Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

SKKN công tác chủ nhiệm lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 91 trang )

Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

SỞ GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO BÌNH ĐỊNH
PHÒNG GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO TUY PHƯỚC
TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 PHƯỚC HÒA

ĐỀ TÀI:

TRƯỜNG TH SỐ 1 PHƯỚC HÒA

Người viết : TRẦN THỊ HẰNG NGA
Chức vụ : GIAO VIÊN

Năm học: 2016 - 2017

GV: Trần Thị Hằng Nga

1


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
1) Thực trạng của vấn đề:
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vai trị vơ cùng quan trọng
trong việc hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu, nền móng đầu tiên cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ
năng sống cơ bản để học sinh tiếp tục học lên các lớp trên.
Ở đầu mỗi năm học, ở cùng một trường học, cùng một khối lớp, chất lượng
học tập của học sinh cũng tương đương nhau. Nhưng tại sao đến cuối năm, chất
lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh lớp này lại vượt trội hẳn so với các lớp


khác. Tất cả những điểm khác biệt đó đều do giáo viên chủ nhiệm lớp tạo ra.
Giáo viên chủ nhiệm nào có tinh thần trách nhiệm cao, tận tâm với học sinh của
mình thì chắc chắn sẽ tìm ra được các biện pháp để thu hút học sinh đến lớp, làm
cho học sinh trở nên chăm ngoan, thích đi học và ln cảm thấy “mỗi ngày đến
trường là một niềm vui”.
Mặt khác, tuy giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học dạy được tất cả các lớp
(từ lớp 1 đến lớp 5) nhưng trong thực tế, khơng phải giáo viên nào cũng theo
học sinh của mình từ lớp này lên lớp khác. Vì vậy, mỗi năm lên lớp, các em lại
được học với một thầy (cô) khác nhau. Nếu giáo viên lớp dưới làm tốt công tác
chủ nhiệm, xây dựng tốt nề nếp lớp học, rèn luyện cho học sinh phương pháp tự
học và nhiều kĩ năng sống cơ bản khác; nhưng lên lớp trên, giáo viên chủ nhiệm
lớp khơng duy trì, khơng phát huy thì rồi nề nếp lớp học và chất lượng học tập
của học sinh sẽ ra sao? Do vậy, công tác chủ nhiệm lớp phải được thực hiện
đồng bộ từ lớp Một đến lớp Năm. Nề nếp lớp học, phương pháp học tập, giáo
dục đạo đức, nhân cách và các kĩ năng sống của học sinh phải được giáo viên
chủ nhiệm chú ý xây dựng, rèn giũa ngay từ lớp 1 và phải được duy trì, phát huy
xuyên suốt ở các lớp trên.
2/ Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:
Là một giáo viên chủ nhiệm, năm nay tôi được nhà trường phân cơng dạy
lớp 2. Để hồn thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở
tiểu học phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả. Phải là người
có trình độ, năng lực phẩm chất tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với
học sinh. Ngoài việc cung cấp kiến thức cho học sinh, giáo viên chủ nhiệm còn
dạy về nề nếp lớp học, hướng dẫn học sinh cách xếp hàng, biết nói lời cảm ơn,
GV: Trần Thị Hằng Nga

2


Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa


xin lỗi, cách trình bày trong vở, cách làm vệ sinh lớp, đề ra các nội qui của lớp,
…và phải thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn những sai sót của học sinh nên có
lúc rất căng thẳng, mệt mỏi. Vì vậy, tơi khẳng định rằng công tác của giáo viên
chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là cực kì quan trọng, là nhân tố số một quyết định chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Đó là lí do tơi chọn để viết sáng kiến kinh nghiệm năm học này : “Kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp”. Tôi mong được chia sẻ và nhận được
những đóng góp chân tình từ các thầy giáo, cơ giáo.
II- PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH:
1/ Cơ sở lí luận:
Giáo viên khơng chỉ có nhiệm vụ truyền đạt tri thức cho học sinh mà cịn
có chức năng tác động tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách cho
các em. Công tác chủ nhiệm lớp là một nội dung về chuyên môn nghiệp vụ của
giáo viên tiểu học. Công tác chủ nhiệm quyết định chất lượng dạy và học của
giáo viên và học sinh. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã
hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo
đức cho học sinh. Đặc biệt trong nhà trường tiểu học, vai trò của người giáo viên
chủ nhiệm hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm là người quản lý, điều hành
lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh; là
cầu nối giữa ba mơi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng địi hỏi sự dày
cơng của người giáo viên bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội đang phát triển,
bởi tình hình cuộc sống vẫn đang tồn tại những tác động xấu đến học sinh, bởi
sự mưu sinh của gia đình nên khơng ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con
cái cho nhà trường. Chính vì vậy, người giáo viên phải có kiến thức sư phạm
cao. Đặc biệt phải có “ Kinh nghiệm trong cơng tác chủ nhiệm lớp ” mới có thể
nắm bắt hết đặc điểm tâm lý trình độ từng học sinh để có hướng giảng dạy và
giáo dục đạt kết quả tốt.
2 / Các biện pháp tiến hành:

Về việc nghiên cứu thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thống kê, phân loại, so sánh – đối chứng
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp giáo dục cá nhân
GV: Trần Thị Hằng Nga

3


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

- Phương pháp thực nghiệm
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi chỉ hướng vào công tác chủ nhiệm lớp
với 3 nội dung cơ bản sau đây:
1.Xây dựng nề nếp lớp học.
2.Xây dựng nội quy lớp học
3.Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
Đây là 3 công việc quan trọng mà tất cả các giáo viên chủ nhiệm lớp cần
phải làm.

I- MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
Ghi lại những biện pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết
thành kinh nghiệm của bản thân.
Chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong công tác
chủ nhiệm lớp.
II- MƠ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
Cơng việc của giáo viên chủ nhiệm lớp là vơ vàn khó khăn, không thể thống

kê hết được. Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tơi chỉ đi sâu vào 3 nội dung
chính sau đây:
1. Xây dựng nề nếp lớp học.
2. Xây dựng nội quy lớp học
3. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà.
Sau đây là các biện pháp tôi đã tiến hành:
1) Xây dựng nề nếp lớp học:
a) Nắm thông tin về học sinh ghi vào Sổ theo dõi chất lượng giáo dục.
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn
đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo
viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng
học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi thực hiện ngay công tác điều
tra thông qua phiếu sau đây. Tôi phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu
các em điền đầy đủ thông tin trong phiếu:

GV: Trần Thị Hằng Nga

4


Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa

ĐIỀU TRA THƠNG TIN CÁ NHÂN HỌC SINH
1. Họ và tên:…………………………Nam ( Nữ)……..Dân tộc:…….
2. Sinh ngày….tháng….năm….Nơi sinh………………………………
3. Chỗ ở hiện nay:................................................................................
4. Hộ khẩu thường trú:.........................................................................
5. Tình trạng sức khỏe:........................................................................
6. Có năng khiếu:................................................................................
7. Họ tên cha:......................................................................................

8. Nghề nghiệp:...................................................................................
9. Họ và tên mẹ:..................................................................................
10. Nghề nghiệp:..................................................................................
10. Số điện thoại liên hệ:......................................................................
11. Gia đình có mấy con:......................................................................
Là con thứ mấy:.................................................................................
12. Gia đình có hồn cảnh đặc biệt:.......................................................

Qua phiếu điều tra này, tôi nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng
học sinh để ghi vào Sổ theo dõi chất lượng giáo dục học sinh. Và quan trọng hơn
cả là tôi đã hiểu một phần về học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho tơi trong
công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
b) Tổ chức bầu Ban Cán sự lớp:
Việc bầu chọn và xây dựng đội ngũ Ban Cán sự lớp là một công việc rất
quan trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm ngay sau khi
nhận lớp mới. Năm học trước, Ban Cán sự lớp có thể là do giáo viên chọn lựa và
chỉ định học sinh làm hoặc giáo viên theo dõi các em trong quá trình học tập để
đưa ra quyết định chọn ban cán sự lớp. Nhưng lên lớp 2, tôi muốn tạo dựng và
rèn luyện cho các em thể hiện tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm đối với
tập thể, nên tôi tổ chức cho các em tự ứng cử mình. Tiến trình bầu chọn Ban Cán
sự lớp được diễn ra như sau:
- Trước hết, tơi phân tích để các em hiểu rõ về vai trò và trách nhiệm của
người lớp trưởng, lớp phó.
- Tơi khuyến khích các em xung phong ứng cử. Sau đó chọn 3 học sinh tiêu
biểu, nhanh nhẹn làm lớp trưởng, lớp phó học tập, và lớp phó lao động. Trong

GV: Trần Thị Hằng Nga

5



Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa

q trình học tập, tơi thường xun theo dõi xem em nào có đủ tố chất, đủ yêu
cầu có thể làm ban cán sự lớp tơi sẽ lựa chọn em đó.
Các em có tinh thần xung phong ứng cử mình làm ban cán sự lớp sẽ có tinh
thần trách nhiệm hơn, ln cố gắng hồn thành nhiệm vụ mà cơ giao.
c) Phân cơng nhiệm vụ cụ thể cho Ban Cán sự lớp:
Sau khi đã bầu chọn được Ban Cán sự của lớp, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho
từng em như sau:
* Nhiệm vụ của lớp trưởng:
- Theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp.
- Điểm danh và ghi sĩ số của lớp vào góc trên (bên phải bảng) ngay sau khi
xếp hàng vào lớp.
- Báo cáo sĩ số
- Hướng dẫn các bạn truy bài.
- Điều khiển các bạn xếp hàng vào lớp, xếp hàng chào cờ đầu tuần, xếp
hàng tập thể dục.
- Giữ trật tự lớp khi giáo viên chấm bài, khi giáo viên có việc phải ra khỏi
lớp và khi lớp dự lễ chào cờ đầu tuần.
- Nhắc nhở các bạn tổ trưởng kiểm tra bài tập về nhà, đồ dùng học tập trong
tổ hàng ngày.
* Nhiệm vụ của lớp phó học tập, lớp phó lao động:
- Cùng lớp trưởng tổ chức lớp truy bài 15 phút đầu giờ; giúp đỡ các bạn
học bài, làm bài.
- Làm mọi việc của lớp trưởng khi lớp trưởng vắng mặt hoặc nghỉ học.
- Phân công, theo dõi và kiểm tra các tổ trực nhật.
- Phối hợp với lớp trưởng, lớp phó học tập giữ trật tự lớp.
- Nhắc nhở các bạn giữ gìn vệ sinh trong lớp, trường
Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Ngồi ra, lớp trưởng và 2

lớp phó phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung.
Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, lớp trưởng, lớp phó báo
cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ vào báo cáo của từng em, tơi nắm được
khả năng quản lí lớp của từng em.
2) Xây dựng nội quy lớp học
Mỗi lớp học để đảm bảo nề nếp cần có nội quy riêng mà giáo viên chủ
nhiệm đề ra và yêu cầu học sinh thực hiện. Bên cạnh đưa ra nội quy lớp học
riêng, tơi sẽ khuyến khích, tạo mơi trường cho các con học tập tốt nhất, đặc biệt
tôi không tạo những áp lực cho các em.Thay vào đó tơi sẽ xây dựng phong trào
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ giáo dục và Đào tạo
phát động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đặc biệt là giáo dục đạo
GV: Trần Thị Hằng Nga

6


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

đức, nhân cách và kĩ năng sống cho học sinh. Qua nhiều năm thực hiện, phong
trào đã có sức lan tỏa mạnh mẽ cả chiều sâu lẫn chiều rộng, mang lại hiệu quả
thiết thực cho ngành giáo dục và cho xã hội. Muốn phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở mỗi trường đạt hiệu quả thì mỗi giáo
viên chủ nhiệm phải tích cực “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”.
Có nhiều “lớp học thân thiện, học sinh tích cực” thì mới có “trường học thân
thiện, học sinh tích cực”.
“Xây dựng lớp học thân thiện” là tạo ra mơi trường học tập thân thiện, an
tồn, gần gũi với học sinh, làm cho học sinh cảm thấy “mỗi ngày đến trường là
một niềm vui”. Để xây dựng được “lớp học thân thiện” thì sẽ có “học sinh tích
cực”. Tôi đã xây dựng được nội quy lớp học mang tính lớp học thân thiện, học
sinh tích cực, sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.

Công việc xây dựng nội quy lớp học được tôi tiến hành từng bước như sau:
a)Trang trí lớp học sạch- đẹp
Lớp học thân thiện phải luôn sạch sẽ, ngăn nắp và được trang trí đẹp, đảm
bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Do vậy, tơi hướng dẫn và cùng với học
sinh thực hiện các công việc sau đây:
- Trang trí lớp đẹp, hài hịa đảm bảo tính thẩm mĩ và tính giáo dục cao. Phần
trang trí lớp, tơi giao trực tiếp cho học sinh, mỗi bạn sẽ vẽ bức tranh theo chủ đề
tự chọn. Bức tranh nào đẹp sẽ được tuyên dương và dán vào góc học tập cuối
bảng lớp.
b) Nội quy lớp học:
NỘI QUY HỌC SINH
A .Kỉ luật, nề nếp:
1. Đi học đúng giờ, nghe hiệu lệnh trống xếp hàng tập thể dục. Nghỉ học
phải xin phép GVCN.
2. Duy trì nếp chào hỏi, lễ phép với người lớn, thầy cô.
3. Không mang tiền, đồ chơi, trang sức đến trường.
4. Lớp học phải sạch sẽ trong suốt buổi học, bàn ghế phải ngay ngắn,
khơng có học sinh xả rác bừa bãi.
5. Khơng đùa nghịch, chạy nhảy đá bóng trong lớp, trên hành lang và trên
cầu thang.
6. Mặc đồng phục theo đúng quy định của nhà trường.
B. Học tập:
1. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, sách vở trước khi đến lớp.
GV: Trần Thị Hằng Nga

7


Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa


2. Có ý thức tự giác, trung thực trong học tập
3. Giữ trật tự trong giờ học, sinh hoạt tập thể.
4. Làm bài đầy đủ theo đúng yêu cầu thầy cô giáo.
C. Lao động, vệ sinh:
1. Giữ vệ sinh chung, vứt rác đúng nơi quy định.
2. Đi vệ sinh đúng nơi quy định, nhớ xả nước sạch sẽ.
3. Xếp gọn ngăn bàn, nhặt rác trước khi ra về.
Hằng ngày, tôi nhắc nhở các em thực hiện đúng nội quy của lớp. Nhưng
bên cạnh đó tơi theo dõi q trình thực hiện nội quy của các em như thế nào.
Nhờ vậy, các em mới tự giác thực hiện, số lượng học sinh vi phạm nội qui của
nhà trường, của lớp ngày càng giảm dần.
- Trong mỗi tiết học, học sinh phải thể hiện tinh thần “tự quản” - tự theo
dõi lẫn nhau, nhắc nhở nhau giữ sạch lớp trong suốt buổi học và khơng nói
chuyện riêng trong lớp. Cuối giờ tôi đi kiểm tra tổ nào sạch nhất sẽ được tặng
bông hoa thi đua cho tổ mình.
- Vào giờ truy bài 15 phút, các bạn tổ trưởng, lớp trưởng, lớp phó kiểm tra bài
tập về nhà, đi học đúng giờ, đồ dùng học tập của các thành viên trong tổ, trong
lớp. Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên kiểm tra đột xuất nề nếp của học sinh
để có sự tuyên dương, khen thưởng kịp thời.
- Giáo viên chủ nhiệm đưa ra phương hướng phấn đấu cho các em, tổ nào
ngoan, có ý thức, khơng vi phạm lỗi nào sẽ được tặng bông hoa thi đua cho tổ
mình. Cuối tuần giáo viên dựa vào kết quả thi đua đó để có sự khen thưởng,
động viên, nhắc nhở kịp thời.

* Nề nếp xếp hàng ra vào lớp:
- Được tiến hành thường xuyên đầu buổi học và cuối buổi học hay các tiết Thể
dục, Thư viện....Điều này mang tính trật tự, kỉ luật cần được duy trì thường
xun và liên tục trong suốt năm học. Để làm tốt công tác này tôi đã tiến hành
từng bước như sau:
- Các em đi theo một hàng, bạn lớp trưởng đứng đầu, lớp phó đứng giữa hàng và

cuối hàng theo dõi thành viên trong lớp.
- Các em được xếp từ thấp đến cao, thời gian đầu giáo viên chủ nhiệm và cán bộ
lớp sắp xếp các con đúng vị trí. Sau một vài lần xếp chỗ các con nhớ vị trí của
mình và sắp xếp theo hàng.

GV: Trần Thị Hằng Nga

8


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

- Mỗi khi xếp hàng và đi theo hàng các bạn cán bộ lớp theo dõi và nhắc nhở các
bạn đi trật tự, không chen lấn, xô đẩy, đùa giỡn gây ảnh hưởng thi đua của lớp.

Lớp 2A2 xếp hàng ra về giờ tan học
c) Xây dựng mối quan hệ thầy - trò và bạn bè trong lớp
* Xây dựng mối quan hệ thầy- trò:
Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn - ban ơn; bề trên - kẻ dưới;
giảng giải - ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân cônghợp tác. Thầy thiết kế - trị thi cơng. Thầy làm mẫu, giao việc - trị làm theo mẫu
của thầy. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi
yêu cầu tơi đưa ra, học trị phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tơi u cầu
học trị phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng
mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không
phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tơi và học trị là quan
hệ hợp tác làm việc: tơi giao việc- học trị làm; tơi hướng dẫn- học trị thực hiện.
- Khi giao việc, tơi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách
làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế
GV: Trần Thị Hằng Nga


9


Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa

nào thì ý thức sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức kỉ luật
cũng đến nơi đến chốn.
- Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình
thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tơi ln chú ý đến cả cách đi đứng,
nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ,...để học trị noi theo.
Khơng vì bất cứ lí do gì mà tơi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xịa, qua loa
trước mặt học sinh.
- Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải đọc lại
và làm lại bài. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn cụ thể học sinh làm lại ngay tại lớp. Do
đặc điểm tâm lí học sinh tiểu học thường thích khen nhiều hơn, phê bình ít hơn.
Tôi khen ngợi những học sinh làm tốt để động viên tinh thần các cháu. Đối với
học sinh làm chưa tốt, tôi thường xuyên gọi lên bảng kèm và hướng dẫn thêm.
Nhờ thường xuyên lên bảng, sự giúp đỡ kịp thời của giáo viên mà các em trở
thành những con người tự tin hơn, hăng hái phát biểu hơn, lớp học sôi nổi hơn.
Đặc biệt các em sẽ trung thực, khơng gian dối.
- Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tơi ln cố gắng kiềm chế và tơn
trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo ngun nhân để có biện pháp giúp đỡ
các em sửa chữa. Tơi phân tích chỉ ra cho các con thấy mặt nào đúng, mặt nào
sai. Tuy nhiên các con mới là học sinh lớp 2 nên nhận thức chưa nhiều vì vậy
đối với việc làm chưa đúng tôi phải nghiêm khắc nhắc nhở trước tồn lớp để
những bạn khác khơng mắc phải.
Tơi biết có những em học chưa tốt hoặc có hơm khơng học bài, làm bài
nhưng lỗi khơng phải hồn tồn là do các em. Có em ham chơi nên quên học
bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc
khơng học bài làm bài là do những điều kiện khách quan. Vì vậy, đứng trước

một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không học bài, làm bài, tôi không phạt ngay
mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân.
Tôi nhẹ nhàng nhắc nhở, kèm thêm cho các em.
- Hàng ngày, tôi ln khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những
ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tơi cố tìm ra những ưu
điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng
không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hồn thiện
hơn.
- Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của
học sinh, tơi ln thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người
GV: Trần Thị Hằng Nga

10


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

thầy đối với học trị. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước
sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trị. Lịng nhân ái, bao dung, đức
vị tha của người thầy ln có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
Bên cạnh đó, giáo viên phải ln vui vẻ, niềm nở, khi nhìn giáo viên vui vẻ, học
sinh cũng sẽ vui hồn nhiên. Người giáo viên phải dễ gần để học sinh có thể nói
chuyện, để các em muốn hỏi điều gì có thể hỏi giáo viên được ngay. Giáo viên
biết yêu quý học sinh, ngay cả với những học sinh không phải học tốt nhất lớp.
“Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lịng nhân hậu, bao
dung, hết lịng vì học sinh thân u của mình. Có một người thầy như vậy thì
chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học.
- Tơi ln khuyến khích, động viên các em phải biết giúp đỡ bạn bè như khi
bạn ốm phải nghỉ học có thể giảng bài cho bạn, bạn quên bút sẵn sàng cho bạn
mượn....Tơi nhắc nhở các em biết nói lời cảm ơn khi ai đó giúp mình, phải biết

nói lời xin lỗi khi chúng ta gây ra lỗi với một người nào đó dù bất kể là ai. Nên
dù nhỏ tuổi, các con nhận thức rất tốt điều đó, lời “ cảm ơn – xin lỗi” dường như
là văn hóa đẹp của lớp tôi.
* Xây dựng mối quan hệ bạn bè:
Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình
ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy. Nếu các em có
nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đồn kết, gắn bó
thì tơi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập
thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc
chắn sẽ được nâng cao.
Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đồn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp
đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp
tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
- Tôi thường xuyên đổi chỗ các em, chia nhóm thảo luận trong giờ học để
các em có tinh thần đồng đội cùng giúp đỡ nhau trong học tập, có thể ngồi một
bạn giỏi với một bạn kém hơn để các em trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau theo phương
hướng “đôi bạn cùng tiến”.
- Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp.
Tôi gặp gỡ trao đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu
đi. Sau đó phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn.
Sau đó giảng hịa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại.
GV: Trần Thị Hằng Nga

11


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

d) Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành mạnh

Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trị chơi bổ ích là nhu cầu, là sở
thích của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt
tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi
mà học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một
cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gị bó đối với các em. Tổ chức
sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách,
bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động
tập thể cịn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau.
Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tơi có
thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh hoạt ngồi
giờ lên lớp.
* Tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thơng qua hoạt động
ngồi giờ lên lớp
Ở Tiểu học, giáo dục ngoài giờ lên lớp được qui định trong chương trình
chính khóa, khơng bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải lên tiết ngoài giờ lên lớp.
Nhưng nếu các hoạt động này chỉ diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì
sẽ mất rất nhiều thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ chức khơng khéo
léo thì sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ học. Do vậy, đối với những hoạt
động chiếm nhiều thời gian, cần nhiều sức lực, tôi tổ chức cho học sinh tham gia
mỗi tuần 1 buổi vào chiều thứ ba hàng tuần.
- Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trị chơi như: Rung
chng vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An tồn giao thông,..Nội dung
thi được tôi soạn bằng gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh mỗi lần
tham gia.
- Cuối tuần các em được tham gia sinh hoạt Sao do các anh chị Đội viên phụ
trách. Các em được trả lời câu đố vui, được chơi các trò chơi dân gian.
Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi
cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan
trọng là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học
sinh tích cực. Sĩ số của lớp tơi ln đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh .

e) Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức

GV: Trần Thị Hằng Nga

12


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Từ đầu năm học, GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể
trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong
trào chung của nhà trường như: Nét chữ, nết người, Vẽ tranh, tham gia Olym pic
toán,....
- Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh
về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội họa.
- Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học
sinh có năng khiếu nói trên cho các em tham gia hoạt động nhà trường.
- Khuyến khích, khen thưởng những học sinh nào có tinh thần hăng hái tham gia
f) Nêu gương và khen thưởng
- Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen,thích được
động viên nên tơi hướng dẫn Ban cán sự gồm có bạn lớp trưởng, 2 bạn lớp phó
và 4 bạn tổ trưởng lớp lập bảng tổng kết số bông hoa thi đua trong tuần.
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ
huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào
học tập, tích cực tham gia các phong trào khác như sau:
+ Xếp loại tổ: Tổ nào đạt nhiều bông hoa thi đua, xếp thứ nhất sẽ được món
quà chung cả tổ.
+ Xếp loại cá nhân: Mỗi tuần tặng 1 cục tẩy ( hoặc thước kẻ, bút chì…) cho
mỗi học sinh đạt số điểm tốt cao nhất tổ.
+ Tặng một phần quà cho học sinh đạt phong trào nhà trường đề ra.

- Sau mỗi tuần thi đua bầu chọn một học sinh tuyên dương trước lớp về mọi
mặt và nhận thưởng.
- Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần
mới được nhận thưởng lại( nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)
- Đặc biệt chú ý đến học sinh chậm trong học nhưng có tiến bộ vẫn được
khen thưởng.
g) Phối hợp với gia đình:
- Đầu năm, tôi phát cho mỗi em 01 quyển vở Dặn dị mục đích ghi những u
cầu của cơ giao cho học sinh. Trong ngày bạn nào ngoan, có ý thức tốt sẽ được
cô khen và thông báo cho phụ huynh. Nếu bạn nào vi phạm lỗi: nói chuyện, đi
học muộn, đi dép lê tôi ghi lại vào vở để phụ huynh nắm được tình hình của con
mình để kịp thời nhắc nhở.
3) Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà

GV: Trần Thị Hằng Nga

13


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Một học sinh muốn có kết quả học tập tốt ngồi việc tiếp thu những kiến
thức ở trên lớp thôi chưa đủ mà việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới tại nhà cũng
vô cùng quan trọng. Trong khi đó, tơi thấy điều kiện gia đình, khơng gian sống
của học sinh cũng như nhận thức của cả phụ huynh lẫn học sinh chỉ dừng lại ở
nhận thức học tại lớp là đủ.Và điều này làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học
tập của các em. Muốn học sinh tự học ở nhà có kết quả thì các em phải có góc
học tập và mỗi em phải có phương pháp tự học ở nhà. Về phương pháp học tập,
tơi có thể hướng dẫn cho từng em. Nhưng cịn góc học tập thì gia đình phải làm
cho con em của mình.

Để biết được số học sinh có góc học tập hay khơng, tơi tiến hành điều tra
qua học sinh, qua phụ huynh, qua bạn bè gần nhà của học sinh. Nhưng để biết
chính xác , tơi phải đến từng nhà học sinh để tìm hiểu. Qua tìm hiểu, tơi biết
được lớp tơi có 14 em có góc học tập phù hợp, 6 em có góc học tập nhưng chưa
đạt yêu cầu ( chỗ đặt chưa phù hợp; độ rộng, chiều cao của bàn ghế chưa phù
hợp với tầm vóc của các em) ; 2 em khơng có góc học tập, khi học các em phải
nằm sấp trên giường hoặc trên sàn nhà, còn sách vở thì các em để lên giường
hoặc trên nóc tủ ti vi.
Đối với những em có góc học tập nhưng chỗ đặt chưa phù hợp, tôi trao đổi
với phụ huynh sắp xếp lại vị trí sao cho sáng sủa và thống mát về ban ngày, đầy
đủ ánh sáng về ban đêm. Tôi hướng dẫn học sinh cách sắp xếp tập vở, đồ dùng
học tập ngăn nắp, tiện lợi và trang trí góc học tập bằng cách cắt gấp những bơng
hoa, lọ hoa bằng giấy để trưng bày và những cái hộp xinh xinh để đựng đồ dùng.
Đối với những em chưa có góc học tập, tơi giải thích, động viên để gia đình
hiểu rằng góc học tập là nơi để các em học bài, nghiên cứu bài và làm bài tập ở
nhà. Có góc học tập sẽ giúp các em hứng thú và có y thức cao hơn trong việc
học ở nhà. Ngồi ra, góc học tập cịn là nơi để các em rèn luyện tính cẩn thận,
ngăn nắp và phát triển óc thẩm mĩ của bản thân. Phụ huynh chỉ cần mua cho con
em của mình một cái bàn và một cái nghế nhựa (như kiểu bàn ghế ở các quán
nước nhỏ) hoặc mua một cái bàn nhỏ theo kiểu để trong mùng học cho khỏi bị
muỗi đốt.
Sau một khoảng thời gian nhất định, tôi lên kế hoạch kiểm tra cụ thể để nắm
chính xác tình hình. Chỉ trong 1 buổi tơi đã đi hết tất cả các gia đình những em
chưa có góc học tập hoặc có góc học tập nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Lúc đầu,
có phụ huynh cịn e ngại, thậm chí cịn bảo tơi bày vẽ. Nhưng thấy tơi quan tâm
và hết lịng vì học sinh nên dần dần phụ huynh cũng hiểu ra và nhiệt tình hưởng
ứng. Hồn cảnh của một số gia đình học sinh còn rất nghèo nhưng phụ huynh
cũng đã cố gắng tạo cho con em mình một góc học tập ở nhà. Tuy chưa đáp ứng
được đầy đủ các yêu cầu song quan trọng là các em đã có chỗ để học, không
phải nằm sấp trên sàn, trên giường nữa. Và phụ huynh cũng thấy được tầm quan

trọng của việc tự học ở nhà của con em mình, phối hợp với tôi trong việc dạy dỗ
và giáo dục các em nên người.
Khi các em đã có góc học tập, tơi yêu cầu mỗi em phải lập thời gian biểu
buổi chiều và buổi tối thật cụ thể, phù hợp với tình hình của gia đình và phải
được cha mẹ kí xác nhận. Thơng qua thời gian biểu, tơi biết được chính xác thời
GV: Trần Thị Hằng Nga

14


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

gian học bài ở nhà của từng em. Sau đây là mẫu thời gian biểu tôi làm mẫu để
hướng dẫn học sinh trong những buổi không học ở trường tự học ở nhà như sau:
THỜI GIAN BIỂU
Thời gian
1 giờ chiều
1 giờ 30 – 3 giờ
3 giờ - 4 giờ
4 giờ - 5 giờ
5 giờ - 7 giờ
7 giờ - 8 giờ
8 giờ - 9 giờ

Công việc
Thức dậy.
Học bài: học bài cũ và xem trước bài mới.
Làm việc nhà giúp đỡ cha mẹ.
Đi chơi thể thao.
Tắm rửa, ăn tối, chị chuyện với gia đình.

Ơn lại bài cũ.
Xem ti vi rồi đi ngủ.

Căn cứ và thời gian học bài ở nhà của từng em, tôi đi kiểm tra, hướng dẫn
các em tự học ở nhà. Việc kiểm tra các em học bài ở nhà được tôi thực hiện đều
đặn và duy trì thường xuyên.
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG:
Trong 2 năm học qua, tuy trường tôi là trường vùng sâu, vùng xa của huyện,
lớp tôi vẫn duy trì sĩ số 100%, học sinh lên lớp thẳng đạt 100% . Sau đây là kết
quả 2 năm học vừa qua tôi chủ nhiệm lớp 2:
* Năm học 2015-2016:
+ Duy trì sĩ số 20/12 đạt 100/%.
+ Học sinh lên lớp thẳng đạt 100/%.
+ Đạt 2 học sinh tham gia thi Olympic Toán cấp tỉnh (Nguyễn Võ Ngọc
Trân, 1 học sinh Đào Nguyễn Phương Dung đạt giải Nhất tham gia thi Nét chữ
nết người ở trường.
* Năm học 2016-2017:
+ Duy trì sĩ số 22/13 đạt 100/%.
- Khơng có học sinh bị trách phạt trước tồn trường; học sinh đến trường ln
đảm bảo an toàn cả trong giờ học lẫn giờ chơi; khơng có học sinh gây gổ đánh
nhau trong và ngồi nhà trường, khơng có học sinh bị tai nạn giao thông.
- Đồ dùng dạy học và bàn ghế của lớp suốt 2 năm qua ln được bảo quản
tốt, khơng có tình trạng hư hao, mất mát như những lớp khác.
- 100% học sinh lớp đều tích cực tham gia các buổi sinh hoạt tập thể.
IV– Lợi ích kinh tế, xã hội:
Sáng kiến kinh nghiệm của tôi là những biện pháp tơi đã làm cũng rất đỗi
bình thường. Nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm
này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày
càng chăm ngoan. Điều đó làm tơi rất vui mừng và vơi đi những vất vả, mệt
nhọc. Tình cảm thầy- trị, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện .


GV: Trần Thị Hằng Nga

15


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Bản thân giáo viên khi thấy lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình đề
ra là một sự thành cơng lớn. Nhìn các em vui khi nhận phiếu thưởng, quà tặng;
thấy các em hăng hái thi đua học tốt, tích cực hoạt động phong trào tôi thực sự
thấy hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn khởi của phụ
huynh học sinh . Đó chính là thành quả to lớn nhất mà người giáo viên nào cũng
mong muốn đạt được.

Theo tôi, muốn trở thành một nhà sư phạm, một giáo viên chủ nhiệm lớp
giỏi, khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong việc giáo dục học sinh
thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu
rõ hồn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen,...của từng
học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp.
- Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Ban Cán sự lớp, huấn luyện để các em
trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài ba.
- Phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu về nghệ thuật (vẽ, hát, múa, làm hoa…)
sẽ tăng thêm sự tự tin vào khả năng của chính bản thân mỗi học sinh.
- Ln giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ
thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp
tình, hợp lí; tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu
niềm tin vào người thầy.
- Ln biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những ưu

điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao, có
niềm tin và hứng thú học tập hơn.
- Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy
đối với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người
thầy ln có một sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh.
- Sáng tạo và đổi mới trong các hình thức rèn luyện, thi đua, giáo dục tạo
hứng thú mới mẻ cho học sinh và làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy “mỗi
ngày đến trường là một niểm vui.
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh; kiên trì vận động phụ huynh tích
cực tham gia vào cơng tác giáo dục học sinh.

GV: Trần Thị Hằng Nga

16


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

- Thực sự coi các em như con của mình để có thể giáo dục các em bằng chính
cả tấm lịng, tình u thương và tinh thần trách nhiệm.
Giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo không ngừng, sự
sáng tạo đó địi hỏi phải tồn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các
hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện
pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có
những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương u học sinh của
mình thì mới có thể hồn thành tốt nhiệm vụ. Là một giáo viên trẻ, tôi ln cố
gắng phấn đấu với lịng nhiệt huyết của tuổi trẻ, lịng u nghề, mến trẻ. Tơi nỗ
lực tìm tịi và học hỏi kinh nghiệm của thế hệ đi trước để ngày một hồn thiện
hơn góp phần nhỏ bé cơng sức vào sự nghiệp giáo dục.


GV: Trần Thị Hằng Nga

17


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Phước Hòa, ngày 26 tháng 11 năm 2016
Người viết :

Trần Thị Hằng Nga

NHẬN XÉT CỦA HĐXD SKKN
TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 1 PHƯỚC HÒA
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
GV: Trần Thị Hằng Nga

18


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

NHẬN XÉT CỦA HĐXD SKKN
PHÒNG GD – ĐT TUY PHƯỚC
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
................................................................................................................................

GV: Trần Thị Hằng Nga

19


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Sáng kiến kinh nghiệm của tôi là những biện pháp tôi đã làm cũng rất đỗi bình
thường. Nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, tôi
thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng
chăm ngoan. Điều đó làm tôi rất vui mừng và vơi đi những vất vả, mệt nhọc.
Tình cảm thầy- trị, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện .
Bản thân giáo viên khi thấy lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình
đề ra là một sự thành cơng lớn. Nhìn các em vui khi nhận phiếu thưởng, quà
tặng; thấy các em hăng hái thi đua học tốt, tích cực hoạt động phong trào tôi
thực sự thấy hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn khởi của
phụ huynh học sinh . Đó chính là thành quả to lớn nhất mà người giáo viên nào
cũng mong muốn đạt được. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi là những biện pháp
tôi đã làm cũng rất đỗi bình thường. Nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan.
Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến

bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tơi rất vui mừng và vơi đi
những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trị, bạn bè ngày càng gắn bó và thân
thiện .
Bản thân giáo viên khi thấy lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình
đề ra là một sự thành cơng lớn. Nhìn các em vui khi nhận phiếu thưởng, quà
tặng; thấy các em hăng hái thi đua học tốt, tích cực hoạt động phong trào tôi
thực sự thấy hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn khởi của
phụ huynh học sinh . Đó chính là thành quả to lớn nhất mà người giáo viên nào
cũng mong muốn đạt được.Sáng kiến kinh nghiệm của tôi là những biện pháp
tôi đã làm cũng rất đỗi bình thường. Nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan.
Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến
bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tơi rất vui mừng và vơi đi
những vất vả, mệt nhọc. Tình cảm thầy- trị, bạn bè ngày càng gắn bó và thân
thiện .
Bản thân giáo viên khi thấy lớp mình đạt được những mục tiêu mà mình
đề ra là một sự thành cơng lớn. Nhìn các em vui khi nhận phiếu thưởng, quà
tặng; thấy các em hăng hái thi đua học tốt, tích cực hoạt động phong trào tôi
thực sự thấy hạnh phúc, thấy vui cùng niềm vui của các em và sự phấn khởi của
phụ huynh học sinh . Đó chính là thành quả to lớn nhất mà người giáo viên nào
cũng mong muốn đạt được.

GV: Trần Thị Hằng Nga

20


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
1) Thực trạng của vấn đề:

Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các
em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn
trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một
phân mơn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn
hẹp. Bên cạnh đó cịn có một số khó khăn khách quan như điều kiện, hoàn cảnh
sống của học sinh ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình khơng có điều kiện
để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá
chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập
nói chung, học phân mơn Tập làm văn nói riêng.
2)Ý nghĩa và tác dụng :
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em đựơc làm
quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn. Trong q trình làm bài,
tơi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu.
Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết khơng đúng yêu cầu
của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế
nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tơi ln cố gắng
để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp
mình. Đây là lý do tơi chọn và áp dụng “Kinh nghiệm viết đoạn văn trong
môn tập làm văn lớp 2”. Sau đây, tơi xin trình bày một số giải pháp mà bản
thân đã đúc kết được trong thời gian qua.
II- PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH:
1 . Cơ sở lí luận :
Ngơn ngữ dưới dạng viết giữ vai trị quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh học tốt phân mơn Tập làm
văn là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng
dạy mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng.
Như chúng ta đã biết, Tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu
học. Nếu học sinh viết tốt bài Tập làm văn, đủ số lượng câu, đủ ý, diễn đạt rõ
ràng, hấp dẫn người đọc thì học sinh đó có điều kiện học tập tốt hơn môn Tiếng

Việt và nhờ vậy mà kết quả học tập sẽ đạt cao hơn. Vì vậy, việc dạy học sinh
viết tốt một đoạn văn ngay từ còn ở những lớp nhỏ cũng là xây dựng cho các em
một nền móng vững chắc để tạo hứng thú hơn trong việc học Tập làm văn cũng
như trong việc học tốt môn Tập làm văn các lớp sau này. Hơn thế nữa, học tốt
phân môn Tập làm văn sẽ học tốt hơn mơn Tiếng Việt. Đó cũng chính là rèn cho
các em sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ,
các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nên nhân cách của con người.
GV: Trần Thị Hằng Nga

21


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Thật vậy, trong quá trình cơng tác, tơi nhận thấy, dạy học sinh viết văn hay
sẽ góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Ta dạy cho các em viết
đúng yêu cầu, viết đủ số lượng câu, viết gọn, rõ ràng, mạch lạc và sáng tạo là
góp phần rèn luyện cho các em ý thức học tập, tính kỷ luật, tính cẩn thận, thận
trọng trong cơng việc, lịng tự tin của bản thân… Đồng thời, học tốt mơn Tập
làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác nhằm thực hiện
đúng mục tiêu đề ra nhằm đào tạo con người mới.
2- Cơ sở thực triễn định hướng cho việc nghiên cứu:
Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nơng thơn, điều kiện kinh tế
khó khăn nên việc học của các em ít được phụ huynh quan tâm. Do vậy, gây
khơng ít khó khăn cho giáo viên, địi hỏi người giáo viên phải tìm mọi cách để
giúp đỡ các em. Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm,
tôi nhận thấy rằng, muốn học sinh viết hay đoạn văn, trước hết học sinh phải
viết đúng yêu cầu và nhận thức được tầm quan trọng của mơn Tập làm văn.
Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp đúc rút từ kinh
nghiệm của bản thân về việc giúp học sinh viết đoạn văn để cùng trao đổi với

đồng nghiệp, hi vọng sẽ góp một phần nhỏ bé của mình đem lại kết quả khả
quan cho học sinh. Để từ đó, giúp các em học sinh lớp 2 ngày càng viết văn hay
trong phân mơn Tập làm văn hơn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của
quá trình giáo dục.
Trong thực tế hiện nay, việc rèn cho học sinh viết đoạn văn hay chưa được
giáo viên chú tâm nhiều. Bên cạnh đó, nhiều học sinh khi viết bài cịn viết bừa,
viết cẩu thả, khơng đúng u cầu, viết lan man, khơng đủ số câu, sai ý, trình bày
ý lộn xộn, thiếu tự nhiên, sai nhiều chính tả, … Hơn thế nữa, một số em thiếu tự
tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn đến hậu quả là các em chán nản, thiếu quyết
tâm trong học tập. Để khắc phục tình trạng này, địi hỏi người giáo viên phải có
kinh nghiệm và sáng tạo trong giảng dạy, phải thật kiên trì và nhẫn nại, giúp học
sinh nhận thức được tầm quan trọng của mơn học. Từ đó, giáo dục cho các em ý
thức rèn luyện bài viết của mình đạt yêu cầu cao hơn.
Khảo sát tình hình lớp khi chưa áp dụng đề tài như sau:
Sĩ số: 22 học sinh ở lớp 2B1
TSHS

Hoàn thành bài văn

Hoàn thành bài văn

tốt
22

TS
5

%
22,7 %


TS
17

%
77,3 %

Nếu vận dụng tốt một số giải pháp mà tơi đưa ra dưới đây thì “ Kinh
nghiệm viết một đoạn văn trong Tập làm văn ” sẽ đem lại nhiều kết quả khả
quan hơn. Từ đó, rèn luyện cho các em tính cẩn thận, thận trọng trong cơng việc,
lịng tự tin của bản thân. Đồng thời, phân môn Tập làm văn chính là cơ sở, là
nền tảng để giúp các em học tốt các môn học khác.

3) Các biện pháp tiến hành:
GV: Trần Thị Hằng Nga

22


Trường Tiểu học số 1 Phước Hòa

Để giúp HS học tiết Tập làm văn viết đoạn văn theo yêu cầu của đề bài, tôi
thường áp dụng những phương pháp sau:
Vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
a) Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo
gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo
viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật
của đối tượng, mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên
cạnh đó, tơi cũng hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm
nhận một cách có cảm xúc về sự vật.

b) Phương pháp thực hành giao tiếp
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói,
trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều
chỉnh giúp học sinh hồn thiện bài viết. Với phương pháp này, tơi thường tổ
chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm (HS có thể kết nhóm
theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong
nhóm).
c) Phương pháp phân tích ngơn ngữ
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thơng qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng
cường sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập
làm văn. Sử dụng phương pháp này để giáo viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra
cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ
hiểu.
Ví dụ:
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là
gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết những
vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm gì?/
Như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết
câu.
d) Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập
làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa
chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử
dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp
thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.

Ví dụ:
Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm khác nhau,
Giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là thầy
giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của
em đối với với cha mẹ, ơng bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của
GV: Trần Thị Hằng Nga

23


Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa

mình đối với bạn bè; viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa
như: bình minh, hừng đơng, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đồn tụ,
sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay
gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa… Giáo viên cần chuẩn bị
kỹ với mỗi bài để hướng dẫn học sinh vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài
viết.

I – MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:
Bài văn viết ra bao giờ cũng hướng tới đối tượng người đọc, người nghe
cụ thể với những nội dung và mục đích cụ thể. Khơng thể có một bài văn viết
chung chung, khơng rõ đối tượng, khơng rõ nội dung và mục đích giao tiếp. Nếu
như trong việc dạy câu, việc đánh giá câu đúng, câu sai đã vừa cần phải chú ý
đến quy tắc ngôn ngữ, vừa cần phải chú ý đến quy tắc giao tiếp, thì ở bậc bài
văn, bậc văn bản lại càng cần phải như thế. Lúc này, việc đánh giá toàn bộ chất
lượng bài văn viết ra là ở chỗ có sự phù hợp với giao tiếp hay không, chứ không
phải ở một vài điểm đúng sai mang tính chất bộ phận trong từ, trong câu.
Những bài văn có sự phù hợp cao với đối tượng, nội dung và mục đích giao tiếp
là những đoạn văn hay.


II – MƠ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
1- Thuyết minh tính mới của đề tài:
1.1 ) Về kỹ năng
Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá
nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để
viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.
a) Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ.
Giáo viên có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn
bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học
khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài khơng có câu hỏi gợi ý, giáo
viên có thể soạn, cung cấp cho các em.
Ví dụ:
ư Bài viết về một người thân:
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm cơng việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
ö Bài viết về một loại quả:
- Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở đâu?
- Hình dáng bên ngoài ra sao? Bên trong như thế nào?
- Vì sao em thích loại quả ấy?
ư Bài viết về một lồi hoa:
- Lồi hoa ấy có tên là gì? Em đã thấy ở đâu?
GV: Trần Thị Hằng Nga

24



Trường Tiểu học số 1 Phước Hịa

- Hoa có những đặc điểm gì ( màu sắc, các bộ phận: cánh hoa, nhụy, hương
thơm…)
- Vì sao em thích lồi hoa ấy?
ư Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm:
- Em (hoặc bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em (hoặc bạn ấy) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm (hoặc thấy bạn làm) việc tốt đó?
ư Bài viết kể về gia đình em:
- Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai?
- Kể từng người trong gia đình em.
- Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
- Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
b) Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết(Có thể diễn đạt bằng một
câu).
- Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có
thể diễn đạt 2, 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì? Nó sống ở đâu?
- Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật? Nó đem lại lợi ích gì?
- Tình cảm của em đối với con vật đó?
Câu mở đầu: Giới
thiệu con chó


Nhà em có ni một con chó tên là Ki Ki.

Phát triển: Kể về con
Nó có bộ lơng màu vàng mượt như tơ. Đơi
chó
mắt của nó rất sáng và đôi tai vểnh lên trông
mới đáng yêu làm sao! Nó thường nằm
trước cửa để giữ nhà.
Câu kết thúc: Tình
Hằng ngày, em thường cho nó ăn. Em rất
cảm của em đối với yêu quý con chó của nhà em.
con chó này.
Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm
các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ
động hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Khơng nên áp
đặt và địi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình
GV: Trần Thị Hằng Nga

25


×