Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT CAO học THI hết môn CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.47 KB, 46 trang )

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT THI HẾT MÔN
Câu 1: Trình bày sự khác nhau giữa Triết học Phương Đông và
Triết học Phương Tây?
* Giống nhau: Đều là những tư tưởng, nội dung thể hiện quan
niệm của con người về tự nhiên, XH và con người. Đều được hình thành
và phát triển trên những điều kiện lịch sử tương ứng (nó quy định nội
dung triết học). Đều đề cập đến các lĩnh vực căn bản của triết học như
đều có những quan niệm về thế giới, con người, chính trị - xã hội…
* Khác nhau:
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của
xã hội và đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với
phương Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa lý, dân số, phương thức của
sản xuất khác nhau do đó triết học phương đông và triết học phương tây
có những điểm khác biệt nhau:
- Thứ nhất: TH phương tây là triết học hướng ngoại còn triết học
phương đông là TH hướng nội.
TH Phương đông do xuất phát từ “thiên nhân hợp nhất” nên lấy
con người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội.
Nhưng ngược lại triết học phương Tây lại đặt trọng tâm nghiên cứu vào
thế giới – tính chất hướng ngoại; còn vấn đề con người chỉ được nghiên
cứu để giải thích thế giới. Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể
luận của vũ trụ.
Ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng quan niệm khác
phương Tây:
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ
người với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của
con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của
giai cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải
phóng con người mà là để cai trị con người.
Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề
cao cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con


người về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội,
cái gốc để giải phóng con người.


- Thứ 2: TH phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên “thiên nhân hợp nhất” (con người
gắn bó với tự nhiên). Triết học phương Tây lại tách con người ra khỏi tự
nhiên, coi con người là chủ thể độc lập để nghiên cứu chinh phục tự
nhiên.
- Thứ 3: Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT ở phương đông
không rõ rang, các tư tưởng duy vật và duy tâm thường đan xen trong hệ
thống triết học còn phương tây cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT
diễn ra gay gắt suốt các giai đoạn lịch sử.
- Thứ 4, ở phương Đông triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần tuý
mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác đặc biệt là tôn
giáo; triết học và tôn giáo gắn bó chặt chẽ với nhau, triết học chịu sự ảnh
hưởng nhiều của tôn giáo. Còn triết học phương tây thì triết học và tôn
giáo tách biệt nhau.
- Thứ 5, Phương Đông triết học phát triển theo lối trầm tích còn
triết học phương tây phát triển theo hướng liên tục, luôn có những
trường phái mới trên cơ sở phê phán cái cũ, phủ định cái cũ.
Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái có từ thời cổ đại
vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công
nguyên đến thế kỷ 19).
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới
ra đời có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái
Talét, Hêraclit... đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở
Anh, Hà lan, triết học cổ điển Đức
- Thứ 6 khác nhau về hình thức phạm trù:

Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo
sắc, hình, vạn pháp,... hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để
nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con
người với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương
Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó hình
thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.


Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật
ngữ “biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy
cái đấu tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ
động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống
nhất, lấy cái tĩnh làm gốc.
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới
thì phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn
phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”.
- Thứ 7: Khác nhau về phép biện chứng: triết học phương đông là
nhịp nhàng, tuần hoàn đều còn triết học phương tây là đi lên không
ngừng theo hình xoắn ốc.
- Thứ 8: Triết học phương đông gắn với khoa học tự nhiên không
rõ rệt còn triết học phương tây gắn với khoa học tự nhiên rõ rệt hơn.
Ở phương Đông thì triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học
độc lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu
đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn
tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo
hội.
- Thứ 9, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:

Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm
biện chứng, siêu hình không rõ nét.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ
nét hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác
thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
- Thứ 10, Tuy cả triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng
về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải quyết những vấn đề
có liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về giải quyết mặt thứ hai
cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nên là tư duy tất định –
tư duy vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất
hiện.
Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết
học với những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại


hiu cỏch no cng c, nú gúi c c cỏi ngu nhiờn m ngy nay
khoa hc gi l khoa hc hn mang d bỏo.(...)



Cõu 2: Trỡnh by cuc u tranh gia CNDV v CNDT trong
cỏc giai on Trit hc trc Mỏc? (4 im) (Nu cõu hi trỡnh by
cuc u tranh gia CNDV v CNDT trong giai on trit hc Hy
Lp c i thỡ ch trỡnh by phn 1)
. Cn c vo vic gii quyt mt th nht vn c bn ca
trit hc ó chia trit hc thnh 2 trng phỏi:CNDV v CNDT. Trong
lch s trit hc luụn din ra cuc u tranh gia CNDV v CNDT
- CNDV: l nhng ngi cho rng vt cht gii t nhiờn l cỏi cú

trc v quyt nh ý thc con ngi; hc thuyờt ca h hp thnh cỏc
mụn phỏi khỏc nhau ca CNDV.
- CNDT: l nhng ngi cho rng ý thc, tinh thn cú trc gii t
nhiờn,hc thuyờt ca h hp thnh cỏc mụn phỏi khỏc nhau ca CNDT.
tỡm hiu cuc u tranh ca Ch Ngha Duy Vt v Ch
Ngha Duy Tõm chỳng ta cú th i qua mt s giai on v mt s nhõn
vt tiờu biu nhng thi k nht nh v cuc u tranh gia chỳng.
1. Cuc u tranh gia CNDV v CNDT trong giai on trit
hc Hy Lp c i:
Ch ngha duy vt gn vi b phn ch nụ quý tc cũn ch
ngha duy tõm gn vi ch nụ dõn ch
Triết gia tiêu biểu nh Talet, Anaximen, Pitago, Dờnon,
Socrate, ờmụcrit, Platon, Anatago. Am pê đốc lơ hay Ê pi crát .v.v...
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm
thi k ny là cuộc đấu tranh giữa trờng phái Duy Vật của ờmụcrit và
Duy Tâm của Platon là tiêu biểu và điển hình hơn cả.
ờmụcrit (460-370 TCN) là một trong những nhà Duy Vật lớn
của thời kỳ cổ đại chiếm vị trí nổi bật trong triết học Duy Vật Hy Lạp cổ
đại ông đã có quá trình tích luỹ kiến thức qua việc đi qua các nớc ở phơng đông, Babilon, là ngời am hiểu rất nhiều lĩnh vực. Platon là đại diện
cho trờng phái Duy tâm, ông là ngời đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn
chỉnh cảu Chủ Nghĩa Duy Tâm khách quan đối lập với thế giới quan Duy
Vật. Ông là ngời đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại Chủ Nghĩa


Duy Vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật
thời bấy giờ nh Hê ra crít hay ờmụcrit.
- V bn th lun
:+ ờmụcrit: ng trờn lp trng duy vt vụ thn, ụng cho rng
khi nguyờn ca th gii l nguyờn t, l dng vtcht nh nht, khụng
th phõn chia c na, nú l c s ca th gii, ca s vt hin tng.

Nguyờn t nykhụng mu, khụng mựi, khụng v, khụng núng, khụng
lnh, nú khụng khỏc nhau v cht, nú ch khỏc nhau v hỡnhdỏng, v cu
to, v t th sp xp v cỏc nguyờn t ny luụn luụn vn ng trong
chõn khụng. Cỏc s vt hin tng khỏc nhau l do s liờn kt gia cỏc
nguyờn t cú hỡnh dỏng khỏc nhau, t th khỏc nhau, cu to khỏc
nhau.Cỏc nguyờn t vn ng khụng ngng v chớnh s a dng ca cỏc
nguyờn t to nờn s a dng ca th gii svt v s hỡnh thnh ca v
tr+ i lp vi Democrit,
+Platon: ng trờn lp trng duy tõm, ụng khng nh rng bn
nguyờn ca th gii lth gii ý nim, th gii ý nim tn ti mt cỏch
chõn tht, vnh cu v bt bin. ễng chia th gii thnh hai b phn l
th gii ý nim v th gii vt cm tớnh. Th gii ý nim l th gii cú
trc v sinh ra th gii vt cmtớnh. Th gii vt cm tớnh l th gii
khụng chõn tht, khụng ỳng n v luụn luụn thay i, l th gii cú
sau vl cỏi búng ca th gii ý nim.
- V con ngi:
+ ờmụcrit bỏc b quan nim thn thỏnh sinh ra con ngi. ễng
cho rng con ngi xut hin trờn trỏi t l ktqu ca s tin húa t
nhiờn v linh hn c cu to t nguyờn t.
+ Platon thỡ cho rng con ngi gm th xỏc v linh hn tn ti
c lp vi nhau. Trong ú th xỏc c to thnht t, nc, la v
khụng khớ cũn linh hn do Thng to ra v nú l bt t, tn ti vnh
hng.
- V nhn thc lun:
+ ờmụcrit chia nhn thc thnh hai dng: nhn thc cm tớnh v
nhn thc lý tớnh. Nhn thc cm tớnh l dngnhn thc m ti, do giỏc
quan em li. Nhn thc lý tớnh l dng nhn thc thụng qua nhng
phỏn oỏn logic, ldng trớ tu. ễng ó thy c mi quan h gia nhn
thc cm tớnh v nhn thc lý tớnh v ụng ch ra phi bngnhn thc lý



tính thì con người mới phát hiện được nguyên tử tức là nguồn gốc của
thế giới.
+ Platon cho rằng nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính nên
ông cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng củalinh hồn về thế giới ý niệm
có trước vật chất. Ông cho rằng nhận thức cảm tính chỉ là sự nhận thức
cái bóng của ýniệm, chỉ cho ta những quan niệm, chứ không phải là tri
thức chân thực. Chỉ có nhận thức lý tính, tức nhận thứckhái niệm mới
đạt đến tri thức chân thực.
- Về chính trị - xã hội
+ Đêmôcrit đứng trong lập trường của phái chủ nô dan chủ, kịch
liệt chống lại phái chủ nô quý tộc. Ông ra sức bảo vệ và tuyên truyền
cho chế độ dân chủ của chủ nô trong đó thể hiện quyền lợi của mình gắn
liền với sự phát triển ngày càng một mạnh mẽ của thương mại và công
nghiệp. Ông đề cao, ca ngợi cổ vữ cho tình thân ái, tính ôn hoà lợi ích
chung và quyền lợi chung của công dân tự do. Theo ông “ cần phải ưa
thích cái nghèo trong một Nhà nước dân chủ hơn so với cái gọi là cuộc
sống hạnh phúc trong chế độ chuyên chế tựa như là tự do tốt hơn nô lệ”
(3). Đương nhiên là do xuất thân từ tầng lớp chủ nô dân chủ Đe mo-rít
chỉ đề cập đến nền dân chủ của chủ nô, còn bản thân nô lệ thì cũng như
các nhà tư tưởng khác, ông cho rằng phải biết tuân theo người chủ nô.
Ông đề cao Nhà nước, chính Nhà nước đóng vai trò duy trì trật tự
và điều hành xã hội. Theo Đe mo-crít cần phải trừng trị nghiêm khắc
những kẻ vi phạm pháp luật hay chuẩn mực đạo đức nào đó. Phương
châm tư tưởng của Đe mo-crít là thà sống nghèo khổ còn hơn là giàu có
nhưng mất tự do dân chủ. Mục tiêu của con người là sống hạnh phúc
nhưng hạnh phúc không đơn thuần chỉ là giàu có. Ông khẳng định hạnh
phúc là sự thanh thản trong tâm hồn và được tự do. Chỉ có người biết
bằng lòng với sự hưởng lạc vừa phải thì mới được hạnh phúc.
+ Còn Platon: ông đề cao vai trò của chế độ quý tộc đứng trên lập

trường của phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ dân chỉ tiến bộ của xã
hội. Ông cho rằng linh hồn gồm các bộ phận lý tính, ý chí và cảm tính
trong xã hội có các hạng người tương ứng với các bộ phận của linh hồn.
Lý tính là cơ sở của các đức tính cao cả chỉ có được ở những nhà triết
học, các nhà thông thái ; ý chí là cơ sở của đức tính can đảm. Nó thể
hiện ở trong những người lính, những chiến binh. Cảm tính là cơ sở của


các đức tính thận trọng. Đức tính này thường có ở những người dân tự
do, những người thợ thủ công. Platon đặc biệt miệt thị nô lệ. Theo ông
nô lệ không phải là người mà chỉ là động vật biết nói, không có đạo đức.
Platon chủ trương duy tri các hạng người trong xã hội, cũng có
nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Nhà nước ra đời là để
đáp ứng những nhu cầu đó. Theo Platon hình thức cộng hoà là “Nhà
nước lý tưởng”. Trong đó quyền thống trị tuyệt đối về tầng lớp chủ nô
quý tộc. Nhà nước, đó là hiện thân của cả ba đức tính đó là thông thái,
can đảm và thận trọng. Trong “Nhà nước lý tưởng”, ông chia xã hội ra
thành 3 đẳng cấp dựa vào đặc trưng đạo đức. Đẳng cấp thứ nhất là các
nhà triết học, các nhà thông thái, giữ vai trò lãnh đạo xã hội ; đẳng cấp
thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ “Nhà nước lý tưởng”; đẳng
cấp thứ ba là dân lao động tự do, thợ thủ công và những người tự do
khác làm ra sản phẩm nuôi sống Nhà nước.
Như vậy, chúng ta thấy ngay từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại
đã xảy ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ
Nghĩa Duy Tâm mà đại biểu tiêu biểu nhất là Đe mo-crít của phái và
Platon của phái duy tâm.
Có thể thấy rằng ngay từ thời cổ đại nhận thức của con người tuy
còn nhiều hạn chế song giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy
Tâm đã hình thành nên cuộc đấu tranh gay gắt không thể điều hoà được
về mọi mặt trong xã hội .

2. Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT thời kỳ trung đại
Chủ nghĩa kinh viện ra đời đã trở thành nét đặc trưng của triết học
Tây Âu thời trung cổ. Chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thức chiếm
độc quyền giảng dạy trong nhà trường. Triết học này khi ra đời là đã xác
định nhiệm vụ: “Đầy tớ của thần học và bảo vệ trật tự phong kiến”. Vấn
đề này được các nhà kinh viện quan tâm nhất đó là mối quan hệ giữa
“cái chung” và “cái riêng”, cái nào có trước cái nào có sau. Cuộc đấu
tranh giữa các quan điểm khác nhau kéo dài vào thế kỷ và phân chia
thành hai phái “phái duy danh” và “phái cuy thực”. Đây là cuộc đấu
tranh xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học Tây Âu thời trung cổ.
Phái duy thực cho rằng cái chung cái phổ biến các khái niệm
chung là tồn tại thực là cái có trước. Nó là một thực thể tinh thần không
phụ thuộc vào sự vật cụ thể. Phái duy thực lấy triết học Platon làm cơ sở


lý luận và phái này về sau họ còn dựa vào học thuyết “ hình thức của
Đrít xtốt. Chẳng hạn con người nói chung là sự tồn tại ý niệm về con
người. Từ đó, nó quyết định sự tồn tại của con người đơn nhất.
Phái duy danh quan niệm rằng cái chung, khái niệm cái chung cái
phổ biến không tồn tại thực, không độc lập với con người. Nó chỉ là
những tên gọi đơn giản mà con ngưới sáng tạo ra. Không có “con người”
hay “cái nhà” nói chung mà chỉ có con người hay cái nhà tồn tại thực.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái trên là sự thể hiện hai khuynh
hướng đối lập nhau trong lịch sử triết học : Chủ Nghĩa Duy Tâm và Chủ
Nghĩa Duy Vật. ẩn dấu đằng sau cái vỏ thần học là sự tồn tại khách quan
mà con người có thể cảm nhận được, là biểu hiện của phái duy danh.
Trái lại, nhận thức, tư tưởng, khái niệm có trước sự vật là biểu hiện của
phái duy thực. Như vậy chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các nhà triết
học duy danh gần gũi với Chủ Nghĩa Duy Vật còn các nhà triết học duy
thực là biểu hiện của Chủ Nghĩa Duy Tâm. Như vậy cuộc đấu tranh giữa

chủ nghĩa duy thực với chủ nghĩa duy danh ở triết học Tây Âu thời trung
cổ thực chất là cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa
Duy Tâm. Mặc dù vậy trong thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Tâm thắng thế
nhờ sự ủng hộ của thiên chúa giáo và kinh viện .
Trong thời kỳ trung cổ triết học Tây Âu có rất nhiều những đại
biểu, đại diện cho cả hai phái duy danh và duy thực. Và sau đây là quan
điểm của một số đại biểu tiêu biểu nhất của cả hai phái.
- Tô Mát Đa Canh: Ông là đại biểu xuất sắc nhất của phái duy thực
trong thời kỳ triết học trung cổ Tây Âu. Học thuyết của ông được thiên
chúa giáo coi là triết học chính thức của giáo hội thiên chúa.
Tô Mát Đa Canh nghiên cứu nhiều lĩnh vực thần học, triết học,
pháp quyền... với 18 quyển sách trong tuyển tập của ông hợp thành bộ
bách khoa toàn thư về hệ thông tư tưởng thông trị thời trung cổ hưng
thịnh. Tô Mát Đa Canh nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và thần
học, giữa lý trí và niềm tin. Ông khẳng định rõ ràng nhưng lại không đối
lập nhau thần học và triết học. Ranh giới đó thể hiện ở chỗ nếu như đối
tượng nghiên cứu của triết học là chân lý của lý trí thì đối tượng nghiên
cứu của thần học là chân lý của niềm tin. Nhưng theo ông cả hai đều có
một đối tượng chung đó là thượng đế. Chúng không hề đối lập với nhau
nhưng cuối cùng Tô Mát Đa Canh lại hạ thấp triết học và ông nâng cao


vai trò và vị trí của thần học. Ông quan niệm rằng triết học chỉ là tôi tớ
phục vụ cho thần học mà thôi. Ông nói rằng “không phải mọi chân lý
của niềm tin tôn giáo đều có thể đạt được bằng sự chứng minh hợp lý”.
Chân lý tôn giáo không phải là điểm yếu mà triết học dễ thâm nhập vào
được bởi vì trí tuệ của con người là có hạn và thấp hơn sự anh minh của
thượng đế.
- Quan điểm duy tâm thần bí còn được thể hiện trong nghiên cứư
giới tự nhiên. Ông còn cho rằng toàn bộ giới tự nhiên cùng trật tự của nó

đều được quyết định bởi sự thông minh của thượng đế đều trải qua sự
hợp lý hoá của thượng đế bởi thượng đế là mục đích tối cao và là quy
luật vĩnh viễn đứng trên mọi cái và quyết định mọi cái.
- Khi giải quyết vấn đề bản chất của cái chung thì Tô Mát Đa Canh
theo chủ nghĩa duy thực ôn hoà (có sự dung hoà với chủ nghĩa duy
danh).
Về lý luận nhận thức: ông chịu ảnh hưởng của học thuyết hình
dạng của Arit xtốt. Theo Tô Mát Đa Canh mọi nhận thức đều diễn ra chủ
thể tiếp thu khách thể nhưng không phải mọi sự nhận thức của khách thể
đều được tiếp nhận mà chỉ tiếp nhận những hình ảnh của khách thể tức
là hình dạng của nó mà thôi bởi bản thân khách thể khi gia nhập vào tinh
thần của cái nhận thức (chủ thể) thì cái được nhận thức bị mất đi tính vật
chất của mình và chỉ tồn tại với tư cách là hình dạng tức là hình ảnh của
nhận thức.
- Về sự tiếp nhận xã hội Tô Mát Đa Canh ca ngợi chế độ bất bình
đẳng và trật tự đẳng cấp trong xã hội. Ông cho rằng cuộc sống trần thế
chỉ là tạm thời, là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai vĩnh viễn ở thế
giới bên kia. Ông là người theo chủ nghĩa quân chủ cho nên ông cho
rằng quốc vương không chỉ là người điều khiển mà còn là người sáng
tạo ra thế giới. Nhưng quốc vương cũng là người của đức chúa Giê-su,
thực hiện mọi yêu cầu của nhà thờ và trừng phạt một cách dã man những
người tà đạo bởi vì nhà thờ là tối cao. Đối lập với quan điểm duy thực
của Tô Mát Đa Canh là quan điểm duy danh luận của Đơn xcốt, đại biểu
xuất sắc của phái duy danh thời kỳ trung cổ.
Đơn xcốt sinh ra ở nước Anh. Ông là một nhà duy danh luận rất
nổi tiếng, ông sống ở thế kỷ XIII





Khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa thần học và triết học ông
cho rằng đối tượng của thần học là thượng đế còn đối tượng của triết học
là tồn tại khách quan. Ông đề cao vai trò lòng tin tôn giáo hơn so với lý
trí bởi vì lý trí chỉ nhận thức được tồn tại còn thượng đế là tối cao vô tận,
phi vật chất, là lòng tin không thể nhận thức được.
Xuất phát từ thế giới quan của những nhà duy danh luận, ông cho
rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của tư duy mà còn là cơ sở trong
bản thân sự vật. Cái chung tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất
vừa tồn tại sau sự vật bởi tính cách là khái niệm trừu tượng hoá trong tư
duy tách khỏi bản chất của sự vật.
Về lý luận nhận thức Đơn xcốt nhấn mạnh yếu tố tinh thần và cho
rằng, nó là hình thức của thân thể con người, gắn bó thân thể con người
mới sinh ra. Yếu tố tinh thần tuy có sức mạnh to lớn nhưng phụ thuộc
vào đối tượng nhận thức. Xuất phát từ yếu tố tinh thần và đối tượng
nhận thức mà tri thức con người hình thành. Ông cũng dề cập đến vai trò
của lý trí và ý chí. ý chí cao hơn lý trí và thống trị mọi dạng hoạt động
của con người. ở thượng đế ý chí trở thành tự do.
Khi giải quyết vấn đề cái chung thì Đơn xcốt cho rằng cái chung
không phải là sản phẩm của lý trí mà nó nằm ngay trong chính bản thân
các sự vật. Nó vừa tồn tại trong các sự vật như là bản chất của chúng lại
vừa tồn tại sau các sự vật. Với tư cách là những khái niệm được lý trí
con người trừu tượng hoá, khái quát hoá khỏi các sự vật riêng lẻ.
Như vậy trong học thuyết của mình Đơn xcốt đứng về phía thần
học và cho rằng triết học không xuất phát từ ý chí của thượng đế nên
triết học không thể chứng minh được bản chất của thượng đế, sự sáng
tạo ra thế giới. Mặc dù vẫy những cống hiến của Đơn xcốt đã đưa ông
lên vị trí là nhà duy danh luận nổi tiếng nhất thời trung cổ.
3. Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT thời kỳ cận đại
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm
thời lỳ này diễn ra gay gắt. ở thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Vật là thế giới

quan của giai cấp tư sản, giai cấp tiến bộ đang trong quá trình đấu tranh
để hình thành phương thức sản xuất của mình. Còn Chủ Nghĩa Duy Tâm
là thế giới quan của tôn giáo, giai cấp quý tộc, phong kiến, giai cấp lạc
hậu và phản động đang ra sức kéo dài cơn hấp hối của mình.


Để thấy rõ được sự đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ
Nghĩa Duy Tâm thời kỳ này chúng ta có thể tìm hiểu thông qua một số
triết gia tiêu biểu như Bru nô,Galiê, Bê cơn, Hôp pơ, Đê các tơ, Xpi nô
đa, Lốc cơ, Béc cơ li, Hium....
Brunô(1548-1600):
Ông là một đại diện xuất sắc của chủ nghĩa duy vật vô thần.
Phạm trù trung tâm của triết học Brunô là cái duy nhất(UNO) được
ông lấy từ phái Platon mới và diễn giải dưới ngôn ngữ tự nhiên thần luận
của mình. UNO chính là thượng đế tồn tại dưới dạng tự nhiên. Nó là một
thế giới độc lập không được tạo ra và cũng không bị tiêu diệt. Nó tồn tại
vĩnh viễn. Ông đồng nhất thượng đế với tự nhiên nhưng ông chỉ thừa
nhận thượng đế trên danh nghĩa và điều đó được thể hiện rõ khi ông
quan niệm cái duy nhất là giới tự nhiên thượng đế chứ không phải
người. Theo ông mọi sinh vật chỉ là một dạng biểu hiện của cái duy nhất.
Các sự vật biến đổi không ngừng, tức là có sinh ra tồn tại và mất đi
nhưng cái duy nhất lại là bất biến.
Trong triết học của Brunô có chứa nhiều yếu tố biện chứng của
thời cổ đại. Ông cho rằng UNO là sự thống nhất giữa các mặt đối lập
như cực đại, cực tiểu cái tối thiểu và cái tối đa, tính thống nhất và tính
nhiều vẻ, khả năng và hiện thực, cái yêu đi liền với cái ghét, thuốc chữa
bệnh đồng thời là cái giết người. Cái duy nhất là tất cả đồng thời cũng
không là gì cả, nó tồn tại trong mọi cái đồng thời cũng không ở đâu cả.
Tư tưởng biện chứng của Brunô đã vượt xa các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại. Vì ông đã dựa trên thành tựu của toán học và cơ học của thời

đại mình. Theo ông trong cái duy nhất vật chất và hình dạng không có “
vật chất đầu tiên” hay “hình dạng thuần túy” như quan niệm của Arit
xtốt được ông cho rằng vật chất phải là cái tích cực, cái cổ nhất là thực
tế của mọi vật còn hình dạng phải là hình dạng của vật chất.
Ông khẳng định tính thống nhất của thế giới và tính vô cùng, vô
tận của nó. Ông quan niệm rằng mọi sinh vật đều nằm trong vũ trụ và vũ
trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm
trong chúng ta hay ông còn khẳng định vũ trụ là một thể bao gồm vô vàn
các hành trình trong đó trái đất hay mặt trời thì cũng chỉ là một trong
những hành tinh ấy vì vậy không có hành tinh nào là trung tâm của vũ
trụ theo nghĩa tuyệt đối của nó cả.


Brunô còn xây dựng học thuyết đơn tử. Theo học thuyết này, tất cả
nói chung cả vũ trụ đều được cấu tạo từ các đơn tử.
Về nhận thức luận: Brunô cho rằng đối tượng của nhận thức là giới
tự nhiên và ông đánh giá thấp vai trò của nhận thức cảm tính. Theo ông
hạn chế lớn nhất của cảm tính là không thấy được cái vô cùng hay, vô
cùng không phải là đối tượng của cảm giác, ông đề cao vai trò của trí tuệ
con ngườivà chỉ thừa nhận một chân lý do triết học và khoa học đem lại.
Theo ông con đường nhận thức phải từ cảm giác đến lý trí và cuối cùng
là trí tuệ.
Qua những quan điểm của Brunô ta thấy rằng ông là một đại diện
tiêu biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật thời kỳ này chống lại Chủ Nghĩa Duy
Tâm. Ông đã không ngừng tuyên truyền các tư tưởng khoa học và Chủ
Nghĩa Duy Vật triết học và do hoảng sợ toà án giáo hội đã thiêu sống
ông. Đây là bằng chứng cho thấy cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa
Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thời kỳ này.
Phran xi Bê cơn(1561-1627) :
Ông là người dáng lập ra triết học Duy Vật Anh Bê cơn thừa nhận

sự tồn tại khách quan của vật chất. Bê cơn là người phê phán gay gắt chủ
nghĩa kinh viện, coi chủ nghĩa kinh viện chỉ là vô ích, chỉ là những lập
luận trừu tượng không có nội dung, khoa học mới sẽ đem lại sức mạnh
cho con người trong việc chinh phục thế giới tự nhiên. Để đạt được điều
đó nhận thức khoa học phải dựa trên các sự kiện và từ đó khái quát
thành những lý luận, phương pháp quy nạp dựa trên các quan sát, phân
tích, so sánh thực nghiệm là phương pháp chủ yếu để nhận thức chân lý.
Song để có được phương pháp trước hết phải loại bỏ những “nhầm lẫn”
cản trở côn đường nhận thức như “ nhầm lẫn của chúng tôi”, nhầm lẫn
của hang động.
Bê cơn là người đã đưa ra được các quan điểm duy vật. Ông quan
niệm rằng vật chất là tổng hợp của các hạt và cho rằng giới tự nhiên là
tổng hợp của các vật thể đa dạng về chất, cũng đa dạng và là thuộc tính
không tách rời của vật chất. Những tư tưởng Duy Vật của Bê cơn có ý
nghĩa chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo. Các Mác viết: “ ở Bê
cơn con người đầu tiên sáng tạo ra Chủ Nghĩa Duy Vật còn che dấu dưới
những hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt.


Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người trong vẻ lộng lẫy của cái cảm
tính nên thơ của nó”.(4)
Song Chủ Nghĩa Duy Vật của Bê cơn là siêu hình và không triệt
để. Ông là người quá nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp, đề cao phân
tích. Tuy chống lại chủ nghĩa kinh viện nhưng ông lại thừa nhận tồn tại
của thượng đế, thừa nhận lý luận về chân lý hai mặt.
Ông không giám công khai xung đột với tôn giáo. Đó chính là sự
thể hiện tính không triệt để của Chủ Nghĩa Duy Vật của ông. Mặc dù
triết học Duy Vật Bê cơn cũng giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của
giáo hội và tôn giáo, thể hiện sự đấu tranh mạnh mẽ của Duy Vật với
Duy Tâm.

Tô Mát Hốpxơ(1588-1679):
Hốp xơ là người tiếp tục phát triển tư tưởng Duy Vật trong triết
học của Bê cơn. Ông là nhà triết học nổi tiếng, là đại biểu xuất sắc của
Chủ Nghĩa Duy Vật Anh thế kỷ XVII. Hốp xơ là người đã hệ thống hoá
Chủ Nghĩa Duy Vật của Bê cơn và ông đã tiếp tục cuộc đấu tranh của Bê
cơn cho thế giới quan khoa học và Duy Vật. Hốp xơ đã tiến hành cuộc
đấu tranh rất gay gắt chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và thần học. Ông
cho rằng không có gì khác ngoài sợ hãi và ngu dốt sinh ra tôn giáo. Ông
chia triết học ra thành “ Triết học tự nhiên” và “Triết học thông thường”
ở mức độ nào đó ông đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng
của khoa học cụ thể. Tuy nhiên cách đặt vấn đề của Hốp xơ về đối tượng
và nhiệm vụ của triết học lại theo hướng tiến bộ nhằm chống lại Chủ
Nghĩa Duy Tâm. Hốp xơ kiên quyết chống lại chủ nghĩa kinh viện và
tôn giáo. Ông bác bỏ “chân lý hai mặt” của Bê cơn, ông phê phán học
thuyết đấu tranh của Đề các tơ về “ý niệm bẩm sinh” và phát triển cảm
giác luận Duy Vật trong lý luận nhận thức. Ông cho rằng cảm giác kinh
viện là ngu ngốc, của mọi tri thức song ông cũng không coi nhẹ vai trò
của lý tính. Hốp xơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng cơ sở của
nhận thức là tri giác, cảm tính nhưng do hạn chế về mặt lịch sử, Hốp xơ
vẫn chưa hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa cảm tính và lý tính.
Khi nêu ra quan điểm về con người và Nhà nước Hốp xơ cho rằng
con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Tính
tự nhiên làm cho con người đều giống nhau về thể xác và tinh thần. Khi
con người còn nằm trong trạng thái tự nhiên thì tính ích kỷ hung ác


chiếm vị trí thống trị. Để khắc phục trạng thái tự nhiên, con người đi tới
thoả thuận, ký kết khế ước xã hội và “trạng thái tự nhiên” chuyển sang
“trạng thái xã hội”. Như vậy, Nhà nước là do nhân dân lập ra chứ không
hề có nguồn gốc thần thánh.

Hốp xơ là một nhà triết học vô thần mọi lĩnh vực siêu nhiên đều bị
loại ra khỏi triết học của ông. Nhưng ông không triệt để. Ông quan niệm
con người và Nhà nước đều cần tôn giáo. Con người cần tôn giáo vì con
người cần có lòng tin, mà tôn giáo thì đưa lại niềm tin. Còn Nhà nước
tôn giáo làm cái “đầy trói buộc xã hội ”.
Rơ nê Đê Các tơ(1596-1660)
Nếu như Bê cơn và Hốp xơ chỉ ra phương pháp cơ bản của khoa
học là phương pháp thực nghiệm, kinh nghiệm về thế giới tự nhiên thì
ngược lại Đê các tơ lại đề cao vai trò của lý tính.
Triết học của Đê các tơ là triết học nhị nguyên luận điển hình vì
ông cho rằng có hai thực thể đầu tiên tồn tại độc lập với nhau. Thực thể
vật chất có quảng tính hình thành nên thế giới vật chất còn thực thể tinh
thần có tư duy tạo nên thế giới tinh thần. Như vậy học thuyết vật chất và
tinh thần của Đê các tơ cho thấy triết học của ông lẫn lộn giữa Chủ
Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Chủ Nghĩa Duy Vật của ông thể hiện qua học thuyết tự nhiên. Ông
coi vật chất là một thực thể duy nhất là cơ sở duy nhất của tồn tại và
nhận thức. Cũng như Bê cơn, Đê các tơ đề cao vai trò của tri thức trong
việc thống trị giới tự nhiên trong sự hoàn thiện bản thân con người. Để
đạt được điều đó theo ông cần phải nghi ngờ tất cả mọi thứ. Ông nói:
“Tôi tư duy vậy tôi tồn tại” và ông cho đó là nguyên lý bất di bất dịch. ý
nghĩa của nguyên lý trên là ở chỗ nó rất tiến bộ, nó đề cao vai trò của lý
trí. Nó phủ nhận tất cả những gì mà ta mê tín. Nhưng nguyên lý ấy lại
biểu hiện tính chất duy tâm. Vì ông đã không nhận thấy rằng không thể
tìm thấy tiền đề xuất phát của nhận thứ ngay trong nhận thức mà phải
tìm từ bản thân thực tiễn xã hội.
Đê các tơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý
của ông ở một mức độ khá lớn có quan hệ với Chủ Nghĩa Duy Tâm bởi
vì theo ông lý trí của con người có “những tư tưởng bẩm sinh” độc lập
với kinh nghiệm.



Tuy nhiên qua học thuyết tự nhiên của ông cũng bộc lộ những tư
tưởng duy tâm: ông chưa nhận thấy được sự khác nhau về chất giữa thế
giới sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng
sự khác biệt giữa con người và động vật là ở chỗ. Con người không chỉ
là một cơ thể vật chất mà còn là một thực thể có lý trí. Nhưng lí trí theo
ông không phụ thuộc vào quá trình vật chất.
4. Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT thời kỳ cổ điển Đức
Điển hình cho Chủ Nghĩa Duy Vật trong thời kỳ này ở Đức đó là
Lút-vích Phơ-bách. Ông có công lao vĩ đại trong cuộc đấu tranh chống
lại thần học. Ông là người đã giáng một đòn mạnh mẽ vào triết học duy
tâm của Hê-ghen và Chủ Nghĩa Duy Tâm nói chung.
Phơ-bách chứng minh rằng thế giới là vật chất: giới tự nhiên không
do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào
bất cứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay
trong lòng của giới tự nhiên. Chống lại hệ thống duy tâm của triết học
Hê-ghen, hệ thống coi tự nhiên là “tồn tại khác” của tinh thần. Phơ-bách
cho rằng triết học mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp khoa
học với tự nhiên. Nguyên lý nhân bản của triết học Phơ-bách xoá bỏ sự
tách rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị
nguyên luận tạo ra. Mặt tích cực của nguyên lý nhân bản của Phơ-bách
là ở chỗ ông đấu tranh chống lại các quan niệm của tôn giáo và thần học
cho rằng thượng đế sáng tạo ra thế giới, côn người. Ông khẳng định rằng
con người sáng tạo ra thượng đế. Ông cho rằng con người luôn luôn
hướng tới cái chân, cái thiện. Nghĩa là hướng tới những gì đẹp nhất
trong hình tượng đẹp nhất về con người. Nhưng trên thực tế con người
không đạt được những mong muốn đó nên đã gửi gắm tất cả những ước
muốn của mình vào hình tượng thượng đế. Từ đó Phơ-bách đã phủ nhận
mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị thượng đế siêu nhiên đứng ngoài,

sáng tạo ra con người và chi phối cuộc sống con người.
Công lao to lớn của Phơ-bách là ở chỗ ông không chỉ đấu tranh
chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm mà ông còn đấu tranh chống lại Chủ
Nghĩa Duy Vật tầm thường. Ông có quan niệm rất đúng đắn là không thể
quy các hiện tượng tâm lý vào các quá trình lý hoá. Ông công nhận con
người có khả năng nhận thức được thế giới. Ông phê phán kịch liệt
những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong


khi phát triển lý luận nhận thức Duy Vật Phơ-bách đã biết dựa vào thực
tiễn nhưng ông chỉ mới hiểu được thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu
của con người về tinh thần về sinh lý mà chưa nhận thức nội dung cơ
bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người. Lao động sản xuất
vật chất, đấu tranh giai cấp trong xã hội của con người và hoạt động thực
tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
Như vậy, Phơ-bách đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu
tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn
giáo. Ông đã vạch rõ mối liên hệ giữa Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo.
Từ đó ông đã chỉ ra sự cần thiết phải đấu tranh loại bỏ tôn giáo hữu thần,
coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có công khôi phục
Chủ Nghĩa Duy Vật thế kỷ XVII, XVIII. Triết học của Phơ-bách có ý
nghĩa lịch sử lớn lao thông qua việc đấu tranh chống lại Chủ Nghĩa Duy
Tâm và tôn giáo. Vì vậy, triết học duy tâm của Phơ-bách là một trong
những nguồn gốc lý luận của triết học Mác.
Đối lập với quan điểm duy vật của Phơ-bách là quan điểm duy tâm
của Hê-ghen (1770-1831). Ông là nhà biện chứng đồng thời là nhà duy
tâm khách quan. Triết học của Hê-ghen mang đầy những mâu thuẫn.
Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý chưa đựng tư
tưởng thiên tài về sự phát triển thì triết học duy tâm của ông đã phủ nhận
tính khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát

triển tự nhiên xã hội. Ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải
là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới ”. Tính phong
phú và đa dạng của giới tự nhiên là kết quả của sự vận động sáng tạo của
ý niệm tuyệt đối. ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. Theo Lê-nin “ý niệm
tuyệt đối chỉ là một cách nói theo đường vòng, một cách khác nói về
thượng đế mà thôi”. Cho nên triết học Hê-ghen chẳng qua là sự biện hộ
cho tôn giáo.
Hê-ghen đã phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên
trình bày giới tự nhiên lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình nghĩa
là trong sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời trong hệ thống
triết học của mình Hê-ghen đã không chỉ trình bày các phạm trù như
chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà còn nói đến các quy luật như
“lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “phủ định của phủ định” và
quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả cái đó chỉ là quy luật vận động và phát


triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong tư tưởng triết học
duy tâm của Hê-ghen không phải ý thức tư tưởng phát triển phụ thuộc
vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Mà ngược lại tự nhiên và xã hội
phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. ý niệm tuyệt đối và
tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai, do ý niệm
tuyệt đối và tinh thần. Sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy ý niệm
tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản chất mình” và đó là giai
đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng được Hê-ghen gọi là “tinh thần tuyệt
đối”.
Trong các quan điểm xã hội Hê-ghen đã đứng trên lập trường của
chủ nghĩa Sô-vanh đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi
nước Đức là “ hiện thân của tinh thần vũ trụ mới”. Chế độ của Nhà nước
Phổ đương thời được ông xem như là đỉnh cao của sự phát triển Nhà
nước và pháp luật.

Tóm lại Hê-ghen là một nhà duy tâm khách quan đồng thời ông là
một nhà biện chứng. Đứng trên lập trường duy tâm ông đã đấu tranh
chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật. Là nhà duy tâm khách quan Hê-ghen
quan niệm “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất, tồn tại vĩnh viễn
không phụ thuộc vào con người, tạo ra thực tại khách quan. Giới tự
nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối”. Tính đa dạng của
thực tiễn được Hê-ghen xem như kết quả tác động và sáng tạo của ý
niệm tuyệt đối. Là một nhà biện chứng Hê-ghen đã có công nêu ra
những phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy tâm. Cho
nên Mác gọi đó là phép biện chứng lộn ngược đầu xuống đất, vì đó chỉ
là những quy luật của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc dù vậy ông chỉ
là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên lịch sử và tinh thần dưới dạng
một quá trình không ngừng vận động, biến đổi và phát triển, cố gắng
vạch ra những mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.
Các Mác và Enghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa
học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hê-ghen. Đồng thời
hai ông tiếp thu và đánh giá cao “hạt nhân hợp lí” trong phép biện chứng
của Hê-ghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng
của mình.


Câu 3: Trình bày thực chất, ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết
học biện chứng do Mác – Ăngghen thực hiện? (4 điểm)
Triết học Mác là sự kế thừa có phê phán và chọn lọc những tư
tưởng triết học của nhân loại trong quá trình lịch sử. Đồng thời sự ra đời
của triết học Mác-Lênin là một bước ngoặt vĩ đại trong sự phát triển tư
tưởng triết học của nhân loại. Triết học Mác có những cái mới về chất
so với các hệ thống triết học trước đó:
* Thực chất:
+ C. Mác và Ph. Ăngghen phát triển chủ nghĩa duy vật lên hình

thức cao của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứngvà phát triển phép biện
chứng lên hình thức cao của nó là phép biện chứng duy vật.
Trước Mác, chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính ngây thơ chất
phác.
Thời cận đại mang tính chất siêu hình, máy móc. Nó chưa đưa
được quan điểm pháttriển vào trong lý luận của nó; nó lấy quy luật cơ
học để giải thích sự vận động của thế giới, dùng quy luật cơ họcvà quy
luật sinh học để giải thích bản chất con người.
Còn phép biện chứng trước Mác mà đỉnh cao của nó là phép biện
chứng Hêghen thì lại là duy tâm, tức ông đã xuất phát từ quy luật vận
động, phát triển của một ý niệm tuyệtđối nào đó có trước thế giới để giải
thích tất cả những gì đang tồn tại. Cho nên phép biện chứng của Hêghen
là phép biện chứng duy tâm, ngược đầu và đóng khung trong một một
kết cấu tư biện, gượng gạo.Trên cơ sở kế thừa có phê phán và chon lọc
những thành tựu mà mà các nhà duy vật đã đạt được cũng như kế
thừahạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen, C. Mác và Ph.
Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biệnchứng và phép biện chứng
duy vật. Từ khi triết học Mác ra đời, chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng được kếthợp với nhau thành một thể thống nhất.
+ Việc sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện quan trọng
nhất của bước ngoặt cách mạng trong sự phát triển tư tưởng triết học
của nhân loại.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là khoa học nghiên cứu những quy luật
chung nhất, phổ biến nhất của xã hội loài người
Trước Mác, các nhà triết học nếu có duy vật thì là duy vật về tự
nhiên nhưng duy tâm về xã hội . Họ đều cho rằngtinh thần, tư tưởng (ý


niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, trời, thượng đế, hoặc ý thức chủ quan
của con người) làyếu tố quyết định trong lịch sử. Họ không thấy được

vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật chất, của đờisống vật chất.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng
vào nghiên cứu đời sống xã hội. Triết họcMác coi xã hội như là một cơ
thể sống, một cấu trúc phức tạp bao gồm những cá nhân, gia đình, giai
cấp, dân tộcvới vô số những mối quan hệ xã hội chằng chịt được hình
thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn của họ. Triết họcMác coi sản xuất
vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội; vạch ra những
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội không phụ thuộc ý muốn
chủ quan của con người; lấy cơ sở hạ tầng để giải thích kiến trúcthượng
tầng, lấy tồn tại xã hội để giải thích ý thức xã hội.Chính vì thế, triết học
Mác là chủ nghĩa duy vật cân đối, hoàn chỉnh và triệt để; nó bao quát cả
tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản
của triết học Mác-Lênin.
Triết học Mác - Lênin không chỉ giải thích thế giới mà vấn đề quan
trọng là cải tạo thế giới. Trước Mác, người ta chưa xác lập được mối
quan hệ gắn bó với nhau giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận nhiều khi chỉ
là sản phẩm của tưduy thuần túy, chỉ là kết quả của sự suy lý tư biện của
các nhà lý luận. Người ta chưa chỉ ra được một tiêu chuẩnkhách quan để
phân biệt cái đúng và cái sai trong lý luận. Lý luận càng cao siêu, càng
xa rời thực tế thì càng đượcđánh giá cao.Lần đầu tiên trong lịch sử triết
học, C. Mác và Ph. Ăngghen vạch ra một cách đầy đủ và chính xác vai
trò của hoạtđộng thực tiễn với tính cách là hoạt động vật chất cải tạo tự
nhiên và xã hội đối với quá trình nhận thức; khẳng định rằng thực tiễn là
cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức, tiêu chuẩn của chân lý. Sự
thống nhất giữa lý luậnvà thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết
học Mác-Lênin.
* Ý nghĩa:
- Nó đã làm thay đổi căn bản về nhiệm vụ, vai trò của triết học. cụ
thể: theo quan niệm của Mác – Ăngghen triết học là một khoa học cung

cấp thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo
thực tiễn phục vụ con người…trước đó nhiệm vụ của triết học cổ đại


giúp nhận thức thế giới và giải thích thế giới, triết học phục hưng phục
vụ tôn giáo….
- Triết học Mác-Lênin có sự thống nhất giữa tính cách mạng và
tính khoa học
.Với sự ra đời của triết học Mác-Lênin, giai cấp vô sản và nhân dân
lao động có một lý luận triết học khoa học đểgiải thích đúng đắn các
hiện tượng tự nhiên và xã hội. Triết học Mác-Lênin còn là vũ khí lý luận
cách mạng củagiai cấp vô sản và nhân dân lao động để đấu tranh xóa bỏ
áp bức, bất công, xây dựng xã hội không có giai cấp,không có người bóc
lột người. Những quan điểm cách mạng trong triết học Mác-Lênin, nhất
là quan điểm về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộngsản không phải là
những hoài bão chủ quan của loài người, mà trái lại chúng có cơ sở khoa
học vững chắc, dựa trên sự nghiên cứu nghiêm túc và lôgíc chặt chẽ của
triết học và các khoa học xã hội.
- Triết học Mác đã đem lại một quan niệm đúng đắn về đối tượng
của triết học.
Trước đây quan niệm coi triết học là khoa học bao trùm tất cả các
khoa học hay coi triết học chỉ còn “công cụ” của khoa học hoặc của hoạt
động thực tiễn.Triết học Mác đã đưa ra một quan niệm đúng đắn trong
việc xác định đối tượng và vai trò của triết học. Đối với triết học Mác,
triết học không đồng nhất với các khoa học cụ thể, cũng không phải là
“khoa học của các khoa học”,mà là học thuyết về những nguyên lý
chung nhất, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội vàtư duy con người.Sau C. Mác và Ăngghen, triết học Mác được
Lênin bổ sung và phát triển một cách sáng tạo trong tình hình mới.Lênin
đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải quyết những vấn đề

của cách mạng vô sản trong thời đạichủ nghĩa đế quốc và bước đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp công nhân – giai cấp
tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ
bản của nhân dân lao động và sự phát triển của xã hội. Sự kết hợp lý
luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước
chuyển biến về chất trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
từ tự phát lên tự giác.


- Triết học Mác ra đời làm chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành
chủ nghĩa xã hội khoa học. Trước Mác chúng ta đã có chủ nghĩa xã hội
không tưởng, muốn biến nó thành hiện thực thì phải thông qua đấu tranh
giai cấp, bạo lực cách mạng... và triết học Mác ra đời đã biến nó thành
hiện thực.


Câu 4: Phân tích quan điểm khách quan và vận dụng vào hoạt
động thực tiễn của bản thân? (6 điểm)
Quan điểm khách quan là một trong những nguyên tắc quan trọng
của phương pháp biện chứng Mác xít. Quan điểm khách quan là quan
điểm mà khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu nó một cách
khách quan như cái vốn có của nó và không phụ thuộc vào ý thức của
con người.
* Cơ sở lý luận quan điểm khách quan: Có nhiều cơ sở để đưa ra
quan điểm khách quan như toàn bộ phép biện chứng duy vật, lý luận về
nhận thức..nhưng cơ sở quan trọng nhất, trực tiếp nhất là mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức.
- Khái niệm:
+ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách

quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác.
+ Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người một cách năng động, sáng tạo.ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
- Mối quan hệ biện chứng vật chất và ý thức:
+ Thứ nhất, vật chất suy cho cùng quyết định ý thức (phân tích rõ
phần này)
Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, do đó vật chất là có
trước, ý thức là có sau, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Nguyên lý
này biểu hiện về mặt xã hội là tồn tại xã hội có trước, ý thức xã hội có
sau và do tồn tại xã hội quyết định.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức
Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức: vật chất thay đổi thì ý
thức cũng thay đổi. Tồn tại xã hội thay đổi thì sớm muộn ý thức xã hội
cũng thay đổi theo.
+ Thứ hai, ý thức có tính độc lập tương đối và có thể tác động trở
lại vật chất
Mặc dù ý thức do vật chất quyết định nhưng nó không phụ thuộc
hoàn toàn vào vật chất mà do có tính năng động, sáng tạo nên ý thức có


thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông
qua hoạt động thực tiễn của con người theo hai hướng:
Tích cực: ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng
thúc đẩy, tạo điều kiện hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình
cải tạo thế giới vật chất.
Tiêu cực: ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có
thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo

thế giới vật chất.
* Nội dung quan điểm khách quan (yêu cầu):
- Thứ nhất, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát
từ chính sự vật, chính những điều kiện, những hoàn cảnh thực tế, đặc
biệt là từ điều kiện vật chất; phản ánh sự vật trung thành như bản thân nó
vốn có, tôn trọng sự thật không được lấy ý chí chủ quan áp đặt cho sự
vật.
- Thứ hai, xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan.
Căn cứ vào những điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị để từ đó đề
ra kế hoạch, mục đích, chủ trương cho hoạt động thực tiễn của bản thân.
Những quy luật không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, những hành động không phù hợp với quy luật sẽ phải trả giá do
đó phải hành động theo quy luật. Vd chặt phá rừng quá mức thì lũ lụt gia
tăng...
- Thứ ba, tránh rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối hoá
điều kiện vật chất, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất, không chịu cố
gắng, tích cực, chủ động vượt khó, vươn lên.


Câu 5: Phân tích nguyên nhân, bản chất, phương hướng khắc
phục bệnh chủ quan duy ý chí?
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư
duy vừa mắc phải chủ nghĩa chủ quan, lại vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý
chí. Chủ nghĩa chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò
của chủ thể trong quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần
nào bản chất và tính quy luật của thế giới vật chất, của hiện thực khách
quan
* Khái niệm:
- Chủ quan nghĩa là hành động theo ý nghĩ của mình mà không cần

biết kết quả, đề cập thực tế, điều kiện thực tế.
- Duy ý chí nghĩa là đề cao quá mức ý chí, ý thức.
- Cái chung của chủ quan duy ý chí là không đánh giá đầy đủ điều
kiện thực tế nên xuất phát từ nhận định chủ quan, nguyện vọng của cá
nhân, tình cảm cá nhân lấy cái này là xuất phất cho mọi chủ trương,
đường lối. Vd sai lầm trong cách mạng ruộng đất…
*Nguyên nhân bệnh chủ quan duy ý chí: cường điệu hoá, tuyệt
đối hoá vai trò của ý thức đối với vật chất.
* Bản chất: chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức và hành động.
* Phương hướng khắc phục:quan triệt mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức, thực hiện nguyên tắc khách quan.
Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã phạm phải sai lầm
giáo điều, cứng nhắc và chủ quan duy ý chí khi áp đặt một mô hình
CNXH được thiết kế không xuất phát từ thực tiễn nước ta. Đó là mô
hình CNXH thuần khiết với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể được phép tồn tại với sự thống nhất
tuyệt đối về chính trị và tinh thần. Do nhận thức mang tính chủ quan duy
ý chí, xa rời thực tiễn, không tôn trọng quy luật khách quan nên đường
lối, chính sách nhằm xây dựng mô hình đó và các biện pháp, phương
tiện để thực hiện đường lối, chính sách này không có tác dụng cài tạo
thực tiễn, làm cho thực tiễn kinh tế - xã hội của nước ta phát triển theo
chiều hướng tiến lên mà ngược lại còn kìm hãm sự phát triển đó.
Chủ nghĩa chủ quan duy ý chí đã đưa chúng ta tới ảo tưởng có thể
đưa ngay nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên CNXH.
Do muốn "tiến thẳng", muốn quá độ trực tiếp lên CNXH, chúng ta đã bỏ


qua chỉ dẫn của Lênin về hình thức quá độ gián tiếp để một nước mà nền
kinh tế còn là sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Chúng ta đã quên rằng chính
Lênin đã khẳng định: "Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng

ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ
quá độ. Toàn bộ nền chuyên chính vô sản là một thời kỳ quá độ, nhưng
hiện nay có thể nói rằng chúng ta có cả một loạt thời kỳ quá độ mới". Do
chủ quan duy ý chí, do áo tưởng, chúng ta đã không nhận thức đúng vị
trí và vai trò của các bước quá độ gián tiếp và do đó chúng ta đã bỏ qua
các hình thức kinh tế trung gian quá độ của một nước nông nghiệp lạc
hậu đi lên CNXH. Biểu hiện rõ nét nhất của sai lầm đó là đường lối xây
dựng CNXH với bốn mục tiêu chủ yếu mà Đại hội IV đã đề ra, là kế
hoạch hoàn thành thời kỳ quá độ trong vòng 20 năm, là mong muốn giải
quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội cả bề rộng lẫn chiều sâu trong một
khoảng thời gian ngắn, là sự phủ nhận nền sản xuất hàng hóa và thành
kiến với quy luật giá trị, với mối quan hệ hàng - tiền, với cạnh tranh…
"Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thực
sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách
quan, do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ
trương, chính sách kinh tế.
Một biểu hiện nữa của sai lầm do mắc bệnh chủ quan duy ý chí là
đường lối tiến hành công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp. Từ chỗ
không đánh giá đầy đủ những đặc thù của một nước nghèo nàn và kém
phát triển, nền kinh tế vẫn ở tình trạng nông nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém, chúng ta đã vội vàng
tiến hành công nghiệp hóa XHCN, hơn nữa lại tập trung ngay vào công
nghiệp nặng với vốn đầu tư lớn song hiệu quả chẳng thu được là bao.
Đặc biệt, khi tiến hành tập thể hóa nông nghiệp chúng ta đã cứng nhắc,
rập khuôn theo nước ngoài, không tính đến một cách đầy đủ sự lạc hậu,
nặng tính tự cấp, tự túc và phân tán của nền nông nghiệp nước ta. Khi đó
chúng ta đã quên rằng chính F. Engen đã chỉ rõ: "Bất cứ ở đâu, bản thân
những biện pháp quá độ cũng sẽ phải thích ứng với những điều kiện sẽ
có trong thời gian đó, những biện pháp quá độ đó, trong các nước có chế
độ chiếm hữu ít ruộng đất, sẽ căn bản khác với những biện pháp quá độ

trong các nước có chế độ chiếm hữu nhiều ruộng đất". Sai lầm đó đã
được lặp lại sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Khi đó,


×