Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TÌM HIỂU CHUNG về NGÂN HÀNG THẾ GIỚI – WORLD BANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.03 KB, 24 trang )

TÌM HIỂU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THẾ GIỚI – WORLD BANK
I – Bối cảnh ra đời và tôn chỉ hoạt động của Ngân hàng Thế giới (NHTG)
1.1. Sự ra đời và thành lập tổ chức tài chính quốc tế:
- Năm 1929-1933 nổ ra khủng hoảng kinh tế phương Tây. Cuộc khủng hoảng
này làm cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa càng xấu đi, thất nghiệp tăng lên, mâu
thuẫn giữa các nước phát triển nảy sinh.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nền kinh tế thế giới phát triển rất không
đều, mâu thuẫn giữa các nước phát triển ngày càng sâu sắc. Những nước này thi
hành chính sách bành trướng ra nước ngoài cả về chính trị, kinh tế và quân sự.
Trước tình hình ấy, một số nước đưa ra chủ trương thành triển ngày càng gay gắt,
phát xít Đức nhảy lên vũ đài và Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ.
Trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, nền kinh tế Mỹ phát triển rất nhanh, Mỹ trở thành
nước mạnh nhất thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ bắt đầu lập ra tổ
chức tài chính quốc tế.
- Tháng 11 năm 1943, Mỹ đưa ra ý kiến thành lập Ngân hàng tái thiết và phát
triển của Liên hợp quốc. Dụng ý của kiến nghị này là để nhiều nước phát triển
gánh vác nguồn vốn cho nhu cầu khôi phục và xây dựng kinh tế sau chiến tranh.
Mỹ đầu tư vào các nước thông qua Ngân hàng tái thiết và phát triển thì có thể
được Liên hợp quốc bảo trợ.
- Tháng 4 năm 1944 họ đã ra tuyên bố chung về Quỹ tiền tệ quốc tế, đề ra tôn chỉ
và chính sách thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế. Tuyên ngôn này lấy kiến nghị của
Mỹ về “ Quỹ bình ổn quốc tế” làm cơ sở.
- Tháng 7 năm 1944, Liên hợp quốc triệu tập hội nghị tài chính tiền tệ tại Brétơn
Út thuộc tiểu bang Niu Hamơhaiơ của Mỹ. Hội nghị này đã ký hiệp định Brétơn
Út, quyết định thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng tái thiết và phát triển
quốc tế.
Tôn chỉ hoạt động của NHTG


Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế được thành lập tháng 12 năm 1945, khai
trương doanh nghiệp vào tháng 6 năm 1946. Tôn chỉ của Ngân hàng tái thiết và


phát triển quốc tế là:
► Thông qua đầu tư giúp đỡ các nước hội viên của ngân hàng khôi phục sản
xuất và xây dựng kinh tế trong nước gồm cả phục hồi kinh tế do chiến tranh tàn
phá, và khuyến khích các nước đang phát triển gia tăng các công trình sản xuất,
khai thác tài nguyên.
► Bằng phương thức bảo trợ hoặc tham gia cho vay tư nhân và đầu tư tư nhân,
thúc đẩy đầu tư tư nhân của nước ngoài, hoặc cung cấp vốn của ngân hàng cho
sản xuất và vốn ngân hàng huy động để bổ sung phần thiếu hụt của đầu tư tư
nhân.
► Bằng phương thức khuyến khích đầu tư quốc tế và phát triển tài nguyên của
các nước hội viên để thúc đẩy mậu dịch quốc tế tăng trưởng đồng đều, lâu dài,
cân đối thu chi quốc tế, giúp các nước hội viên nâng cao hiệu quả sản xuất, mức
sống của nhân dân và cải thiện điều kiện lao động.
► Dùng khoản vay của chính ngân hàng hoặc bảo trợ cho vay và dàn xếp với các
chủ cho vay quốc tế khác để các dự án xây dựng bức thiết được ưu tiên thực thi.
► Khi thực hiện nghiệp vụ đầu tư quốc tế có chiếu cố thích đáng tình hình công
thương nghiệp trong nước của các nước hội viên, đặc biệt là những năm sau
chiến tranh, cần tập trung sức khôi phục sự phát triển kinh tế.
1.2. Cơ cấu của NHTG
Từ khi thành lập tới nay cơ cấu của NHTG đã thay đổi rất nhiều. Từ một Ngân
hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (International Bank for Reconstruction and
Development - IBRD) chuyên cho khu vực nhà nước vay, đã dần dần mở rộng
thêm Hiệp hội Phát triển Quốc tế (International Development Association IDA), và ba định chế khác: Công ty Tài chính Quốc tế (International Finance
Corporation - IFC), phụ trách mảng cấp vốn cho khu vực kinh tế tư nhân, Tổ
chức Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (Multilateral Investment Guarantee Agency -


MIGA) và Trung tâm Giải quyết các Tranh chấp Đầu tư Quốc tế (International
Centre for Settlement of Investment Disputes - ICSID). Nhóm NHTG bao gồm
năm định chế trên, trong bài thuyết trình này chúng tôi sẽ gọi chung là "Ngân

hàng”.

- Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD): được chính thức

thành lập ngày 27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài chính cho các nước
Tây Âu để họ tái thiết kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho phát
triển kinh tế ở các nước nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế,
IBRD cấp tài chính cho cá nước đang phát triển không nghèo.
- Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA): được thành lập năm 1960 chuyên cấp tài
chính cho các nước nghèo.
- Công ty Tài chính Quốc tế (IFC): thành lập năm 1956 chuyên thúc đẩy đầu tư
tư nhân ở các nước nghèo.
- Trung tâm giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế (ICSID): thành lập năm
1966 như một diễn đàn phân xử hoặc trung gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà
đầu tư nước ngoài với nước nhận đầu tư. Việc sử dụng các phương tiện của
ICSID là hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, một khi đã đồng ý giải quyết với
ICSID, không bên nào được đơn phương từ chối phán quyết của ICSID.
- Tổ chức Bảo lãnh Đầu tư đa phương (MIGA): thành lập năm 1988 nhằm thúc
đẩy FDI vao các nước đang phát triển.
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của NHTG
a. Chức năng
Chức năng của NHTG được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện.
IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại
(hiện NHTG có 187 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng
được vay NHTG. Cá nhân và công ty không được vay NHTG. Chính phủ của
những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc dân trên đầu người trên


1305USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn
lãi suất mà NHTG đã đi vay một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu

nhập quốc dân dưới 1305USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được
vay của IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40
năm.
Trong hai thập kỉ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá
trị các khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao
thông vận tải.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan
trọng nhất, song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục,
y tế, dinh dưỡng, kế hoạch hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ. Các hoạt động của IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến
giúp đỡ người nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài chính kĩ thuật.
Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRA và
IDA bắt đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các
nước đang phát triển. Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu
hiện nay của IBRD và IDA.
IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường
nhưng là vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo
đảm đối với các nhà đầu tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư
vào dự án.
MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại)
để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát
triển.
b. Nhiệm vụ của NHTG
Nhiệm vụ của NHTG NHTG (World Bank) được ghi rõ trên nhiều tài liệu của
Ngân hàng: chống đói nghèo và cải thiện mức sống cho người dân ở các nước


đang phát triển.
NHTG cung cấp các khoản cho vay, các dịch vụ cố vấn chính sách, hỗ trợ kỹ
thuật và chia sẻ kiến thức cho các nước có thu nhập quốc dân trung bình và dưới

mức trung bình. NHTG thúc đẩy tăng trưởng nhằm tạo việc làm và giúp người
nghèo có được các cơ hội việc làm ấy.
Tổng thu nhập của thế giới là hơn 31 ngàn tỷ đôla Mỹ mỗi năm, trong đó có
những nước thu nhập bình quân đầu người đạt tới 40 ngàn đôla Mỹ. Thế nhưng
2,8 tỷ dân số thế giới, với hơn một nửa thuộc các nước đang phát triển, đang sống
với mức thu nhập dưới 700 đôla Mỹ. Gần một nửa trong số họ, 1,2 tỷ người, chỉ
kiếm được chưa đầy 1 đôla Mỹ mỗi ngày.
Công việc của NHTG là làm cầu nối cho trên hố sâu ngăn cách giàu nghèo này,
hướng các nguồn lực từ các nước giàu vào sự phát triển của các nước nghèo.
NHTG hỗ trợ các nỗ lực của chính phủ các nước phát triển trong việc xây dựng
trường học và trung tâm y tế, cung cấp điện nước, phòng chống bệnh tật và bảo
vệ môi trường. Năm 2003, NHTG đã cung cấp 18,5 tỷ đôla Mỹ và hoạt động trên
hơn 100 nước đang phát triển, hỗ trợ các nước này trên cả phương diện tài chính
và kỹ thuật để giảm đói nghèo.
IBRD, tiền thân của NHTG, cung cấp các khoản cho vay đối với các chính phủ
và doanh nghiệp nhà nước cùng với sự bảo đảm của chính phủ (hoặc bảo đảm tối
cao – sovereign guarantee). Nguồn tiền cho vay được lấy từ các khoản nợ đã
được trả và thông qua việc phát hành trái phiếu trên thị trường vốn thế giới.
IBRD là một trong những tổ chức cho vay được xếp hạng cao nhất trên thị
trường quốc tế và vì vậy có khả năng cho vay với mức lãi suất tương đối thấp.
Ngân hàng cho các nước vay với lãi suất rất hấp dẫn bằng cách thêm một mức lề
(khoảng 1%) vào chi phí cho vay để trang trải các chi phí hành chính.
IDA có nhiệm vụ giúp đỡ các nước nghèo nhất thông qua các khoản cho vay với


lãi suất ưu đãi và các chương trình tài trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải
thiện điều kiện sống. Các khoản cho vay dài hạn không lấy lãi của IDA dành cho
các chương trình xây dựng chính sách, định chế, hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực
cần thiết cho phát triển bền vững trên cơ sở tôn trọng môi trường và công bằng
xã hội.

IFC, với 176 thành viên, thúc đẩy đầu tư bền vững vào khu vực tư nhân ở các
phát triển với múc đích giảm đói nghèo và tăng chất lượng cuộc sống người dân
thông qua việc cung cấp tài chính cho các dự án thuộc khu vực tư nhân, hỗ trợ
các công ty tư nhân lưu chuyển vốn trên thị trường tài chính quốc tế và cung cấp
dịch vụ tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật cho các chính phủ và doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của MIGA là xúc tiến đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI vào các nước
đang phát triển nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, giảm đói nghèo và cải thiện
cuộc sống người dân. Với tư cách một nhà bảo hiểm quốc tế cho các nhà đầu tư
tư nhân và nhà tư vấn cho các nước về đầu tư nước ngoài, MIGA tham gia xúc
tiến các dự án với tác động phát triển bền vững lớn nhất bảo đảm các tiêu chí
kinh tế, môi trường và xã hội.
ICSID thực hiện hoà giải và trọng tài giữa các nước thành viên và các nhà đầu tư
thuộc các nước thành viên khác. Việc sử dụng các phương tiện của ICSID là
hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, một khi đã đồng ý giải quyết với ICSID, không
bên nào được đơn phương từ chối phán quyết của ICSID.

II. Một số thể chế chủ yếu của NHTG
2.1. Về bộ máy của NHTG
Bộ máy hiện hành của NHTG gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc
Điều hành, Chủ tịch và các cán bộ của NHTG.
a. Hội đồng Thống đốc:


Hội đồng Thống đốc là cơ quan quyết định cao nhất tại NHTG. Mỗi nước hội
viên cử một đại diện của nước mình làm thành viên của Hội đồng Thống đốc.
Hội đồng Thống đốc họp mỗi năm 1 lần vào tháng 9 hoặc tháng 10 hàng năm.
Các quyết định được thông qua với đa số tuyệt đối (2/3 số phiếu biểu quyết).
Uỷ ban Phát triển: được thành lập vào năm 1974, có trách nhiệm tư vấn cho
cả 2 Hội đồng Thống đốc của IMF và NHTG về các vấn đề liên quan đến cung
cấp vốn cho các nước đang phát triển.

Các chức năng quyền hạn do Hội đồng thống đốc thực hiện chủ yếu là: phê
chuẩn việc kết nạp nước thành viên mới, tăng hoặc giảm cổ phần ngân hàng, đình
chỉ tư cách nước thành viên, giải quyết tranh chấp nảy sinh do các giám đốc điều
hành giải thích khác nhau về hiệp định của ngân hàng, phê chuẩn hiệp định chính
thức ký kết với các tổ chức quốc tế khác, quyết định việc phân phối thu nhập
ròng của ngân hàng, phê chuẩn việc tu chỉnh hiệp định ngân hàng.
b. Ban Giám đốc Điều hành:
Ban Giám đốc Điều hành gồm 25 Giám đốc điều hành (trong đó có 5 GĐĐH
được bổ nhiệm từ năm nước hội viên có số cổ phần lớn nhất là Mỹ, Nhật, Đức,
Pháp và Anh); và 20 GĐĐH được bầu chọn. Nhiệm kỳ của GĐĐH là 2 năm. Ban
GĐĐH chịu trách nhiệm điều hành mọi công việc hàng ngày của NHTG, thực
hiện nhiệm vụ theo các chức năng và quyền hạn được giao phó theo Điều lệ
và/hoặc được Hội đồng Thống đốc giao như:
+ Điều chỉnh chính sách của ngân hàng thích ứng với tình hình luôn luôn biến
đổi.
+ Xem xét và quyết định đối với các kiến nghị của chủ tịch ngân hàng về các
khoản cho vay có lấy lãi, kỳ hạn tương đối ngắn và các khoản cho vay của Hiệp
hội phát triển quốc tế thì không có lãi, kỳ hạn dài, thường là 50 năm
+ Đệ trình Hội đồng thống đốc các báo cáo thẩm kế tài vụ, dự đoán kinh phí hành
chính, các báo cáo hàng năm về nghiệp vụ và chính sách của ngân hàng cũng như
các công việc khác mà giám đốc điều hành nhận thấy phải trình Hội đồng thống
đốc.


- Các Tổng giám đốc: Như một thông lệ, các tổng giám đốc của NHTG đều do
đương kim tổng thống Hoa Kỳ chỉ định (điều này ngược với các giám đốc của
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) luôn là người châu Âu), lần lượt là: Eugene Meyer
(tháng 6 đến tháng 12 năm 1946); John J. McCloy (4/1947–6/1949); Eugene R.
Black (1949–1963); George D. Woods (1/1963–3/1968); Robert S. McNamara
(4/1968–6/1981); Alden W. Clausen (7/1981–6/1986); Barber B. Conable

(7/1986–8/1991); Lewis T. Preston (9/1991–5/1995); James Wolfensohn
(5/1995–6/2005); Paul Wolfowitz (6/2005-6/2007); Robert Zoellick (6/2007-hiện
tại).
- Hội nghị Ban giám đốc điều hành phải có số giám đốc điều hành đại biểu cho
quá nửa tổng số phiếu biểu quyết tham dự mới được coi là hợp lệ.
- Mỗi giám đốc điều hành phải cử một phó giám đốc điều hành. Khi giám đốc
điều hành vắng mặt thì phó giám đốc điều hành thay mặt, thực hiện mọi quyền
hạn của giám đốc điều hành. Khi giám đốc điều hành có mặt tại Hội nghị thì phó
giám đốc điều hành cũng phải dự họp, nhưng không có quyền bỏ phiếu biểu
quyết.
- Hội đồng giám đốc điều hành làm việc tại trụ sở của ngân hàng ở Oasinhtơn.
- Bất kỳ giám đốc điều hành cũng không thể sử dụng quyền phủ quyết như các
nước thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Nhưng do quyền bỏ phiếu
biểu quyết của các giám đốc điều hành được tính theo số cổ phần của các thành
viên đó cử ra hoặc bầu ra họ, cho nên các nước phát triển chủ yếu ở phương Tây
(Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Italia và Hà Lan) là những nước có cổ phần lớn
nhất. Nếu các nước này liên kết với nhau thì có thể gây ra ảnh hưởng quyết định
đối với những dự án chỉ cần thông qua với đa số phiếu giảm đơn.
c. Chủ tịch:
Chủ tịch do Ban GĐĐH lựa chọn với nhiệm kỳ 5 năm; Chủ tịch tham gia vào các
cuộc họp của Hội đồng Thống đốc và Uỷ ban Phát triển. Ngoài ra, Chủ tịch còn
phụ trách về nhân sự của IBRD và IDA, chủ trì các buổi họp của Ban GĐĐH và
duy trì mối liên hệ với chính phủ các nước hội viên, các GĐĐH, với các cơ quan


thông tin và các tổ chức khác. Giúp việc cho Chủ tịch có 5 Tổng giám đốc. Hiện
nay, Chủ tịch Nhóm NHTG là ông James D. Wolfensohn, người Mỹ, giữ cương
vị này từ tháng 6/1995.
d. Cán bộ của Nhóm NHTG: có khoảng 10.000 cán bộ từ nhiều quốc gia khác
nhau làm việc tại trụ sở chính tại Washington D.C. và 3000 cán bộ làm việc tại

trên 100 văn phòng đại diện đặt tại các nước hội viên. Dưới Tổng giám đốc có 25
Phó Chủ tịch phụ trách các khu vực và các mảng nghiệp vụ.
Các Nhà kinh tế trưởng của NHTG: Nhà kinh tế trưởng của NHTG (tên
gọi đầy đủ của chức vụ này là "Phó tổng giám đốc phụ trách phát triển và kinh tế
học, nhà kinh tế trưởng") là cấp bậc quản lý cao nhất về chuyên môn trong
NHTG. Người giữ chức vụ này là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất
tới kinh tế thế giới, và thường là những học giả kinh tế xuất chúng. Chức vụ này
bắt đầu có từ năm 1982. Gồm các vị: Anne Krueger - giai đoạn 1982-1986;
Stanley Fischer - 1988-1990; Lawrence Summers - 1991-1993; Joseph E. Stiglitz
- 1997–2000; Nicholas Stern - 2000–2003; Francois Bourguignon – 2003 đến
nay.
2.2. Về hội viên của NHTG
Tính đến nay, NHTG có 187 quốc gia thành viên và các quốc gia này chính
là các cổ đông của NHTG. Trước khi được gia nhập Ngân Hàng Quốc Tế về Tái
Thiết và Phát Triển, một quốc gia phải là thành viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.
Đồng thời, phải tham gia Tập Đoàn Tài Chính Quốc Tế (IFC), Hiệp Hội Phát
Triển Quốc Tế (IDA), và Cơ Quan Bảo Đảm Đầu Tư Đa Phương (MIGA) thì
mới được gia nhập Ngân Hàng.
NHTG cũng quy định cụ thể nghĩa vụ và quyền lợi của các quốc gia thành
viên. Sau đây là một số nội dung chính:
 Nghĩa vụ của các thành viên:
- Đóng góp vốn điều lệ cho NHTG. Tại cuộc họp cấp cao năm 2010, các
thành viên đã thông qua việc tăng vốn 5.1 tỷ USD. Quỹ của IBRD thu từ việc
phát hành trái phiếu cho các quốc gia và quỹ IDA có được từ sự đóng góp hảo


tâm của các nước. Ngoài ra, NHTG cũng phát hành trực tiếp trái phiếu cho các
chính phủ, tổ chức và các ngân hàng trung ương các nước.
- Tôn trọng và tuân thủ các hiệp định của các tổ chức trong NHTG như hiệp
định vay, hiệp định tín dụng xóa đói giảm nghèo,...

- Tuân thủ các quy định về điều kiện vay của NHTG:
• Có khả năng trả nợ
• Chỉ tiến hành với chính phủ hoặc với tư cách có chính phủ bảo đảm
• Không bắt buộc phải dùng tiền vay để mua hàng của nước thành viên
nhưng có quy định một số bảo lưu
• NHTG tự xem xét, đánh giá về kinh tế của nước đi vay
• Dùng tín dụng của NHTG để trả các khoản nợ về nhập khẩu, trừ nhập
khẩu vũ khí và hàng xa xỉ phẩm
• Nước đi vay phải sẵn sàng thay đổi trong chính sách, trong chương trình
và thể chế của mình để giúp nền kinh tế quốc dân thích nghi được với
tình hình.
• Phạm vi sử dụng bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế quốc dân của nước đi
vay.
 Quyền của các nước thành viên:
- Được cung cấp tín dụng dài hạn với lãi suất ưu đãi để xây dựng kinh tế, đẩy
mạnh sản xuất, khai thác tài nguyên, khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân
đầu tư vốn vào xây dựng kinh tế bằng cách bảo lãnh cho họ.
- Được giúp đỡ kỹ thuật
- Được đào tạo cán bộ: Quan chức chính phủ, cán bộ ngân hàng, cán bộ
nghiên cứu, quản lý, giáo dục,…


- Được bỏ phiếu thông qua tại các kỳ họp
• NHTG áp dụng hệ thống biểu quyết theo tỷ trọng đóng góp, tức là mức
đóng góp sẽ quyết định quyền biểu quyết của các thành viên. Mỗi quốc
gia thành viên có 250 phiếu cộng thêm 1 phiếu cho mỗi cổ phần đóng góp.
 Mỹ: hơn 20% phiếu biểu quyết
 Anh: gần 10%
 Đức: hơn 5%
 Pháp: gần 5%

 Nhật: hơn 4%
• Năm 2010, NHTG đã nhất trí tăng thêm 3,13 điểm phần trăm đối với
quyền bỏ phiếu về chính sách ngân hàng cho những nước đang phát triển,
nâng tổng quyền bỏ phiếu cho các nước đang phát triển lên 47,19%.
III. Một số hoạt động của Ngân Hàng Thế Giới
3.1. Đối với các nước nói chung
NHTG là một trong các nguồn Hỗ trợ phát triển lớn nhất thế giới. Mỗi năm,
NHTG cho chính phủ các nước đang phát triển vay khoảng 20 tỷ USD để hỗ trợ
cho hơn 220 dự án. Bên cạnh việc cho vay vốn, Ngân hàng Thế giới còn cung
cấp hỗ trợ phát triển và tư vấn chính sách cho các chính phủ. Các lĩnh vực
thường sử dụng vốn vay từ NHTG là: Cung cấp nước sạch; xây dựng trường học
và đào tạo giáo viên; tăng năng suất lao động trong lĩnh vực nông nghiệp; xây
dựng và bảo dưỡng đường xá, đường sắt và các cảng; Quản lý rừng và các tài
nguyên thiên nhiên khác; giảm tình trạng ô nhiễm không khí và các vấn đề môi
trường; Mở rộng mạng lưới viễn thông; xây dựng và phân phối năng lượng; mở
rộng mạng lưới y tế đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em; Hiện đại hoá cơ cấu chính
quyền. NHTG mang một sứ mệnh lớn là đấu tranh chống đói nghèo trên toàn thế
giới thông qua hình thức là cung cấp vốn và kiến thức chuyên môn cho chính phủ
các nước đang phát triển.


Theo dòng lịch sử, sau khi được định hình vào năm 1944, hai năm sau vào
tháng 6-1946, NHTG chính thức bước vào hoạt động với đơn xin vay vốn đầu
tiên của Chile, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Pháp, Luxemburg và Ba Lan. Năm 1947
khoản vay đầu tiên trị giá 250 triệu USD được cung cấp cho nước Pháp. Chính
phủ và nhân dân Pháp đã sử dụng có hiệu quả khoản vay này để phục hồi và phát
triển kinh tế để giờ đây, nước Pháp vững vàng ở vị trí cao trong nhóm các nhà
cung cấp viện trợ phát triển (ODA – Official Development Assistance) hàng đầu
thế giới. Đến năm 1979, cam kết mới của NHTG lần đầu tiên đã vượt mức 10 tỷ
USD và đến năm 2004, NHTG kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành lập với mức tài trợ

đạt khoảng 20 tỷ USD.
Trong thập kỷ 80, NHTG đã phải chịu áp lực từ nhiều phía. Vào đầu thập kỷ,
Ngân hàng phải đối mặt với các vấn đề kinh tế vĩ mô và gia hạn nợ. Đến cuối
thập kỷ, các vấn đề xã hội và môi trường nổi lên cùng với sự chỉ trích mạnh mẽ
từ phía xã hội cho rằng NHTG đã không kiểm soát tốt các chính sách của chính
mình trong một số dự án quan trọng.
Để đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động của Ngân hàng, báo cáo
Wapenhans đã được thực hiện và dẫn tới cuộc cải cách ngay sau đó với việc
thành lập Ban giám sát (Inspection Panel) nhằm điều tra các chỉ trích đối với
NHTG. Tuy nhiên, chỉ trích vẫn tăng lên, cực điểm là năm 1994 tại Hội nghị
thuờng niên ở Madrid, Tây Ban Nha.
Từ đó, NHTG đã có nhiều tiến triển vượt bậc. 5 tổ chức, định chế, vừa thực
hiện độc lập vừa kết hợp nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động cho Ngân hàng. Báo
cáo cho thấy khách hàng hầu hết hài lòng với sự thay đổi trong các cấp dịch vụ
của NHTG, trong sự tham gia của Ngân hàng vào hiệu quả hoạt động của khách
hàng cũng như trong chuyển giao và chất lượng.
Hơn bao giờ hết, NHTG đang giữ vai trò quan trọng trên trường quốc tế.
Ngân hàng đã gắn bó chặt chẽ với các đối tác và khách hàng trong các trường
hợp khẩn cấp, từ việc tái thiết sau xung đột Bosnia đến hỗ trợ hậu khủng hoảng


Đông Á, từ cứu trợ sau thảm hoạ Trung Mỹ, động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ tới Kosovo
và Đông Timor. Cùng với 187 nước thành viên hiện nay và nhiều tổ chức khác,
NHTG đang thực hiện mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ mới (Millennium
Development Goals) cho đến năm 2015 bao gồm các vấn đề giáo dục, sức khoẻ
và vệ sinh.
3.2. Đối với Việt Nam
Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam gia nhập NHTG. Ngày
21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại NHTG của
Chính quyền Sài gòn cũ.

Cổ phần của Việt Nam tại:
+ IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,08%
+ IDA là 14.778 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 19.203, chiếm 0,14%
+ IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03%
Trong số các tổ chức cho vay thuộc nhóm NHTG, hỗ trợ tài chính dưới hình
thức cho vay ưu đãi và hỗ trợ kỹ thuật của IDA cho Việt nam chiếm vai trò chủ
đạo trong mối quan hệ giữa Việt nam với nhóm NHTG (thời hạn vay 40 năm, phí
dịch vụ 0,75%/năm, phí cam kết 0 - 0,5%/năm, không lãi suất, 10 năm ân hạn).
Ngoài ra, IFC cũng cho vay các dự án thuộc khu vực tư nhân của Việt Nam với
lãi suất thị trường. MIGA đã ký kết một số hiệp định bảo lãnh cho các dự án đầu
tư vào Việt nam. .
Ngoài việc cho vay các dự án và chương trình, NHTG cũng cung cấp các
khoản Hỗ trợ Kỹ thuật (HTKT) cho Việt Nam, kể cả các khoản HTKT uỷ thác
của các nước. Tổng số HTKT của NHTG tính đến nay là hơn 135 khoản với trị
giá khoảng 322 triệu USD; trong đó bao gồm 19 khoản đồng tài trợ trị giá 210,6
triệu USD.
a. Công ty tài chính quốc tế (IFC) và Việt Nam
Kể từ năm 1993, IFC đã thông qua 30 dự án với tổng số vốn đầu tư là 605
triệu USD dưới hình thức tài trợ trực tiếp và hợp vốn, hỗ trợ cho các dự án có


tổng số vốn đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Hoạt động của IFC chủ yếu đầu tư vào
khu vực ngoài quốc doanh của nền kinh tế như sản xuất xi măng, thép, khách
sạn, may mặc, chế biến nông sản...
Vào năm tài chính 1997 IFC giúp thành lập Công ty Cho Thuê Quốc Tế Việt
Nam (Vietnam International Leasing Company Limited (VILC), công ty thuê tài
chính đầu tiên tại Việt Nam.
VILC đóng vai trò quan trọng trong cung cấp nguồn tài chính trung hạn cho
các SMEs tại Việt Nam. Từ khi thành lập, VILC đã cung cấp 35 triệu USD vốn
thuê mua tài chính cho gần 250 công ty. Nguồn vốn của công ty đã tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp trong nước mua sắm nhiều tài sản cố định bao gồm máy
móc, thiết bị văn phòng và cho nhà máy.
VILC phát triển từ chương trình hỗ trợ của IFC vào năm 1991: IFC tư vấn
cho chính phủ Việt Nam về thuê mua và xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp
cho việc cấp phép, quản lý và thực hiện hoạt động cho thuê tài chính.
Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, IFC cung cấp khoản vay trị giá 300,000
USD cho công ty Vĩnh Phát (Vinh Phat), một cơ sở sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm may mặc trong nước. Khoản đầu tư này tạo điều kiện cho Vĩnh Phát mở
rộng sản xuất và trang thiết bị và mua dây chuyền thiết bị mới. Dự án giúp công
ty tăng kinh ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.
Ngoài ra, IFC còn thành lập Chương trình Phát triển Dự án Mê kông
(MPDF).
Chương trình Phát triển Dự án Mê Kông (MPDF) là chương trình do nhiều
bên tài trợ được điều hành bởi Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), bộ phận kinh tế
tư nhân thuộc Tập đoàn NHTG.
Các nhà tài trợ khác của MPDF bao gồm: Ngân hàng Phát triển Châu Á,
Canada, Ôxtrêlia, IFC, Na Uy, Nhật Bản, Phần Lan, Thụy Sỹ, Thụy Điển, và
Vương quốc Anh. Sứ mệnh của MPDF là thúc đẩy sự hình thành và phát triển


của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt nam, Cămpuchia và
Lào.
Trong thời gian vừa qua, MPDF đã hỗ trợ tiếp cận tài chính cho 72 dự án của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) trị giá 50 triệu USD và thực hiện 15 khoản
HTKT. MPDF đã tích cực giúp đánh giá môi trường kinh doanh cho các doanh
nghiệp tư nhân ở Việt nam, trong lĩnh vực đào tạo cho các ngân hàng và các nhà
quản lý trong nước, và xây dựng năng lực cho tư vấn trong nước.
Với giáo dục, vào năm tài chính 2001 IFC phê duyệt khoản vay trị giá 7,25
triệu USD để thành lập Trường Đại Học Tổng Hợp RMIT (RMIT) đóng tại
Thành Phố Hồ Chính Minh. Dự án sẽ tạo điều kiện hàng nghìn học sinh có thể có

được giáo dục đại học hiện đại chất lượng cao mà không phải đi ra nước ngoài.
Trường đại học sẽ cung cấp các chương trình đào tạo có bằng, dạy ngoại ngữ và
đào tạo chuyên môn xây dựng theo nhu cầu thị trường.
Và ngày 3 tháng 8 năm 2009 - NHTG đã thông qua khoản tín dụng trị giá 50
triệu đô la cho Chương trình Chính sách Phát triển Giáo dục Đại học của Việt
Nam và 127 triệu đô la cho Chương trình Bảo đảm Chất lượng Giáo dục Trường
học.
b. Tổ chức bảo lãnh đa phương (MIGA) và Việt Nam
Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh
vực có sự tham gia và có vai trò lớn của khu vực tư nhân trong ngành điện và các
lĩnh vực truyền tải, và hỗ trợ phát triển cho khả năng thúc đẩy đầu tư. Với mục
tiêu hoạt động của mình, MIGA đã phát hành 7 Hiệp định bảo lãnh ở Việt nam
với tổng trị giá 451 triệu USD trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, chế biến xuất
khẩu cà phê, xây dựng nhà máy sản xuất kính và dự án điện BOT Phú Mỹ 3
c. Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) và Việt Nam
Kể từ năm 1993, khi NHTG quay trở lại Việt Nam, Hiệp hội Phát triển Quốc
tế đã cấp khoảng 6 tỉ đô la Mỹ tín dụng ưu đãi không lãi suất và viện trợ không


hoàn lại cho Việt Nam để hỗ trợ Việt Nam phát triển và xóa đói nghèo.
Quỹ IDA đã được sử dụng vào nhiều mục đích, trong đó có việc xây dựng
đường xá và các cơ sở hạ tầng quan trọng khác, nối hàng triệu người ở nông thôn
với lưới điện quốc gia, cải thiện chất lượng giáo dục, nâng cao năng suất nông
nghiệp, và cung cấp các dịch vụ cơ bản như cấp nước cho khoảng 3 triệu người ở
khu vực thành thị. NHTG cung cấp 100 triệu USD để hỗ trợ thực hiện Giai đoạn
II của Chương trình điện khí hóa nông thôn và trợ giúp việc thực hiện pha II của
Chương trình 135, giúp hơn 2.000 xã nghèo trong 47 trên tổng số 63 tỉnh, thành
của Việt Nam. Nguồn hỗ trợ này giúp Chính phủ và cộng đồng trong nỗ lực giảm
thiểu nghèo đói cho các cộng đồng dân tộc thiểu số và xa xôi hẻo lánh bằng cách
tăng khả năng tiếp cận đến cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội cho họ.

Ngày 22/6/2007, NHTG (NHTG) tại Việt Nam cho biết, Hiệp hội Phát triển
quốc tế IDA vừa phê duyệt khoản tín dụng 309 triệu USD hỗ trợ Việt Nam phát
triển cơ sở hạ tầng và xã hội. Khoản tín dụng này sẽ được đầu tư vào 4 dự án
gồm Quỹ đầu tư phát triển TPHCM; Giao thông và chống ngập ở ĐBSCL; hỗ trợ
Chương trình xóa đói giảm nghèo và Dự án Giáo dục đại học (lần thứ 2).
Ngày 30/10/2008 tại Washington DC, Ban Giám đốc Điều hành của NHTG
đã phê duyệt khoản tín dụng trị giá gần 60 triệu USD nhằm hỗ trợ thực hiện dự
án Hiện đại hóa ngành Tài chính và Hệ thống Quản lý Thông tin Tài chính Việt
Nam. Khoản tín dụng này từ nguồn Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), là nguồn
vốn vay ưu đãi của NHTG cho các nước có thu nhập thấp. Tín dụng này nhằm hỗ
trợ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tín dụng, và Cơ quan
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cải cách và hiện đại hóa ngành tài chính, cải thiện
hoạt động của các tổ chức này phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Dự án
nhằm hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để tăng cường hoạt động chức năng, nâng cao
năng lực, và cải tiến quy trình hoạt động. Một phần lớn trong khoản tín dụng 60
triệu USD sẽ được dùng để xây dựng một cơ sở công nghệ thông tin và truyền
thông hiện đại và tập trung để hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đóng vai trò


một ngân hàng trung ương hiện đại.
Dự án nhằm hỗ trợ thực hiện thành công mục tiêu chiến lược của Chính phủ
Việt Nam là xây dựng một ngành tài chính ổn định và lành mạnh; Dự án này rất
quan trọng trong việc đảm bảo tăng trưởng bền vững của Việt Nam và tiếp tục
xóa đói giảm nghèo, đặc biệt vào thời điểm khó khăn trên thị trường tài chính
quốc tế. Ngoài ra, NHTG cam kết tài trợ ODA trung bình 1 tỷ USD/năm cho Việt
Nam.
d. Ngân hàng tái thiết & phát triển quốc tế (IBRD) và Việt Nam
Vào ngày 30-12-2009 tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và NHTG
(NHTG) đã ký kết thỏa thuận tín dụng cho khoản vay lớn nhất của NHTG cho
Việt Nam từ trước đến nay và cũng là khoản vay đầu tiên từ Ngân hàng Tái thiết

và Phát triển quốc tế (IBRD). Lễ ký kết đánh dấu một bước tiến của Việt Nam tới
mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình kể từ năm 2010 (IBRD là một
cơ quan cho vay lãi suất thấp của NHTG nhằm giảm nghèo ở các nước có thu
nhập trung bình hoặc các quốc gia nghèo nhưng có uy tín tín dụng). Cho tới nay,
tất cả các khoản hỗ trợ của NHTG cho Việt Nam đều từ nguồn tín dụng ưu đãi
không lãi suất cho các nước nghèo nhất thế giới (IDA).
Đây là khoản vay chính sách phát triển với tổng giá trị là 500 triệu USD để
hỗ trợ chương trình cải cách đầu tư công tại Việt Nam, với thời gian ân hạn: 10
năm; Thời hạn vay: 25 năm; Phí quản lý : 0,25% tổng số tiền vay; Lãi suất:
LIBOR (6 tháng) theo đơn vị tiền vay cộng biên độ vay dao động (0,17%).
Mới đây nhất , vào ngày 29.03.201,1Ban Giám Đốc NHTG đã duyệt một
khoản vay và ba khoản tín dụng với tổng trị giá 570 triệu đô la Mỹ nhằm hỗ trợ
các nỗ lực phát triển của Việt Nam. Khoản tiền này sẽ được sử dụng cho bốn dự
án, đó là Dự án Hỗ trợ Quản lý Chất thải Y tế (150 triệu đô la Mỹ từ IDA), Dự án
Giao thông Đô thị Hải phòng (175 triệu đô la Mỹ từ IDA ), và cấp Vốn bổ sung
cho Dự án Truyền tải và Phân phối điện II (180 triệu đô la Mỹ từ IBRD) và Dự


án Vệ sinh môi trường các thành phố duyên hải (65 triệu đô la Mỹ từ IDA ).
Về hiệu quả thực hiện, theo đánh giá của NHTG, các dự án thực hiện nhìn
chung có hiệu quả. Năm 2004 Việt Nam được đánh giá là 1/3 nước đứng đầu về
hiệu quả thực hiện dự án, đặc biệt khi xét tới những tác động đem lại của dự án
tới giảm nghèo, cải cách chính sách và thể chế. Sự hỗ trợ của NHTG cho Việt
Nam đã mang lại những hiệu quả rất tích cực, một số dự án sử dụng vốn vay IDA
sau khi hoàn thành đã bắt đầu phát huy hiệu quả như dự án Phục hồi và phát triển
ngành điện, dự án phục hồi Quốc lộ 1 đoạn Hà Nội – Vinh và TP. HCM- Cần
Thơ, Hiện đại hoá hệ thống thanh toán Ngân hàng, Chương trình tín dụng giảm
nghèo (PRSC)...
IV. Đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTG
4.1 .Tác động tích cực của các hoạt động của NHTG

Như đã phân tích ở trên, mục đích hoạt động của NHTG là xóa bỏ sự ngăn
cách và đầu tư các nguồn tài nguyên của nước giàu để phát triển nước nghèo. Là
một trong những nguồn trợ giúp phát triển lớn nhất thế giới, NHTG hỗ trợ cho nỗ
lực của chính phủ các nước đang phát triển để xây dựng trường học và các trung
tâm y tế, cung cấp điện nước, chống bệnh tật và bảo vệ môi trường. Kết quả của
các chương trình hỗ trợ này đã đạt được những tiến bộ rất đáng kể, thể hiện ở
tuổi thọ trung bình ở các nước phát triển tăng lên 20 năm, tỷ lệ người mù chữ ở
các nước đang phát triển đã giảm gần một nửa, từ 47% xuống còn 25% và trong
hai thập kỷ qua, số người sống trong cảnh nghèo đói cùng cực đã bắt đầu giảm
xuống. Đánh giá về những mặt tác động tích cực của NHTG, ta có thể kể đến
những điểm nổi bật như sau:
 Sự trợ giúp ưu đãi của NHTG có hiệu quả trong việc giảm đói nghèo:
Các quỹ IDA tập trung vào các nước nghèo được xem là đặc biệt có hiệu
quả. Những quỹ này đạt hiệu quả cao hơn 50% so với toàn bộ nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức. Sự trợ giúp vào mục đích thích hợp cũng làm tăng hiệu quả của


đầu tư của tư nhân, cả trong nước và ngoài nước, bằng việc hỗ trợ các chính sách
đổi mới và nâng cao hệ thống quản lý pháp luật. Nghiên cứu chỉ ra rằng cứ mỗi
đôla IDA làm tăng gần 2 đôla trong tổng đầu tư, trong đó 60 xu dành cho đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
 Các hoạt động của NHTG cũng góp phần nâng cao chất lượng y tế và giáo
dục ở các quốc gia thành viên.
NHTG là nhà cung cấp tài chính lớn nhất về giáo dục của thế giới, và đã đầu
tư tổng cộng 30 tỉ đô la cho các dự án giáo dục. Ngân hàng cũng là nhà cung cấp
tài chính lớn nhất của chương trình y tế. Các dự án này đã mang lại kết quả rõ
nét, ví dụ như ở Trung Quốc, một dự án vào cuối những năm 1990 đã góp phần
làm tăng tỷ lệ các hộ sử dụng muối i-ốt từ 40% lên 89%, dẫn đến việc tăng từ 10
đến 15 điểm trong mức chỉ số IQ trung bình của trẻ em tại các cộng đồng được
hưởng dự án.

 Phân tích và tư vấn cũng quan trọng như vấn đề tài chính
Trong khi NHTG được biết đến nhiều nhất là một trung tâm tài chính, một
trong những vai trò quan trọng nhất của nó là cung cấp sự phân tích và tư vấn,
đặc biệt trong sự cải thiện lâu dài về chính sách tác động đến sự tăng trưởng và
giảm đói nghèo. Ở nhiều nước, nguồn lực từ tất cả các nguồn không đủ nếu chỉ
kể về tiền bạc để tạo ra một sự khác biệt lớn tương ứng với quy mô của thách
thức. Khi các tổ chức tài chính quốc tế và các nhà viện trợ khác có tác động lớn
đối với sự phát triển, đó là vì sự trợ giúp của họ đã vượt ra khỏi chuyển giao
nguồn lực thông thường và giúp các nước tạo nên những thay đổi cơ bản trong
việc xây dựng thể chế cũng như trong sự tái tạo của các dự án thí điểm. Việt
Nam, cùng với Trung Quốc, Ấn Độ, Mô-dăm-bích, U-gan-da, Balan là những
quốc gia được đánh giá là tiến hành cải cách đất nước một cách thành công cùng
với sự đóng góp của NHTG.
 Thẩm định và giám sát chặt chẽ


NHTG có một số lượng các hệ thống theo dõi nội bộ và bên ngoài, ví dụ như
ban đánh giá hoạt động báo cáo kết quả dự án, ban điều tra độc lập chịu trách
nhiệm giải đáp và đảm bảo thi hành các chính sách an toàn, nhóm đảm bảo chất
lượng, ban điều tra gian lận và tham nhũng điều tra bất kỳ vấn đề nào liên quan
đến tham nhũng và gian lận. Mỗi dự án sau quá trình thực hiện đều được đánh
giá một cách toàn diện và rút ra bài học kinh nghiệm quý giá để hoàn thiện hơn
cho những dự án sau.
Tác động tích cực đối với Việt Nam:
Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới,
với mức tăng trưởng GDP đạt 7,2% trong suốt thập kỷ trước cuộc suy thoái kinh
tế năm tài chính 2008-2009, Việt Nam đã giúp khoảng 35 triệu người thoát
nghèo. Tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ mức 58% năm 1993 xuống còn
14% năm 2008. Kết quả các chương trình hỗ trợ phát triển Việt Nam của NHTG
được nhận xét là thành công (tỷ lệ 100% dự án, trên tổng số 34 dự án đã hoàn

thành được Nhóm Thẩm Định Độc lập của Ngân hàng đánh giá). Việt Nam đã
đạt được tiến bộ đáng kể trong việc áp dụng những biện pháp cải cách theo cơ
chế thị trường. Trong năm 2009, Việt Nam chuyển mình từ một nước là đối
tượng của Ngân hàng Phát triển Quốc tế (IDA) thành một nước là khách hàng
của cả Ngân hàng Phát triển Quốc tế và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển
(IBRD). Đánh giá về đóng góp của NHTG đối với sự phát triển Việt Nam, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề cao những hoạt động phân tích và tư vấn chính
sách, các chương trình và dự án do NHTG hỗ trợ, đã mang lại thành tựu và
những bước chuyển mình tích cực của Việt Nam, thể hiện trên nhiều phương
diện như: khả năng tiếp cận với dịch vụ tín dụng ở nông thôn đã được cải thiện
đáng kể, 95% dân số đã có điện, 90% dân cư được kết nối với nhau bằng những
con đường chịu được mọi thời tiết, mức sống cũng như tiếp cận các dịch vụ y tế,
giáo dục ở những khu vực miền núi xa xôi được nâng cao…
4.2.

Tác động tiêu cực của các hoạt động của NHTG


Bên cạnh những tác động tích cực rõ rệt đối với sự phát triển của các nước
trên thế giới, còn nhiều mối nghi ngại về những ảnh hưởng không tốt của NHTG
đối với các quốc gia.
 Hiện tượng tham nhũng gia tăng
Tham nhũng không còn là vấn đề mới đối với NHTG mà là một vấn đề
nghiêm trọng, đặc biệt đối với Khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong khi
gặp rất nhiều khó khăn để đánh giá đúng đắn tình trạng tham nhũng, một số khảo
sát quốc tế, cũng như bản thân kinh nghiệm riêng của NHTG đưa ra hai nhận
định: (i) mức độ tham nhũng tại một số quốc gia Đông Á là đặc biệt nghiêm
trọng; và (ii) các quốc gia Đông Á khác thích ứng với các mô hình quốc tế về
chống và giảm tham nhũng ở cấp độ quốc gia.
Quan liêu và tham nhũng là vấn đề ăn sâu vào trong gốc rễ đối với nhiều

quốc gia, nhưng cũng phải có khẳng định rằng, nếu không được quản lý chặt chẽ
thì các dự án đầu tư của NHTG sẽ là miếng mồi béo bở cho tệ nạn tham nhũng.
Tầm quan trọng mới cũng được dựa trên sự nhận thức rõ rằng, cách tiếp cận
trước đây - tối đa hóa tính liêm chính của cán bộ NHTG và các Dự án của NHTG
không đủ để giải quyết vấn đề này một cách thành công. Trong năm 2007, Sở
thanh lọc cơ cấu (Institutional Integriry Department) đã công bố báo cáo đầu tiên
về sự trong sạch của NHTG, trong đó có vô số chuyện hối lộ, lừa đảo và đủ loại
mưu mô để ăn chặn công quỹ. Bên cạnh đó, việc “chấm mút” của chính quyền
địa phương đối với mỗi hợp đồng kí kết với NHTG thông thường từ 10-15%.
Mặc dù NHTG đã từng nêu khẩu hiệu là không tha thứ cho nạn tham nhũng trong
dự án cho vay và “phải bảo vệ từng đồng đô la một”, việc canh gác từng đồng xu
sẽ phải tốn rất nhiều tiền. Thực trạng cho thấy rằng, NHTG đã “rót vốn” cho nạn
tham nhũng. Quốc gia Kenya là một minh chứng cho điều đó. Năm 2008 chứng
kiến tình trạng vi phạm pháp luật và hối lộ cấp chính phủ kéo dài nhiều năm dưới
thời tổng thống Mwai Kibaki. Tuy nhiên những khúc quanh chính trường và xã
hội đó vẫn không làm trật đường ray nguồn vốn từ NHTG khiến cho các khoản


đầu tư của chính phủ phần lớn chạy vào túi của các quan chức chính phủ Kenya.
Đối với Bangladesh, đây là một trong những nước nhận được viện trợ nhiều
nhất của NHTG, đồng thời cũng là nước có tỉ lệ tham nhũng đứng đầu thế giới
theo đánh giá của Transparency International (TI). Theo TI, tình trạng tham
nhũng của Bangladesh đã gây ra thiệt hại lớn cho nền kinh tế và hiện nước này
vẫn thuộc nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới.
Đối với Việt Nam, vụ án PMU18 đã là hồi chuông cảnh báo cho nạn tham
nhũng. Mặc dù NHTG đã kiểm tra và cho thấy không có dấu hiệu về gian lận hay
tham nhũng tại Dự án Giao thông Nông thôn 2 và Dự án Nâng cấp đường quốc
lộ. Tuy nhiên đánh giá cũng chỉ ra những dấu hiệu bất thường bao gồm hành vi
làm sai lệch, chưa tuân thủ tục, chất lượng chưa đúng tiêu chuẩn... Do vậy, nếu
không đề ra được giải pháp triệt để thì các dự án đầu tư của NHTG rất có thể trở

thành đòn bẩy cho nạn tham nhũng vốn đã rất nhức nhối tại các quốc gia đang
phát triển.
 Can thiệp thái quá vào chính sách các quốc gia
Ủy ban Tư vấn các tổ chức tài chính quốc tế (International Financial
Institiutions Advisory Commission – IFIAC) đã kết luận rằng hoạt động của
NHTG còn quá nhiều điều phải chê trách. Vấn đề sẽ không trầm trọng đến mức
đó nếu như NHTG không “phát minh” ra những cách làm cản bước tiến của các
quốc gia mà họ đang cố gắng để giúp đỡ. Cho vay tiền đồng thời kèm theo những
chính sách và điều kiện bắt buộc các nước đi vay phải thực hiện. Theo các nhà
phân tích, những điều kiện này thường xâm phạm chủ quyền quá mức và hoàn
toàn không thích hợp.
NHTG còn tham gia vào việc quản lý nền kinh tế vi mô của các quốc gia
cùng với những kế hoạch, chương trình hết sức cồng kềnh, gây nhiều tranh cãi
tốn thời gian mà chẳng thu được ích lợi gì.
Ví dụ như ở Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi NHTG thực hiện một loạt những chuyển


đổi về chính sách tỷ giá hối đoái, từ thả nổi đến thả nổi có quản lý, rồi cố định và
đến nay nước này lại phải quay về với chính sách thả nổi ban đầu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jean-Pierre Cling, Mireille Razafindrakoto, Francois Roubaud, dịch giả:
Nguyễn Đôn Phước, Ngân hàng Thế giới, Công ty cổ phần đại lý xuất
bản VNN, 2009
2. Website ngân hàng thế giới:
3. Website của bộ tài chính:


4. Website Cộng Đồng Kinh Tế Việt Nam:
5. Báo cáo Kết quả Dự án Phát triển tại Việt Nam

/>IAPACIFICEXT/VIETNAMINVIETNAMESEEXTN/0,,print:Y~isCURL
:Y~contentMDK:22542549~pagePK:1497618~piPK:217854~theSitePK:4
86752,00.html
6. Bài báo Tác động của World Bank />7. Báo cáo đánh giá chi tiết tình hình thực hiện dự án (DIR)
/>tion_final_v_may07.pdf
8. Các sáng kiến chống tham nhũng của ngân hàng thế giới
/>%20tham%20nhung%20cua%20ngan%20hang%20the%20gioi.doc
9. Các trang web khác





www.yeumoitruong.com
www.kilobooks.com



×