Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tieu luan tp duong kach menh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.58 KB, 36 trang )

1


MỞ ĐẦU
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nền độc lập của dân tộc ta bị xâm
phạm, quyền lợi sống còn của đại bộ phận nhân dân ta bị chà đạp. Chính vì thế mà
hai mâu thuẫn cơ bản nhất: mâu thuẫn giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam
với bên kia là thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động, chủ
yếu là nông dân với giai cấp phong kiến địa chủ ngày càng trở nên gay gắt.
Trong bối cảnh đó, nảy sinh một yêu cầu cấp bách: để giải quyết hai mâu
thuẫn trên, cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường nào? Phải chọn con đường
nào để cứu nước, giành lại độc lập tự do đích thực. trước nhu cầu thực tế đó, các
phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ khắp nơi: từ phong trào Cần Vương, Văn
Thân đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và rất nhiều các
cuộc đấu tranh quần chúng dấy lên hết đợt này đến đợt khác nhưng tất cả đều thất bại.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, dân ta bị hai tầng áp bức
nặng nề bởi thực dân và phong kiến, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã sớm
bộc lộ tinh thần yêu nước, thương dân, nuôi chí cứu giúp nhân dân thoát cảnh lầm
than.Suốt một chặng đường dài tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc,
trải qua những tìm tòi, thử nghiệm trên xứ sở của những nền văn minh phương Tây;
đắm mình trong các hoạt động của phong trào yêu nước, phong trào cộng sản và
công nhân Quốc tế, đến với quê hương của Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn
Ái Quốc đã nhận ra, cách mạng vô sản là con đường đúng đắn nhất để giải phóng
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Từ đây dân tộc Việt Nam như tìm được chân lý cho vận mệnh của mình, đấy
cũng là lý do mà em chon tiểu luận “Con đường cách mệnh trong tác phẩm
đường kach mệnh” của Nguyễn Ái Quốc, để có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc
hơn về vấn đề này.
2



NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Mục đích
Phân tích làm rõ luận điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mệnh và con đường cách mệnh;
Những nội dung cơ bản về con đường cách mệnh mà Người đề cập đến trong
tác phẩm;
Nêu lên được thực trạng và các giải pháp cơ bản về việc sử dụng con đường
cách mạng mà Đảng ta đã lựa chọn.
2. Nhiệm vụ
Làm rõ việc vận dụng con đường cách mệnh trong vấn đề thực tiễn.
Phân tích khả năng sáng tạo của Đảng ta trong việc áp dụng vào cách mạng
Việt Nam.
3. Đối tượng
Quan điểm của Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cách mạng vô
sản đối với cách mạng nước ta ở tác phẩm: Đường cách mệnh
4. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi tiểu luận tác phẩm kinh điển tôi xin chọn đề tài về con đường
cách mệnh để nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt bài tiểu luận phải sử dụng đến nhiều phương pháp như:
Phương pháp duy vật biện chứng; Phương pháp logic; lịch sử; trừu tượng.
6. Ý nghĩa tiểu luận

3


Với việc nghiên cứu tiểu luận sẽ giúp em hiểu rõ và sâu hơn việc lựa chọn

con đường cách mệnh của Hồ Chí Minh. Thông qua đó, sẽ thấy được sự tài tình và
khéo léo của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc sử dụng con đường cách mệnh
này để đưa đất nước ta có được như ngày hôm nay.
II. QUAN ĐIỂM VỀ ĐƯỜNG KÁCH MỆNH CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
a. Thế giới
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải phóng
con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi đường, phong trào đấu
tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự
ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội - dân chủ Nga được thành lập
(1903); Đảng Cộng sản Pháp được thành lập (1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra
đời (1921.
Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng Mười Nga là bằng chứng khẳng
định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng báo hiệu thời kỳ
đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp vô sản thế giới bắt đầu.
Năm 1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào cộng sản và công
nhân Quốc tế được thành lập. Quốc tế III đã qquan tâm đến cách mạng thuộc địa.
Bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Đối
với Nguyễn Ái Quốc, Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin là bước tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư tưởng
của Người. Người quyết định chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng cứu
nước. Như vậy, thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng chính trị và cả tổ chức
4


cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng dẫn dắt phong

trào cách mạng các dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của cách mạng vô
sản.
b. Việt Nam
Đặc điểm nổi bật của Việt
Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX là một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Xã hội Việt Nam lúc đó
có hai mâu thuẫn cơ bản là: giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lược và giữa giai cấp
phong kiến Việt Nam với toàn thể
nhân dân (chủ yếu là nông dân).
Yêu cầu của lịch sử lúc này là phải
giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó để
đưa dân tộc tiến lên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn trẻ
Dưới ách thống trị của thực dân - phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản, nhưng rút
cuộc, đều không giải quyết nổi nhiệm vụ mà lịch sử đang đặt ra, nhân dân đang
mong đợi là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân phong kiến.
Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng dân tộc
ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị khác nhau,
như: Tâm tâm xã ( l923 - 1925), Hội phục Việt (1925), Đảng thanh niên (1926),
Thanh niên cao vọng Đảng (1926 - 1929), Tân Việt cách mạng Đảng (1926 - 1930),
5


Việt Nam Quốc dân Đảng (1927 - 1980). Song, các tổ chức yêu nước này thiếu
đường lối chính trị đúng đắn, thiếu tổ chức chặt chẽ như một đảng cách mạng khoa

học, cho nên, họ không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử.
Thực tiễn lịch sử đang đòi hỏi phải có một tổ chức mới, được xây dựng trên
cơ sở hệ tư tưởng cách mạng và khoa học, có đường lối chính trị đúng đắn, có tổ
chức chặt chẽ thì mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công.
2. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Đường Kách mệnh tập
hợp những bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã giảng tại lớp Huấn
luyện chính trị trong những
năm 1925-1927, do Bộ tuyên
truyền của Hội liên hiệp các
dân tộc bị áp bức Á Đông ấn
hành và bí mật được chuyển
về trong nước theo nhiều ngả
đường khác nhau (19271930).
Bìa tác phẩm “Đường kach mệnh”
Trong bối cảnh Việt Nam đang khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng, về
phương pháp cách mạng và đặc biệt hơn là sự khủng hoảng về tổ chức cách mạng,
hơn nữa, trong khi phong trào cách mạng của các dân tộc thuộc địa phát triển,
hướng theo khẩu hiệu của Lênin vĩ đại: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại!”, và ở Việt Nam với chính sách đàn áp hà khắc của thực dân
Pháp: dư luận bị bưng bít thông tin, nhân dân bị đầu độc bởi văn hoá thực dân, thì
những nội dung qquan trọng của Đường Kách mệnh góp phần trang bị cho nhân
6


dân tư tưởng mới của thời đại, đưa thế giới hội nhập với Việt Nam và đưa cách
mạng Việt Nam hoà nhập cùng dòng chảy chung của cách mạng thế giới, càng trở
nên có ý nghĩa lớn lao.

Tư tưởng cơ bản của tác phẩm là: “Muốn sống thì phải cách mệnh”. “Hơn
hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu
lấy giống nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết chiến đấu cho nền độc lập
tự do của dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói, “Không có gì quý hơn độc
lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con
đường cụ thể để giành thắng lợi.
Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì
hạnh phúc của nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi ách
áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế Quốc.
Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo
con đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo của cách
mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích của dân tộc
với lợi ích của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện nhiệm vụ giải
phóng dân tộc đều phải giải quyết trên cơ sở qquan điểm cách mạng vô sản để đưa
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng giải
phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. tác giả đưa dẫn
chứng các cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng VN
phải giành thắng lợi triệt để: “Muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng
(công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh; phải
thống nhất. Nói tóm lại là phải làm theo Mã Khắc Tư và Lê nin”. Cách mạng phải
7


độc lập và sáng tạo, tự lực, tự cường, không ỷ lại ngồi chờ; phải tích cực tấn công,
chủ động tiến công, quyết giành thắng lợi. Biết tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng
thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp cho cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế

giới đạp đổ chủ nghĩa đế Quốc tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mệnh
a. Khái niệm
*Cách mệnh là gì:
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới,
phá cái xấu đổi ra cái tốt. Thí dụ: Ông gali lê (1633) là nhà khoa học cách mệnh.
Ngày xưa ai cũng tưởng rằng giời tròn, đất vuông, nhân kinh nghiệm và trắc đặc,
ông ấy mới quyết rằng trái đất tròn và chạy vòng quanh mặt trời.
Ông S Teephen xông (1800) là cơ khí cách mệnh. Ngày xưa chỉ đi bộ và đi
xe kéo ngựa; ông ấy mới làm ra xe lửa…”
* Cách mạng vô sản:
Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội chính trị mà theo đó giai
cấp công nhân tiến hành lật đổ tư bản. Cách mạng vô sản thường được những
người theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ủng hộ. Chủ nghĩa Marx cho
rằng là bước đầu tiên tiến đến loại bỏ ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư
bản. Lenin cho rằng để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, đảm bảo cho các
dân tộc giành lại được độc lập, thì phải thực hiện sự liên minh, thống nhất của giai
cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Ông khẳng
định rằng, không có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất
của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các
nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể chiến thắng hoàn toàn chủ
nghĩa tư bản được.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
8


Như vậy, Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản
chủ nghĩa, trong cuộc cách mạng đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và
cùng với uần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh
*giải phóng dân tộc: Cách mạng giải phóng dân tộc là cuộc cách mạng
nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghãi thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập
chính quyền nhân dân.
*Các loại hình cách mệnh: Có ba loại hình
Tư bản cách mệnh như cách mệnh Pháp năm 1897, Mỹ năm 1776 và Nhật
năm 1864. Là cách mệnh mà địa chủ hết sức ngăn trở tư bản mới, tư bản mới hết
sức phá địa chủ, hai bên xung đột nhau làm tư bản cách mệnh. Tư bản ở thành phố
là tư bản mới, nó có lò máy và làm ra hàng hóa. Có nhiều máy thì muốn có nhiều
thợ làm cho nó. Tư bản ở nông thôn là địa chủ, nó muốn giữ những chế độ phong
kiến, thô địa nhân dân; ở chổ nào chủ quyềnđều về tay bọn quyềnúy ở đấy cả; nó
đối với nhân dân coi như trâu, nó bắt ở yên một chỗ để cày ruộng cho nó, đối với
người buôn thì hàng hóa nó muốn lấy bao nhiêu thì lấy thuế bao nhiêu thì lấy… do
mâu thuẫn về quyềnlợi nên tư bản mới và tư bản nông thôn chống đối nhau kịch
liệt, người dân chịu khổ.
Dân tộc cách mệnh: Italia đuổi cường quyền Áo năm 1859. Theo như đường
cách mệnh thì “nói tóm lại bọn cường quyền này bắt dân kia phải làm nô lệ, như
Pháp với An Nam. Đến khi dân nô lệ ấy không chịu nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết
lại, biết rằng thà chết làm tự do còn hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh
đuổi tụi áp bức mình đi; ấy là dân tộc cách mệnh”.
Giai cấp cách mệnh như công nông Nga đuổi tư bản và giành lấy chính
quyền năm 1917. Tức là tư bản không làm mà hưởng lợi, không bao giờ đụng tay
làm bất cứ việc gì mà lại được ăn sung mặc sướng. trong khi đó, công và nông làm
việc nhọc nhằn mà không được hưởng , làm ngày 11 tiếng mà chỉ có ba hào, ốm
9


không có tiền chữa bệnh, chết không còn hòm, mặc không đủ mặc. cuối cùng công
nông không chịu nổi, đoàn kết nhau lại đánh đuổi tư bản đi.
b. Nội dung quan điểm con đường cách mạng của Việt Nam

Nguyễn Ái Quốc
giải thích nguyên nhân
sinh ra ba loại cách
mệnh. Từ phân tích
mâu thuẫn dân tộc,
mâu thuẫn giai cấp,
Người đã xác định tính
chất cách mệnh. Dân
tốc cách mệnh là dân
tộc nô lệ đồng tâm hiệp
lực đánh đuổi tụi áp
bức mình đi để giành
độc lập tụ do. Giai cấp

Ánh sáng mang tên Đường kach mệnh

cách mệnh là giai cấp bị áp bức cách mệnh đẻ đạp đổ giai cấp đi áp bức mình.
Về dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, tác giả đều lấy ví dụ VN. Khi
kết luận tác giả cũng nói đến sự cần thiết phải tiến hành dân tộc cách mệnh và giai
cấp cách mệnh ở VN. Cách mệnh ở VN phải tiến hành giải phóng dân tộc để tiến
lên giải phóng giai cấp. VN phải làm cả dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh.
Từ phân tích kỹ cách mạng tư sản Pháp 1789, Cách mạng tư sản Mỹ 1776, Cách
mạng Tháng Mười Nga 1917 và chỉ ra kinh nghiệm lịch sử của các cuộc cách mạng
này: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì áp bực thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông
10


Pháp hẵng còn mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng bị áp. Cách mệnh

An Nam nên nhớ những điều ấy”. “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là
đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc, tự do, bình đẳng thật”. từ lịch sử và thực tiễn, tác giả đẫ định hướng cho cách
mạng VN là đi theo con đường cách mạng tháng Mười Nga “ theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lê nin”.
Tác giả cũng xác định rõ bạn và thù của cách mạng VN. Đế Quốc Pháp đã
chà đạp lên nền độc lập của dân tộc và cũng là kẻ thù của giai cấp. Tác giả phân
biệt rạch ròi giữa đế Quốc Pháp và nhân dân Pháp trước hết là công nông Pháp. Từ
đó, mối quan hệ mật thiệt giữa cách mạng giải phóng dân tộc VN với giai cấp cách
mệnh Pháp nói riêng và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách
mạng vô sản chính Quốc nói chung.
Còn giai cấp phong kiến địa chủ, tác giả có phân loại: điền chủ nhỏ là bầu
bạn cách mệnh công nông, những đại địa chủ thì chớ có cho họ vào hội của dân
cày. Việc xác định đúng, chính xác kẻ thù cơ bản là chủ nghĩa đế Quốc Pháp có ý
nghĩa to lớn trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, trong việc tập
hợp lực lượng, phân hóa, cô lập cao độ kẻ thù, nhằm tăng sức mạnh cho cách mạng.
đây là tầm tư duy của thiên tài rất biện chứng, cách mạng và khoa học vượt lên tầm
tư duy đương thời của nhiều người cho rằng, đã địa chủ tất nhiên sẽ là kẻ thù của
cách mạng, là đối tượng đứng về phía đế Quốc.
Người viết: chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
cách mạng thế giới. Về sau này, Người kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, và cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành
thắng lợi hoàn toàn..

11


Có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là

điểm khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các con
đường cứu nước của các sĩ phu yêu nước trước đó. Đây là luận điểm trung tâm,
xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng ta và dân tộc
ta vẫn kiên định con đường cách mạng với mục tiêu mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở VN đã có sự thống nhất về tư tưởng chính
trị và tổ chức. đó là điều kiện trực tiếp để giữ vững sự thống nhất trong Đảng ngay
từ khi mới thành lập cũng như sau này. Tác phẩm Đường cách mệnh là một kho
tàng tri thức lý luận cách mạng VN, là sự thể hiện tư tưởng cơ bản của lãnh tụ
HCM. Giá trị của tác phẩm càng được khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn Quốc
lần thứ VII của Đảng cộng sản VN tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin
và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG CON ĐƯỜNG
KÁCH MỆNH VÀO GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT NAM.
I. CON ĐƯỜNG CÁCH MỆNH
1. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô
sản, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới sự thống trị tàn bạo của thực dân
phương Tây, khát vọng giải phóng khỏi áp bức, bóc lột dân tộc và con người Việt
Nam cực kỳ mạnh mẽ, đã làm nổ ra hàng loạt cuộc khởi nghĩa và thúc đẩy nhiều
nhà cách mạng Việt Nam tìm tòi con đường cứu nước cứu dân.
Tuy nhiên, con đường mà các nhà cách mạng tiền bối như Phan Chu Trinh,
Phan Bội Châu…đã làm là mới với lịch sử Việt Nam, với dân tộc ta, nhưng đã lỗi
thời trong sự phát triển của nhân loại. Các cuộc cách mạng có giá trị lịch sử to lớn
nhưng không tương thích với giá trị văn hóa trquyềnthống của Việt Nam về dân tộc
và con người, đã bị chính những giá trị trquyềnthống này vượt qua. Đó là sự
“không đến nơi”, như Hồ Chí Minh sau này đã viết về cách mạng Mỹ, Anh, Pháp –
12


các cuộc cách mạng tư sản điển hình nhất lúc đó. Sự không tương thích về các giá

trị văn hóa là điều giải thích căn cốt nhất cho việc khó thâm nhập và sự thất bại của
con đường cách mạng tư sản ở Việt Nam đầu thế kỷ. Giá trị lớn nhất có thể kể tới
của các cuộc cách mạng tư sản khi vào Việt Nam là nó cũng tạo ra một phong trào

13


dân tộc bùng phát, nuôi dưỡng liên tục ngọn lửa cách mạng cứu nước ở nước ta, tạo
cơ sở cho việc thâm nhập của con đường cách mạng – với những giá trị mới –
tương thích với nhau.
Không thu nhận học thuyết và mô hình cách mạng tư sản, không đi theo con
đường của Quốc tế hai, nhưng Hồ Chí Minh lại nhanh chóng tán thành Quốc tế ba,
tiếp nhận con đường Cách mạng Tháng Mười, con đường cách mạng vô sản vì giá
trị thực tiễn của cuộc cách mạng này.
Sự lựa chọn con đường cách mạng của Hồ Chí Minh chính là sự lựa chọn
của chính văn hóa trquyềnthống Việt Nam, là sự tương thích giữa giá trị văn hóa
14


dân tộc với các giá trị mới của nhân loại mà cuộc cách mạng vô sản theo con đường
của Cách mạng Tháng Mười đem lại về giải phóng dân tộc và giải phóng con
người, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam và xu thế phát
triển của thời đại. Sự nhìn nhận của Hồ Chí Minh về giá trị của Cách mạng Tháng
Mười như đã trình bày trên đây và sự lựa chọn của Người dựa trên nền tảng văn
hóa Việt Nam, nhu cầu thực tiễn của nhân dân Việt Nam theo thời đại mới được
vạch ra sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười làm cho cách mạng Việt Nam có
đủ yếu tố thiên thời – địa lợi – nhân hòa.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của
đảng của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên
tắc đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin: Trước

hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chung, ngoài
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ
nghĩa Lênin. Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công
nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin,
được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các bậc tiền bối cách mạng bước đầu cũng đã nhận thức được tầm
quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Cụ Phan Chu Trinh cũng từng
nói: muốn độc lập tự do, phải có đoàn thể. Phan Bội Châu thì đã tổ chức ra
Đảng Việt Nam Quang Phục Hội, nhưng tất mọi việc đều không thành.

15


2.Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân
trên cơ sở liên minh công – nông.
Trong phạm vi của
cách mạng giải phóng dân
tộc mà đối tượng cần đánh
đổ trước hết là bọn đế
Quốc và phong kiến tay
sai nhằm giành lại độc lập
dân tộc và dân chủ cho
nhân dân. Hồ Chí Minh
khẳng định muốn làm

được công việc khó này
thì phải làm cho quần
chúng nhân dân giác ngộ,
phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho nhân dân hiểu, phải đoàn kết dân, phải tổ
chức dân chúng lại.
Người nhấn mạnh vai trò của tổ chức cách mạng, phải có tổ chức vững bền
thì cách mạng mới thành công. Đồng thời đưa ra các tổ chức quần chúng như
tổ chức công hội, tổ chức nông hội, tổ chức dân cày, thanh niên, phụ nữ, Quốc
tế đỏ. Người chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam
mất nước, trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh
của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng
chứ không phải việc một hai người. Vì vậy, phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi
đó, không được quên cái cốt lõi của nó là công - nông. Phải nhớ: công - nông
là người chủ cách mệnh. Công, nông là gốc cách mệnh.
16


Trong Sách lược vắn tắt, Người viết: Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên , Tân việt , để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ
mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ
phận nào phản cách mạng thì phải đánh đổ.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính Quốc.
Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân Quốc tế trước khi nổ ra
cách mạng tháng Mười chưa đề cập đến vai trò, vị trí của cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa. Ngay bản thân C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin vẫn chưa
có điều kiện để luận bàn về vấn đề qquan trọng này, các ông chỉ tập trung,

nhấn mạnh đến vấn đề giai cấp. Các nhà cách mạng hoạt động trong phong trào
cộng sản và công nhân Quốc tế giai đoạn này luôn luôn cho rằng thắng lợi của
cách mạng ở các nước thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng
vô sản ở chính Quốc. Khi Quốc tế cộng sản được thành lập (1919), trong
Tuyên ngôn của Quốc tế III ghi rõ: “Công nhân và nông dân không những ở An
Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập
khi mà công nhân các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiit Gioócgiơ và
Clêmăngxô,giành chính quyền nhà nước về tay mình”. quan điểm này tiếp tục tồn
tại và ảnh hưởng kéo dài đến Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928).
Với chủ trương đó, Quốc tế cộng sản đã không thể phát huy được phong
trào đấu tranh cách mạng ở các nước tư bản nói chung và phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói riêng. Không tán thành với chủ
trương đó, tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (6/1924), Nguyễn Ái Quốc đã trình bày
quan điểm của mình cho rằng hình như những người trong Quốc tế Cộng sản
chưa thấm nhuần tư tưởng cho rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc
biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt
17


với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa nọc độc và sức sống của bọn rắn
độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là chính Quốc.
Trong khi đó, nhân dân thuộc địa luôn chứa đựng tinh thần yêu nước, căm
thù bọn xâm lược và sẽ vùng dậy khi có thời cơ.Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế Quốc. Chúng vừa tranh giành nhau
trong việc xâu xé thuộc địa, vừa liên kết với nhau trong việc đàn áp phong trào đấu
tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa.
Trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính Quốc và
nhân dân các dân tộc thuộc địa có chung một kẻ thù. Nhận thức được điều đó, từ
đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Người cho rằng: chủ nghĩa đế Quốc là một con
đỉa có hai vòi, một vòi bám vào chính Quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn

đánh bại chủ nghĩa đế Quốc phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi, tức là phải kết
hợp cách mạng vô sản ở chính Quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như là "một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản", phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản. Mặc dù trong
phong trào cộng sản Quốc tế đã từng tồn tại qquan điểm xem thắng lợi của cách
mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi vô sản ở chính Quốc, song do
nhận thức và vận dụng công thức của Mác: Sự giải phóng của giai cấp công nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân, do nhận thức được thuộc địa là
một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế Quốc, do đánh giá đúng sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người cho rằng:
cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
Quốc mà còn có thể giành thắng lợi trước, và trong khi thủ tiêu một trong những
điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế Quốc, họ có thể giúp đỡ
những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Đây là một qquan điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống
hiến rất qquan trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được phong trào cách
18


mạng giải phóng dân tộc thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của
nhân dân.
Theo học thuyết Mác-Lênin, có nhiều phương thức giành chính quyền
cách mạng từ giai cấp thống trị, tuy nhiên kẻ thù của cách mạng không bao giờ trao
chính quyền cho nhân dân một cách tự nguyện, tự giác. Vì vậy, cách mạng muốn
thắng lợi phải sử dụng bạo lực của quần chúng nhân dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã chứng minh sự
sai lầm của các hình thức đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng phong kiến hoặc
dân chủ tư sản mặc dù những phong trào này đều là yêu nước. Những phương

pháp, giải pháp đấu tranh giành độc lập mang tính ảo tưởng vì bản chất của thực
dân, đế Quốc là xâm chiếm thuộc địa, là nô dịch và lợi nhuận nên chúng không dễ
dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa của chúng.
Khắc phục những hạn chế mang tính lịch sử đó, Hồ Chí Minh cho
rằng không thể giành chính quyền theo khuynh hướng phong kiến hay dân chủ tư
sản. Đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ Người đã nhận
định về khả năng của một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Hồ
Chí Minh điều kiện để cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi phải:
Một là, cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có tính chất của một cuộc khởi
nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn phải được chuẩn bị trong
quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng ở châu Âu.
Hai là, phải được nước Nga ủng hộ.
Ba là, phải trùng hợp với cách mạng vô sản Pháp.
Bốn là, phải gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản thế giới.
Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh chứa đựng những nét
độc đáo, đặc sắc, phản ảnh đúng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của cách mạng Việt
19


Nam. Tư tưởng đó được thể hiện trong việc kết hợp xây dựng lực lượng chính trị
của quần chúng làm điểm tựa cho việc phát triển lực lượng vũ trang, gắn với hai
hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đi từ thấp đến cao, từ
nhỏ đến lớn, phù hợp với từng nơi, từng thời kỳ cụ thể.
Đặc biệt, trong thời đại cách mạng vô sản, Người cho rằng cuộc vũ trang
khởi nghĩa đó cần thiết phải có sự liên kết, ủng hộ của cách mạng vô sản thế giới.
Tiếp thu học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, đồng thời chỉ
đạo thực hiện linh hoạt, hiệu quả quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc phải
được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng, kết hợp với khởi nghĩa vũ
trang để xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực, kết hợp lực lượng

chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân dân là một quan điểm sáng
tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Người cũng đã cùng với
Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về chiến lượcvà sách lược, dẫn đến
thắng lợi lịch sử của cách mạng Tháng Tám.
II. ÁP DỤNG CON ĐƯỜNG CÁCH MỆNH VÀO GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC Ở NƯỚC TA.
1.THÀNH TỰU CÁCH MẠNG
Cùng với việc nhận thức được mối qquan hệ chặt chẽ giữa yêu cầu giải
phóng dân tộc và giải phóng con người là nhu cầu của thời đại, trên tinh thần của
học thuyết Mác – Lênin và giải quyết một cách triệt để nhu cầu ấy, lãnh tụ Hồ Chí
Minh đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, để giải phóng dân
tộc và giải phóng con người bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển
tiếp theo là xây dựng CNXH. Từ đó, Người nêu rõ việc phải tiến hành cả 2 cuộc
cách mệnh: Dân tộc cách mệnh và Thế giới cách mệnh, phải nhờ vào Đệ tam Quốc
tế và phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản – đội tiền phong của giai cấp
20


công nhân và dân tộc. Dân tộc cách mệnh là tập trung đánh đổ bọn đế Quốc thực
dân và bọn phong kiến tay sai, đánh đổ cường quyền, giành lại độc lập cho xứ sở và
Thế giới cách mệnh là giống như công nông Nga đánh đổ tư bản áp bức, “Đảng
Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh…, ra sức tổ chức kinh
tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng (thực hiện chủ nghĩa cộng sản trên
toàn thế giới- tác giả nhấn mạnh)”. Và luận cứ để mục tiêu: Độc lập dân tộc và
CNXH có thể trở thành hiện thực sinh động, chính là khẩu hiệu chiến lược của
QUỐC tế thứ III: “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”
và sự khẳng định: “Cách mệnh Nga đã thành công để làm nền cho cách mệnh thế
giới”


Ảnh chụp tác phẩm gốc “Đường kach mệnh”
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH – đích tất yếu của cách mạng Việt Nam
do Hồ Chí Minh trình bày trong tác phẩm Đường Kách mệnh đã được khẳng định
trong Văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt (Cương lĩnh chính trị đầu
tiên) của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Người soạn thảo và được thông qua ở Hội
21


nghị thành lập Đảng (đầu năm 1930, tại Cửu Long – Hương Cảng), đó là: “Làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (6). Đây
là kết quả của một tư duy sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại, và
đây chính là “cái cần thiết cho chúng ta” trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Độc lập, tự do và CNXH (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) –
mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam, là sự lựa chọn chính xác,
đúng đắn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ những năm 30 của
thế kỷ XX. Khẳng định và phấn đấu cho mục tiêu này, trong suốt 81 năm xây dựng
và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được
những thắng lợi rất đỗi tự hào.

Toàn cảnh ngày Quốc khánh 2/9/1945
Ngọn cờ độc lập, tự do và CNXH nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, thực sự là viên ngọc quý và sức hấp dẫn của nó đã góp phần khơi nguồn sức
22


mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp giải phóng. Lần đầu tiên trong lịch sử dân
tộc, Hồ Chí Minh là người đã chỉ rõ phải đánh đổ cả đế Quốc, phong kiến và tay sai
giành lại độc lập, tự do cho nhân dân, đồng thời phải xây dựng CNXH, thì nền độc
lập, tự do của dân tộc mới được đảm bảo và người dân mới được giải phóng thực
sự. Lịch sử luôn có những thăng trầm, luôn có khúc ngoặt, song sáng tạo của Hồ

Chí Minh trong việc lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH đã được thực hiện sinh động trong thực tiễn, đó chính là
thành công của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa thu năm 1945. Đó là sự
vận dụng tài tình, khéo léo của Chủ tịch HCM cũng như toàm thể dân tộc ta trước
tình hình thực tiễn của nước ta. Chớp lấy thời cơ và đứng lên làm cuộc tổng khởi
nghĩa để giành lấy độc lập, tự do về tay mình. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả
tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày
thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945, mặc dù cách mạng có những
lúc bị dìm trong máu lửa. Chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta bị xoá bỏ,
một kỷ nguyên mới mở ra, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

23


Khi Chính phủ của nước vừa mới thành lập, các thế lực thù địch đặc biệt là
Đế Quốc Pháp đã không can tâm. Chúng quyết đập tan chúng ta khi đang còn trong
trứng nước như cách mà các nước Châu Âu đã làm với nước Nga Xô Viết. đứng
trước tình huống ngàn cân treo sợi tóc như thế, nhưng Đảng và Hồ Chí Minh đã
kiên định con đường đã lựa chọn, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ II của
Đảng (2/1951), cuộc trường chinh chống thực dân Pháp kéo dài 9 năm (19461954), cuộc khánh chiến trường kỳ đã giành được thắng lợi. Buộc Thực dân Pháp
phải ngồi vào bàn đàm phán để ký Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc Việt Nam đã được
giải phóng, từng bước khôi phục, cải tạo kinh tế, xã hội, văn hóa, v.v.. và đi lên
CNXH làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, còn ở miền Nam, đồng bào ta
tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng, thực hiện thống nhất nước nhà.

24


Ngày trở về

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp
MỸ có ý nghĩ lịch sử vĩ đại. Đó là đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
Quốc Pháp được đế Quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, bảo vệ được chính quyền
cách mạng, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của các nước Đông Dương. Đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc và tăng cường
sức mạnh vật chất tinh thần cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi đoa còn có ý nghĩa
cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở ra sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân
Pháp...
Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) – Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc và
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã khẳng định: “Đưa miền
Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH” và sau đó nhiều Hội nghị
Trung ương và Bộ Chính trị đã có sự bổ sung, phát triển.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×