; trẻ tò mò,

thích khám phá đồ dùng - đồ chơi, các hành động thử - sai xuất hiện giúp trẻ

1
3


khám phá chức năng - công dụng của đồ vật và biết làm lần lượt trong hoạt động
với đồ vật cùng người lớn.
Ví dụ: Trẻ chăm chú quan sát người lớn chơi xong đồ chơi, trẻ bắt chước làm
theo.
Nhờ người lớn hướng dẫn và các hành động thử - sai của trẻ đã giúp trẻ biết
xếp chồng các khối gỗ vuông lên nhau lần lượt từ to nhất đến nhỏ nhất, hay trẻ
lắp được vòng tròn vào trụ gỗ lần lượt từ lớn đến nhỏ.
Trẻ thực hiện được một số quy định đơn giản trong sinh hoạt ở nhóm, lớp: xếp
hàng chờ đến lượt, để đồ chơi vào nơi quy định.
Tập thực hiện lần lượt trong hội thoại với người lớn:
Người lớn cần làm gương cho trẻ bắt chước. Người lớn nói chuyện, người này
nói phải có người khác nghe, không nên ngắt lời đối phương khi giao tiếp. Hơn
2.5 tuổi, trẻ thường đặt ra những câu hỏi nói lên những thắc mắc, suy nghĩ của
mình mà không cần phải chờ đợi câu trả lời, người lớn cần giáo dục trẻ khi hỏi
phải nhận được câu trả lời rồi mới hỏi tiếp; tập cho trẻ thói quen không cướp lời
và nói leo khi người khác nói.
 Giáo dục và phát triển kĩ năng sử dụng phương tiện giao tiếp:
Rèn kĩ năng sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp với người
lớn và với bạn:
Người lớn thường xuyên sử dụng phi ngôn ngữ để giao tiếp với trẻ giúp trẻ phát
triển khả năng hiểu và sử dụng phi ngôn ngữ để diễn đạt thay lời nói.
Ví dụ: bằng cử chỉ, nét mặt, giọng nói và tình huống giao tiếp, người mẹ yêu cầu
trẻ chỉ đầu, mắt, mũi,... và trẻ chỉ đúng.
Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp với người lớn và với

bạn:
Qua giao tiếp với người lớn trong hoạt động với đồ vật, nhu càu giao tiếp bằng
lời của trẻ được phát triển.
=> Ngôn ngữ và phi ngôn ngữ có mối quan hệ gắn liền, hỗ trợ và bổ sung cho
nhau. Trong giao tiếp, khi người lớn nói những lời được lặp đi lặp lại nhiều lần
cùng với những cử chỉ nhất định, trẻ đáp lại đúng lời nói của người lớn và động
tác trả lời.
Ví dụ: Người lớn nói “đưa tay” và làm động tác tương tự thì trẻ sẽ học rất nhanh
động tác trả lời. Trong trường hợp này, trẻ không đáp lại lời nói mà đáp lại toàn
bộ ngữ cảnh.
1
4


6.

Hoạt động có chủ đích phát triển kĩ năng gio tiếp của trẻ nhà
trẻ:

ĐỀ TÀI: NHẬN BIẾT CÁC BỘ PHẬN TRÊN KHUÔN MẶT BÉ
Lứa tuổi: 24 tháng
Thời gian: 5 - 7 phút
I.

II.

Mục tiêu:
- Trẻ được rèn luyện kĩ năng nghe - hiểu ngôn ngữ.
- Trẻ phát triển nhu cầu giao tiếp nhận thức.
- Trẻ tập thực hiện lần lượt trong hội thoại với người lớn.

- Trẻ rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp với người lớn.
Nội dung:
Cô trò chuyện về các bộ phận trên khuôn mặt trong tranh, từ đó áp dụng
trên khuôn mặt trẻ. Thông qua lời nói và hạnh động cụ thể đi kèm của cô,
giúp trẻ rèn luyện kĩ năng nghe - hiểu.
Sau khi đặt câu hỏi, cô cho trẻ khoảng thời gian suy nghĩ để trả lời. Cô
nhấn mạnh lại câu trả lời đúng và đầy đủ tập cho trẻ thói quen thực hiện
lần lượt trong hội thoại với người lớn, đồng thời giúp trẻ phát triển nhu
cầu giao tiếp nhận thức bởi vì cô đã kích thích và tạo điều kiện cho trẻ
biết cách hỏi và trả lời; rèn luyện kĩ năng sử sụng ngôn ngữ trong giao

III.

tiếp với người lớn.
Cách tiến hành:
Hoạt động của cô
* “Các con ơi, lại đây với cô nào!”, cô lắc lục lạp
gây chú ý đến trẻ.

Hoạt động của trẻ
Trẻ bị thu hút bởi âm
thanh của lục lạp và lại
gần cô.
Cô đem chiếc hộp bí mật ra gây tò mò đến trẻ và
Trẻ nhìn chiếc hộp và chú
cho trẻ đoán xem bên trong có gì? À! đây là những ý cô
bức tranh, chúng ta cùng xem trong tranh này có gì
nha!
-“Cái gì đây?”, cô chỉ tay vào đôi mắt trong tranh Trẻ trả lời
hỏi trẻ.

+ À! Đôi mắt, nhắm mắt nè, mở mắt nè (cô nói
Trẻ nghe và trả lời câu hỏi
kèm hành động của mắt). Mắt của cô đây (cô chỉ
của cô
tay lên mắt), còn mắt của các con đâu?
1
5


+ chúng ta cùng nhắm mắt lại lần nữa nha, “khi
nắm mắt các con có thấy gì không?”
+ Vậy đôi mắt giúp gì cho chúng ta? (nhìn mọi
người, mọi vật xung quanh).
+ Chúng ta làm gì để bảo vệ mắt đây? (rửa mặt
thường ngày và không dụi mắt).
- Í, các con có ngửi thấy mùi gì không?
+ Con ngửi thấy mùi gì?
+ Con dùng cái gì để ngửi?, (cho trẻ sờ mũi)
+ Nếu không có mũi thì sao ta? (không thở được)
+ Vậy chúng ta làm gì để bảo vệ mũi đây?
(Bịt khẩu trang khi ra ngoài, không cho tay vào
ngoáy mũi).
- Miệng xinh:
+ Miệng con đâu?
+ Miệng dùng để làm gì?(ăn, uống, nói chuyện,
hát, đọc thơ,...
+ Vậy chúng ta làm gì để bảo vệ miệng đây?
(vệ sinh răng miệng)
-Tai đâu tai đâu? Giờ các con đưa tay lên nắm lấy
2 cái tai đi nào.

+ Bịch tai lại nào? Các con còn nghe thấy tiếng gì
không?
+ Tai dùng để làm gì vậy các con?(nghe những âm
thanh xung quanh)
+ Chúng ta làm gì để bảo vệ tai? (không bỏ đồ vật
hoặc nước vào tai, không hét vào tai bạn).
* Bạn nào xung phong kể về các bộ phận trên
khuôn mặt của mình nào? (nếu không kịp thời
gian, có thể đưa hoạt động này vào giờ chơi - tập
chiều của trẻ)
II.



Trẻ nghe và trả lời
Trẻ trả lời
Trẻ trả lời
Trẻ ngửi xung quanh
Trẻ trả lời
Trẻ trả lời
Trẻ trả lời
Trẻ suy nghĩ và trả lời

Trẻ chỉ và sờ miệng
Trẻ trả lời
Trẻ trả lời
Trẻ làm theo yêu cầu của
cô và trả lời câu hỏi

Trẻ kể về các bộ phận trên

khuôn mặt mình.

Kết luận – kiến nghị:
1. Kết luận:
Các bé ở độ tuổi này thường rất tò mò về mọi thứ xung quanh mình và

muốn biết tên tất cả những thứ đó. Do đó, việc học tên các đồ vật là hoạt
động trọng tâm trong giai đoạn này. Quá trình xây dựng vốn từ vựng này sẽ
góp phần củng cố các kết nối khớp thần kinh trong thùy trán - các phần của
não chịu trách nhiệm chính cho bộ nhớ. Ở tuổi này, bé biết khoảng 250 từ,
nhưng có thể bé sẽ không sử dụng tất cả trong cuộc đối thoại hằng ngày. Khi
1
6


các vùng ngôn ngữ của não trở nên tích hợp hơn, bé sẽ bắt đầu nối ba, bốn
hoặc thậm chí là năm từ lại với nhau thành một câu.
 Trẻ không những hiểu được hầu hết những điều mà bố mẹ nói với trẻ mà còn

có thể nói chuyện với số lượng từ vựng tăng lên nhanh chóng, khoảng hơn
50 từ. Trong giai đoạn này, sẽ đã có thể nói những câu dài khoảng từ 2 – 3
chữ như “Uống nước cam” hay “Ăn bánh”. Thậm chí có trẻ phát triển nhanh
còn có thể nói những câu từ 4 – 5 chữ “Bố ở đâu mẹ?” hay “Đồ chơi đâu
rồi?”,…Trẻ còn bắt đầu biết sử dụng các đại từ xưng hô (con, cô, cậu, bố,
mẹ,…) và hiểu được khái niệm của từ “tôi”. Bố mẹ nên chú ý đến cách mà
trẻ sử dụng để mô tả ý tưởng, thông tin và bày những yêu cầu, mong muốn
của mình với bố mẹ.
 Khả năng giao tiếp và khả năng ngôn ngữ của bé phát triển vượt bậc, song

hành cùng với những tiến bộ về các lĩnh vực khác. Điều này cho phép bé

diễn tả rõ ý tưởng, những điều mà bé quan tâm, cũng như lôi cuốn bé vào
những niềm đam mê mới.
Phát âm:
º

Bé học từ và kiểu phát âm từ mới bằng cách lập lại những gì mà bạn nói cho
bé nghe, ngay cả khi bé chưa hiểu được từ mới đó có nghĩa là gì. Quá trình
lặp lại này đôi khi được gọi là “thói nhại lời”, đây là biểu hiện hoàn toàn
bình thường đối với trẻ từ khoảng14 tháng đến 3 tuổi hoặc hơn nữa.

º

Cách phát âm của bé vẫn còn theo kiểu trẻ con. Chẳng hạn, lúc bé 2 tuổi,
thậm chí là 2 tuổi rưỡi, thường có xu hướng không phát âm những phụ âm
cuối của từ. Cách tốt nhất nhằm giúp bé phát âm đúng là đừng cố gắng sửa
bé ngay, chỉ cần lặp lại cho bé nghe, hoặc có thể lồng vào trong một câu dài
phức tạp hơn.

º

Lúc 2 tuổi, khi phát âm những từ có hai phụ âm kế tiếp nhau bé thường bỏ đi
một phụ âm. Mặc dù vậy, mọi người vẫn hiểu được bé đang nói gì do có
những từ khác trong câu tạo nên ngữ cảnh thích hợp. Nếu phát hiện thấy bé

1
7


có giọng đơn điệu hoặc chỉ có giọng mũi, bạn cần kiểm tra xem bé có bị rối
loạn về thính giác hoặc về phát âm không.

º

Trẻ con thường tỏ vẻ thích thú khi nghe âm thanh hoặc các giai điệu. Từ tuổi
này trở đi, bé bắt đầu tỏ ra chú ý khi nghe những đoạn nhặc hoặc những bài
đồng dao. Lúc 2 tuổi rưỡi, bé có thể hát theo những bài hát trên đài phát
thanh hoặc tự hát thầm một mình.

Trò chuyện với mọi người:
º

Lúc 2 tuổi, bé thường tỏ ra cởi mở, biết bày tỏ tình cảm nồng nhiệt, đồng
thời rất thích giao tiếp với mọi người xung quanh.

º

Khoảng 2 tuổi rưỡi, bé hiểu được ý nghĩa của từ “Tại sao?” và bắt đầu sử
dụng từ này nhiều hơn. Bé luôn trả lời mỗi khi được hỏi, đồng thời bé cũng
muốn bạn làm như thế với bé. Thông thường bé sẽ hỏi bạn về mọi thứ và trò
chuyện rất lâu, với nhiều câu hỏi rất thú vị. Bé đã hiểu được nhiều quy tắc
ứng xử lúc giao tiếp. Tuy nhiên, đôi khi bé vẫn còn ngắt lời người lớn, nhất
là khi bé cảm thấy hứng thú quá mức. Thế giới của bé rất đáng yêu, nhưng
bé luôn đòi hỏi mọi thứ phải được đáp ứng ngay. Bé không thể hiểu được tại
sao bạn lại bận rộn hoặc mệt mỏi. Còn bạn, không phải lúc nào cũng có thể
dừng công việc lại để đáp ứng các nhu cầu của bé, song bạn có thể tạm hứa
với bé rằng sau này sẽ giải thích cho bé hiểu (nhưng phải giữ lời hứa đấy
nhé!).
Chan hòa với mọi người:

º


Từ 2 tuổi trở đi, bé tự tin hơn, ít rụt rè, nhút nhát hơn so với trước đây. Bé tỏ
ra cởi mở hơn, ngay cả đối với người lạ. Tuy nhiên điều này còn tùy thuộc
vào cá tính của từng bé, có bé dám chủ động bắt chuyện làm quen với người
lạ nữa. Trong những tình huống quen thuộc, bé cảm thấy hoàn toàn thoải
mái, mặc dù đôi lúc bé hơi e dè, thậm chí còn chạy vù đến ôm chầm lấy cha
mẹ để có cảm giác thoải mái hơn.

1
8


º

Một số bé lại tỏ ra rất kín đáo, dè dặt, ngay cả khi bé đã 2 tuổi rưỡi. Có thể
lúc mới gặp ai đó bé tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát khá lâu nhưng sau đó bé sẽ dần
dần hoạt bát trở lại. Nếu trong khung cảnh gia đình bé vẫn trò chuyện thoải
mái thì những biểu hiện e dè, rụt rè như trên cũng không có gì đáng lo ngại
cả.

Bày tỏ cảm xúc:
º

Từ giai đoạn này trở đi, bé cũng đã có khả năng “đọc hiểu” cảm xúc của
những người khác. Khả năng này ở bé gái thường tốt hơn so với bé trai, mặc
dù điều này không phải lúc nào cũng đúng. Điều quan trọng là từ khoảng 2
tuổi tở đi, bé đã bắt đầu nhận ra một điều rằng những người khác cũng có
nhu cầu riềng. Tuy nhiên phải cần thêm một thời gian nữa để bé hoàn thiện
khả năng này. Đây là lý do tại sao đến độ tuổi này bé vẫn còn xem nhu cầu
và những mong muốn của bé là tối thượng và luôn luôn cấp bách. Bé 2 tuổi
chưa biết cách chờ đợi bất cứ điều gì. Khoảng từ 2 tuổi trở đi, ở bé mới xuất

hiện một số dấu hiệu nhằm cải thiện hơn về vấn đề này.

º

Bạn có thể giúp bé nhận ra quan điểm của những người khác bằng cách giải
thích cho bé hiểu những người khác có thể cảm thấy như thế nào. Nên dùng
các từ ngữ đơn giản, chẳng hạn như “buồn”, “vui”, ...khi nói về những cảm
xúc này. Bạn cũng có thể mở rộng câu chuyện sang các nhân vật trong sách
của bé. Chẳng hạn, khi bạn cùng đọc sách với bé, bạn có thể giải thích cho
bé hiểu rằng bé gái ở trong bức tranh đang buồn vì bị mất con chó yêu quý
của cô ấy.
Ngày càng tự lập:

º

Từ 2 tuổi trở đi, bé có thể làm được rất nhiều việc và thường có xu hướng
thích tự làm lấy mọi việc. Tất nhiên, không phải lúc nào bé cũng có thể tự
làm được, vì vậy bạn nên giúp đỡ bé những lúc bé cảm thấy bối rối.

º

Tính quyết đoán và thích từ chối sự giúp đỡ lên đến đỉnh điểm lúc bé được 2
tuổi rưỡi. Nhìn chung, những nét tính cách này của bé là một phần của quá
1
9


trình bé ngày càng tở trở nên tự lập, không còn phụ thuộc nhiều vào cha mẹ
nữa.
º


Bạn có thể để cho bé tự làm lấy mọi việc. Nếu không, nên khéo léo, mềm
mỏng trong việc giúp đỡ bé. Chẳng hạn khi bé không kéo dây kéo quần lên
được dù đã cố gắng giật mạnh, bạn có thể kéo giúp bé và nói: “Ừ, chắc lần
sau thì cái dây kéo này mới chịu nghe lời con!”. Nói như thế, bé sẽ cảm thấy
dễ chịu hơn, và cách bạn nói cũng mang tính khuyến khích hơn, thay vì nói
rõ ràng bé không thể tự kéo dây kéo quần được.

º

Một số bé thể hiện thái độ cố ý, không hợp tác rất rõ nét. Chẳng hạn, nếu bạn
bảo bé dọn dẹp đồ chơi và cởi áo quần để đi tắm, nhưng bé vẫn cứ ngồi lỳ ở
sàn nhà tiếp tục chơi. Trong trường hợp này đôi khi bạn có thể “thắng” bé
nhờ một mẹo nhỏ bằng cách bày ra một trò chơi mới. Bạn có thể vờ nói với
bé rằng: “Ba đánh cuộc với con là con không thể cất những viên gạch nhựa
vào thùng xong trước khi ba đem mấy quyển sách này để lên bàn!”.

º

Bạn cũng có thể chơi với bé trò chơi thay phiên nhau làm những công việc
đơn giản. Chẳng hạn, bé và bạn lần lượt cất một món đồ chơi. Bé có thể vui
thích làm điều này hơn khi bạn nói với bé rằng các bé lớn đều sắp xếp đồ
chơi gọn gàng như vậy. Hiếm có bé 2 tuổi nào cưỡng lại niềm vui được coi
là “người lớn!” đó.
2. Kiến

nghị:

 Những bài tập phát triển kĩ năng giao tiếp ở trẻ:


Nói chuyện với bé. Chẳng hạn như khi bạn làm một việc gì đó, hãy giải
thích cho bé hiểu những gì bạn đang làm, và nhớ là hãy nói một cách rõ
ràng.
Hãy để bé nhìn thấy khuôn mặt của bạn khi bạn nói. Bằng cách này, bé có
thể nhìn thấy miệng của bạn phát ra âm thanh, sắc thái trên khuôn mặt của
bạn
Người lớn cần hòa vào như một người bạn để giao tiếp với trẻ, cúi người
xuống để giao tiếp với trẻ, tôn trọng, lắng nghe trẻ nói
2
0


Nói ở cấp độ của bé: Không sử dụng cách nói chuyện của trẻ sơ sinh, hoặc
những từ khó và cần nhấn mạnh âm tiết. Bạn cần sử dụng ngôn ngữ thật
sống động phù hợp, hấp dẫn để bé hứng thú tham gia.
Hãy hỏi bé để tìm một vài thứ. Bạn sẽ ngạc nhiên rằng bé biết nhiều thứ thế
nào đấy!
Lắng nghe bé. Hãy giúp bé tự tin bằng cách thể hiện cho bé thấy rằng những
gì bé đang nói là rất quan trọng,
Khuyến khích giao tiếp. Đọc tên các đồ vật bạn nhìn thấy mỗi ngày và
khuyến khích bé nói lại từ đó.
Không chỉ ra lỗi sai. Thay vào đó, hãy lặp lại toàn bộ câu nói của bé bằng từ
chính xác.
Cùng bé đọc sách mỗi ngày. Việc thiết lập thói quen đọc sách sớm sẽ giúp
thúc đẩy các kỹ năng đọc sau này của bé khi bước vào tuổi đi học.
Chọn và đọc cùng bé những quyển sách đơn giản và dễ hiểu. Sau đó, bé sẽ
có thể "đọc" nó một mình.
Sử dụng gương. Hãy để bé tạo ra những cử chỉ trên mặt và đọc tên các bộ
phận cơ thể của bé .
Khám phá thế giới của bé. Đi bộ xung quanh khu phố bạn đang sống và nói

chuyện với bé về những gì bạn nhìn thấy.
Chơi với bút viết. Nếu bé quan tâm đến bút chì và giấy, hãy để bé thử viết.
Chơi trò trốn tìm. Giấu một món đồ chơi yêu thích và yêu cầu bé tìm nó.
Chơi các trò chơi đặt tên. Chỉ vào những thứ quen thuộc và yêu cầu bé đặt
tên cho chúng. Hoặc yêu cầu bé thực hiện một số hoạt động để giải thích từ
ngữ, như thu thập dữ liệu, nhảy hoặc ngủ.
Hát cho bé nghe. Chỉ cho bé vần điệu, lượt ngón tay và đếm nhịp điệu. Nghe
băng đĩa. Chơi trò chơi bắt chước, chẳng hạn như "Đây là cách chúng ta rửa
mặt" hoặc "Con là cốc trà nhỏ".

1.
2.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


2
1


13.










http:///123doc.org
http:///giaoanmamnon.com
http:///violet.vn

14.

TS. Lê Xuân Hồng, Một số vấn đề về giao tiếp và giao tiếp sư

15.

phạm trong hoạt động của giáo viên mầm non.
Trung tâm hỗ trợ và phát triển cộng đồng Thiện Chí - dự án phát

16.

triển cộng đồng, Giáo dục kĩ năng sống.
ThS. Nguyễn Thị Phương Nga, Giáo trình phương pháp phát triển

3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

ngôn ngữ cho trẻ Mầm Non.

17.

ThS Mai Nguyệt Nga (Chủ biên), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non,
NXBGD2007.

18.
19.
20.

Bộ GD và ĐT, Chương trình giáo dục mầm non,
Trường CĐSPTW, Chương trình giáo dục mầm non của Singapore (tài liệu
dịch)
A.M.Bacđian, Trò chơi trong cuộc sống của trẻ em, TLTK TP.HCM 2002.

2
2



×