Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN GIÁ TRỊ lý LUẬN và THỰC TIỄN của tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc, sự vận DỤNG của ĐẢNG TA TRONG xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.52 KB, 28 trang )

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH BỔ SUNG VÀ LÀM PHONG PHÚ THÊM
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC

Sự phát triển lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa thực dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô cùng quý báu của Đảng và nhân dân
ta. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng là một hiện tượng
hợp quy luật. Giá trị đích thực của quá khứ luôn luôn là bài học kinh nghiệm
soi sáng nhận thức và hành động cho chúng ta hôm nay nhằm thực hiện một
xã hội trong tương lai hợp với lôgíc phát triển của lịch sử. Do đó, việc nhận
thức sâu sắc ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc chính là sự trân trọng, bảo vệ, học tập, không ngừng
bổ sung và phát triển di sản đó, làm cho tư tưởng của Người luôn luôn có sức
sống mãnh liệt trong thực tiễn sinh động của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Điểm sáng tạo trước tiên của Hồ Chí Minh là nghiên cứu, tìm hiểu, nắm
vững bản chất, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Hồ Chí Minh đã khảo sát thực
tiễn kết hợp nghiên cứu sách báo, để nhận dạng kẻ thù trực tiếp của dân tộc
Việt Nam là chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai, từ đó đi đến
những nhận thức sâu sắc, toàn diện về chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh nghiên cứu chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc với tư
cách một người dân mất nước, là nạn nhân trực tiếp của chủ nghĩa thực dân
Pháp, để tìm hiểu “kẻ thù” của dân tộc mình, đất nước mình, để tìm con
đường “chống chủ nghĩa thực dân”, và cứu dân, cứu nước.
Những bài viết, bài nói của Người trong thời kỳ từ 1916 – 1925 đều tập
trung vào mục đích.



2
- Tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị
áp bức, bóc lột, nhận rõ kẻ thù, khắc phục tình trạng mơ hồ về “chính sách
khai hoá” của chủ nghĩa thực dân, và tình trạng an phận, cam chịu trước sức
mạnh bạo lực của kẻ xâm lược thống trị v.v..
Nêu rõ vai trò, vị trí của thuộc địa đối với chính quốc và chính sách đế
quốc chủ nghĩa đối với các thuộc địa phụ thuộc, khắc phục tình trạng thờ ơ
của giai cấp vô sản chính quốc đối với các thuộc địa. Đặt rõ trách nhiệm của
Đảng Cộng sản chính quốc và Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề thuộc địa.
Những vấn đề Hồ Chí Minh đề cập đến hết sức phong phú và có tính
thuyết phục cao. Đó chính là sự đóng góp lớn vào nhận thức chủ nghĩa thực
dân mà có lẽ cho đến lúc bấy giờ chưa ai đề cập đến.
Trước tiên Người vạch rõ tính chất dã man, tàn bạo của chủ nghĩa thực
dân: Lịch sử bất cứ cuộc xâm chiếm thuộc địa nào, thì từ đầu đến cuối đều
được viết bằng máu của người bản xứ. Đồng thời là ăn cướp, là hiếp dâm, là
giết người. Công cuộc khai hoá của chủ nghĩa thực dân rút cục lại là sưu thế,
lao dịch, bóc lột nặng nề. Sau những cuộc tàn sát thẳng tay thì chính những
chế độ lao dịch, khuân vác, lao động khổ sai, rượu cồn, bệnh giang mai tiếp
tục hoàn thành nốt công cuộc tàn phá của sự khai hoá, “lòng nhân đạo” của
chủ nghĩa thực dân không nằm ngoài mục đích thị trường, cạnh tranh lợi tức,
đặc quyền”1. Hồ Chí Minh còn vạch rõ những thủ đoạn bóc lột, đàn áp của
chủ nghĩa thực dân: chiếm đất, cướp đất, lấn đất; độc quyền rượu cồn, thuốc
phiện; đủ mọi thứ sưu cao, thuế nặng: thuế chợ, thuế thân (thứ thuế được làm
dân thuộc địa, buộc mọi người từ 18 tuổi trở lên phải đóng) và nhất là: thuế
máu”; chính sách ngu dân: nhà tù, đại lý rượu, thuốc phiện nhiều hơn trường
học; chính sách phân biệt chủng tộc, công lý của giai cấp thống trị, chính sách
chia để trị. Trừ những tội ác, những thủ đoạn bóc lột, đàn áp tàn bạo. Người
khái quát: “Cái chủ nghĩa thực dân này đã lạm dụng danh tiến tốt của nước
Pháp để bắt chúng tôi chịu những tai hoạ lớn như thế nào: phu sai, tạp dịch,


1

Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, T.1, tr.46 – 138.


3
thuế má nặng nề, không một phút tự do, khủng bố không ngớt, khổ cực tinh
thần và vật chất, bóc lột tàn nhẫn...”1.
Điều cực kỳ quan trọng là Hồ Chí Minh đã thấy rõ mối quan hệ giữa
chính quốc và thuộc địa, cả về phía những kẻ bóc lột, thống trị, cả về phía
nhân dân lao động. Đối với chủ nghĩa tư bản người quốc tế đều lấy ở các xứ
thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó,
nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của
nó, và nhất là tuyển những binh lính người bản xứ cho các đạo quân phản
cách mạng của nó”2 và “Ngày nay chủ nghĩa đế quốc đã tiến tới một trình độ
hoàn bị gần như là khoa học. Nó dùng những người vô sản da trắng để chinh
phục những người vô sản các thuộc địa. Sau đó nó lại tung những người vô
sản ở một thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở một thuộc địa khác.
Sau hết, nó dựa vào những người vô sản ở các thuộc địa để thống trị những
người vô sản da trắng”3.
Về phía giai cấp công nhân Pháp, Hồ Chí Minh nhận định: Điều mà giai
cấp công nhân Pháp không thể biết đến là chủ nghĩa tư bản dựa vào thuộc địa
để chống lại tất cả mọi phong trào giải phóng mà giai cấp công nhân pháp
định mưu đồ. Do đó, Người muốn tất cả công nhân ở chính quốc cần phải biết
rõ thuộc địa là gì? Phải biết những gì đã xảy ra ở các thuộc địa, phải biết rõ
nỗi đau khổ mà những người anh em vô sản ở thuộc địa đang chịu đựng đau
khổ gấp ngàn lần nỗi đau khổ của họ. Người lấy là tiếc, vì “một số đông chiến
sĩ vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và
trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thế. Và họ

hoàn toàn không để ý gì đến”4.
Từ những chứng cứ trên. Người đi đến kết luận nổi tiếng về quan hệ gắn
bó giữa chính quốc và thuộc địa, phong trào cách mạng ở chính quốc và
phong trào cách mạng ở thuộc địa: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một
cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.T4, tr.65.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, T1, tr.243, 246.
4
Sđd, tr.63.
2, 3


4
giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi
bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”1. Điều đó, Người muốn chỉ cho chúng ta một cách
sâu sắc rằng, chủ nghĩa tư bản muốn tồn tại phải dựa vào hai nơi để bóc lột.
Thiếu một trong hai nơi đó nó không tồn tại được. Và như vậy, cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc phải cùng
tiến công ở hai đầu: “một đầu ở chính quốc, một đầu ở thuộc địa, thì cách
mạng mới sẽ giành thắng lợi. Cách mạng vô sản ở chính quốc có tác dụng
công phá ngay tận sào huyệt của chủ nghĩa đế quốc, còn cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa lại có tác dụng đánh vào các hậu cứ của nó” 2. Đó là
mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại giữa cách mạng của giai cấp vô sản
ở các nước đế quốc với cách mạng của các dân tộc thuộc địa, hình thành một
mặt trận chung chống chủ nghĩa đế quốc, giải phóng giai cấp vô sản và các
dân tộc bị áp bức.

Đến nay, rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà hoạt động chính trị - xã hội
đánh giá cao sự đóng góp của Hồ Chí Minh về vấn đề thuộc địa và vấn đề
chống chủ nghĩa thực dân. Giáo sư Nhật Bản Singô Sibata, đánh giá rằng,
cống hiến to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là đã góp phần đào sâu và
phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Ông đã thừa nhận ở Hồ Chí Minh trong lĩnh vực này, điều
đặc biệt cần phải nói là những lời tố cáo sự tàn ác của bọn thực dân đã
đưa lên đỉnh cao mới, với những bằng chứng cụ thể, hơn bất cứ tài liệu
nào trước đây về những vấn đề đó... Và những cống hiến của Hồ Chí
Minh đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong hệ thống lý luận về vấn
đề dân tộc và thuộc địa. Cuối cùng Giáo sư Singô Sibata công nhận: “Đọc
các tác phẩm của Hồ Chí Minh, tôi thấy các tác phẩm ấy đã phát triển lý

1

Sđd, tr.298.
Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992,
tr.177.
2


5
luận không theo một cách uyên bác xa xôi, viết bằng những lời lẽ giản
đơn và những câu ngắn gọn” 1.
Ginbe Hađátsơ đã viết: “Hồ Chí Minh nhà lý luận xuất sắc về chủ nghĩa
thực dân và phong trào giải phóng dân tộc. Những điều mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh nghiên cứu về chủ nghĩa thực dân là một công trình đồ sộ. Những suy
nghĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề thuộc địa cấu thành một công
trình độc nhất vô song; sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đến lúc đó vượt hẳn tất cả những gì mà những nhà lý luận mácxít

đề cập đến”2.
Cố Tổng Bí thư Trường Chính, người học trò trung thành và người kế
tục xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Suốt đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chiến đấu không mệt mỏi để giành chính quyền độc lập, tự do cho
dân tộc mình và quyền độc lập, tự do cho các dân tộc khác trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành nhiều tâm sức nghiên cứu vấn đề cách
mạng thuộc địa, vấn đề sống còn của dân tộc Việt Nam và các dân tộc
thuộc địa khác trong thế kỷ XX. Người đã vận dụng một cách sáng tạo, làm
phong phú thêm và phát triền học thuyết của Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa”.3
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của chủ nghĩa thực dân
quan hệ giữa các thuộc địa và chính quốc chứa đựng nhiều phát hiện mới mẻ
làm cơ sở cho việc xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng
giải phóng dân tộc.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Vấn đề quan hệ giữa dân tộc và giai cấp là vấn đề rất lớn, rất phức tạp, tế
nhị và có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định chiến lược và sách lược
cách mạng. Nó còn liên quan đến những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, và
là vấn đề thời sự nóng hổi hiện nay.
1 ,2
3

. Xem: Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại, Nxb. Lao động và Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.58,63
Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr.174


6
Giải quyết vấn đề đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trước hết phụ thuộc
vào thế giới quan, phương pháp luận, đồng thời còn chịu sự chi phối của điều

kiện thực tế và xu hướng vận động của lịch sử.
Mác - Ăngghen hoạt động trong thời đại chủ nghĩa tư bản đang lên, mâu
thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Do đó, Mác - Ăngghen đặt vấn đề dân tộc phụ thuộc vào vấn đề giai cấp. Hai
ông đã bác bỏ luận điệu buộc tội những người cộng sản là xoá bỏ Tổ quốc,
xoá bỏ dân tộc. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản viết: “.... Giai cấp vô sản mỗi
nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp
dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái
nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” 1 và khi “xoá bỏ tình trạng người bóc lột người
thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ”2.
Như vậy, Mác – Ăngghen nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các
dân tộc tư sản phương Tây gắn với luận điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản trong việc thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội chủ nghĩa, và
cộng sản chủ nghĩa. Do đó, hai ông đã gắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp,
đặt vấn đề dân tộc phụ thuộc vào vấn đề giai cấp.
V.I.Lênin sống trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, việc chiếm thuộc địa và
phân chia lại thuộc địa của các cường quốc tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt,
Lênin nhận định rằng thời đại mà ông đang sống là thời đại đang bùng lên
những cơn bão táp, mà những cơn bão táp ấy dội ngược trở lại Châu Âu. Vì
vậy, ông đã nêu vấn đề dân tộc thành một vấn đề có tính quốc tế và ra sức ủng
hộ phong trào giải phóng dân tộc. Nhưng do hạn chế của điều kiện lịch sử,
Lênin chỉ mới đề cập chủ nghĩa yếu đến tình hình các dân tộc ở Trung Á vốn
là thuộc địa của Sa Hoàng, chưa có điều kiện đề cập sâu toàn bộ vấn đề thuộc
địa. Người cũng chưa có điều kiện thâm nhập thực tiễn các nước phương
Đông, chưa thấy hết đặc điểm các nước phương Đông, do đó chưa đánh giá
hết sức mạnh, tiềm năng cách mạng của các dân tộc thuộc địa phương Đông.
Từ đó, tuy nhấn mạnh quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, cách mạng vô sản
1 ,2

C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.624



7
chính quốc với cách mạng giải phóng thuộc địa, nhưng vẫn trên cơ sở đặt vấn
đề dân tộc phụ thuộc vào vấn đề giai cấp. Cách mạng giải phóng dân tộc phụ
thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc và chỉ có thể thắng lợi sau khi cách
mạng chính quốc thắng lợi, chỉ có giải phóng giai cấp thì mới giải phóng
được dân tộc.
Những người kế tục Lênin trong phong trào cộng sản quốc tế đã không
kế thừa những yếu tố tích cực, đúng đắn trong luận điểm của Người. Ngược
lại, họ đã nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản, duy
nhất của sự phát triển xã hội. Nhấn mạnh sự thống nhất của Quốc tế Cộng
sản, coi nhẹ những đặc điểm riêng của mỗi dân tộc... Nghị quyết Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản (1928) coi yếu tố giai cấp có ảnh hưởng quyết định đối với
quá trình cách mạng của tất cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Điều đó
có ảnh hưởng đến chính sách mở rộng Mặt trận thống nhất đoàn kết dân tộc
và dẫn đến khuynh hướng “tả” trong một số vấn đề chiến lược và sách lược
của cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, đồng thời vận dụng thế giới quan và phương pháp luận
biện chứng mácxít phân tích tình hình cụ thể của Việt Nam. Người nêu lên
những đặc điểm cơ bản của Việt Nam mà nổi bật là lực lượng sản xuất lạc
hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, sự phân hoá giai cấp trong nội bộ dân
tộc chưa sâu sắc như ở các nước phương Tây, mâu thuẫn cơ bản của xã hội
không phải là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mà là mâu
thuẫn giữa một bên là nhân dân Việt Nam mà tuyệt đại bộ phận là nông dân
với một bên là đế quốc Pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai. Từ đó Hồ Chí
Minh khẳng định đối với Việt Nam, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc
lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân là nhiệm vụ cơ bản, trước mắt, là giai
đoạn xuất phát của toàn bộ sự nghiệp giải phóng xã hội, con người.

Vì vậy, trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn


8
luôn nhấn mạnh yếu tố dân tộc, nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Người đã đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, trước hết và yếu tố dân tộc là quan
trọng, xuyên suốt mọi giai đoạn của quá trình cách mạng Việt Nam.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX những bài viết của Hồ Chí Minh
đã đề cập đến tình hình các nước thuộc địa và phụ thuộc, ra sức tố cáo tội ác
của chủ nghĩa thực dân đế quốc, hết sức quan tâm đến khát vọng và tiềm năng
của nhân dân thuộc địa, đồng thời phân tích những khả năng, triển vọng của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa.
Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế Cộng sản
năm 1924, Người đã viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở
phương Tây...”1 và “Mác cho ta biết rằng sự tiến triển các xã hội trải qua ba
giai đoạn: chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản; và trong mỗi giai đoạn
ấy, đấu tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc
Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không? Từ nhiều thế kỷ nay, họ
chẳng hưởng được thái bình hay sao để đến mức làm cho người châu Âu
khinh rẻ họ (lười nhác, mê muội hàng nghìn năm v.v...)” 2. Về vai trò của chủ
nghĩa dân tộc ở Việt Nam, Người cho nó là một “động lực lớn của đất nước.
Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những
người culi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm
trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cùng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc
đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc;
nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cách mạng trốn sang
Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”3.
Sau khi phân tích chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc; Hồ Chí

Minh nêu lên phương hướng, cương lĩnh chung: Phát động chủ nghĩa dân tộc
bản xứ, nhân dân Quốc tế Cộng sản... một chính sách hiện thực tuyệt vời, giờ
đây, người ta chẳng có thể làm gì được cho người Việt Nam mà không dựa
trên những động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ...

1 ,2
3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, T.1, tr.464, 465.
Sđd, tr.446.


9
Không phải không có cơ sở, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản
ở Việt Nam (2-1930), Hồ Chí Minh đề nghị lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Người trình bày dự thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Hội nghị nhất trí thông
qua. Lần đầu tiên, Đảng ta có một Cương lĩnh đúng đắn thể hiện những
nguyện vọng thiết tha của dân tộc, phản ánh khách quan quy luật vận động
của xã hội Việt Nam, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
Tuy nhiên, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản có khoảng cách nhất định trong giải quyết quan hệ dân tộc
và giai cấp của cách mạng Việt Nam. Do đó, không phải ngay từ đầu mọi
người đều đã hiểu và quán triệt đúng tư tưởng này của Người, nên đã có lúc,
có người cho rằng Hồ Chí Minh coi nhẹ vấn đề giai cấp mà nặng về vấn đề
dân tộc, rơi vào khuynh hướng hữu khuynh, dân tộc, cải lương...
Phong trào cách mạng Việt Nam từ 1930 – 1931 cho đến sau này, có lúc,
có nơi đã quá nhấn mạnh giai cấp, đấu tranh giai cấp, chưa nhận thức đầy đủ
yếu tố dân tộc (sức mạnh của tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước và sức
mạnh của khối đoàn kết dân tộc) nên đã có ảnh hưởng đến sự phát triển của

nhiệm vụ giải phóng dân tộc và của phong trào cách mạng. Đồng chí Lê duẩn,
cố Tổng Bí thư của Đảng ta đã có nhận xét: Trong phong trào 1930 – 1931,
nội dung Mặt trận phản đế nặng về giai cấp hơn dân tộc, ta đã phạm sai lầm
“tả” khuynh làm cho phong trào có phần cô độc: trong phong trào 1936 –
1939, Mặt trận có tính chất dân chủ chung hơn là dân tộc; Chiến tranh thế giới
lần thứ hai bùng nổ, đường lối Mặt trận của Đảng mới có nội dung giai cấp,
dân chủ, dân tộc thực tế, đầy đủ; đến năm 1941, hình thức Mặt trận lại có ý
nghĩa dân tộc rõ ràng hơn, đó là Mặt trận Việt Minh.
Sự khẳng định mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, thể hiện ở mối quan
hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở thuộc địa, là sự
xác định tính tất yếu của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại chúng
ta, nó không phải là một công thức để vận dụng một cách máy móc, rập
khuôn, giáo điều mà phải hết sức linh hoạt, sáng tạo. Về chiến lược, Hồ Chí


10
Minh đặt công cuộc giải phóng dân tộc trong cách mạng vô sản, nhưng trong
chỉ đạo cụ thể lại không bao giờ coi nhẹ nhiệm vụ dân tộc và đề cao một cách
không thực tế nhiệm vụ giai cấp. Tuy nhiên, khi đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu. Người nhắc nhở không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi
giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác. Hơn nữa, tập
trung giải quyết việc giải phóng dân tộc cũng nhằm mục đích góp phần giải
quyết nhiệm vụ giai cấp.
Phải nói rằng, thắng lợi của Cách mạng Thắng tám (1945) và toàn bộ
cách mạng Việt Nam sau này, chứng minh Đảng ta, nhân dân ta đã thực hiện
những tt và đường lối có ý nghĩa quyết định đó của Hồ Chí Minh.
Nội dung cơ bản trong tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh
Tư tưởng cơ bản nhất quán của Hồ Chí Minh là gắn liền độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội. Là người yêu nước vĩ đại và là chiến sĩ cộng sản kiên
cường, Hồ Chí Minh đã thể hiện trong tư tưởng và hành động cách mạng của

mình quan điểm bất di bất dịch là thực hiện độc lập dân tộc trọn vẹn và tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đặt độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời, Hồ Chí Minh
đã nâng tư tưởng độc lập dân tộc lên một tầm cao mới với những nội dung
mới. Nó xa lạ với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, quan điểm độc lập khép kín. Tư
tưởng xuyên suốt đó của Người mãi mãi soi sáng cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta.
Trong lịch sử, đối với các dân tộc bị lệ thuộc, nô dịch giành độc lập dân
tộc là một khát vọng mang tính phổ biến. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc đó đã xuất hiện những anh hùng dân tộc với những tư tưởng dân tộc, giải
phóng dân tộc khá phong phú và luôn mang dấu ấn của giai cấp, của thời đại.
Riêng thời cận đại và hiện đại, những nhà yêu nước nổi tiếng như: Mahatma
Găngđi, Joan Háclan Nêru (Ấn Độ), Tôn Trung Sơn (Trung Quốc), Mutstapha
Kêman (Thổ Nhĩ Kỳ) v.v... đã từng được các dân tộc bị áp bức trên thế giới to
kín, ngưỡng mộ và họ đã để lại những dấu son trong lịch sử giải phóng các
dân tộc đó, đồng thời có những đóng góp nhất định vào lý luận và thực tiễn
phong trào giải phóng dân tộc thế giới.


11
Đặc biệt đối với Việt Nam, một nước nhỏ nằm cạnh một nước lớn, trên
đường giao thông quốc tế quan trọng, luôn luôn bị suy hiếp bởi nạn ngoại
xâm. Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam là lịch sử xây dựng
đất nước và đấu tranh giải phóng đất nước, giữ và giành độc lập dân tộc.
Chính điều kiện đó đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, lòng tự hào và tinh
thần cộng đồng dân tộc.
Vì vậy, mỗi lần đất nước bị xâm lăng, quyền lợi của những người lãnh
đạo với quyền lợi của nhân dân, dân tộc là thống nhất; toàn dân đã đoàn kết
đứng lên chống giặc và đã lập nên những kỳ tích vẻ vang. Sau ngày chiến
thắng, các triều đại phong kiến tiến bộ đều chú ý “Khoan thư sức dân”, tiến

hành một số cải cách, khen thưởng tỷ lệ đã là khen thưởng rồi? những người
có công trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, những cải cách đó,
đều nằm trong phạm vi “ơn vua, lộc nước”, nhằm củng cố chính quyền phong
kiến. Đến lúc suy vi thường bị lôi cuốn vào tranh giành quyền lực, ngôi báu,
sống xa hoa, trụy lạc... nên mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với
toàn thể nhân dân lao động mà đại bộ phận là nông dân không mất đi mà ngày
càng sâu sắc.
Với lòng yêu nước, thương dân, với quyết tâm tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, giành độc lập cho nước nhà, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân
tích, so sánh cả về lý luận và thực tiễn những phong trào yêu nước giải phóng
dân tộc của Việt Nam và thế giới. Sự đóng góp của Người về tư tưởng độc lập
dân tộc chẳng những đã nâng cao và làm phong phú thêm truyền thống đấu
tranh cho độc lập dân tộc của nhân dân ta mà còn mang lại cho tư tưởng đó
những nội dung mới mẻ. Những nội dung đó càng có sức sống mãnh liệt khi
được cuộc sống chứng minh tính đúng đắn của nó. Bước đầu, có thể tìm hiểu
tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh trên những khía cạnh sau đây:
Độc lập gắn liền với thực hành dân chủ
Đất nước ta vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến; mâu thuẫn cơ bản
của nước ta lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc
và tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Ngay từ


12
Chánh cương, Sách lược vắn tắt (2-1930), Nguyễn Ái Quốc đã xác định cách
mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng; tiến lên
xã hội cộng sản nhằm mục tiêu độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày,
dân chủ cho nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh
đã đề nghị lấy tên nước là nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người xác định:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”1.
Trên ý nghĩa ấy một khi đã giành được độc lập cho Tổ quốc, thực hiện
giải phóng dân tộc, thì cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đó phải đưa nhân
dân lên vị trí làm chủ đất nước, thực hiện giải phóng triệt để con người khỏi
thân phận nô lệ, làm thuê. Tính triệt để cách mạng đó trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đã phân biệt rõ tính chất cuộc cách mạng giải phóng dân tộc kiểu mới
do giai cấp công nhân lãnh đạo với tất cả các phong trào cách mạng trước đây
đã từng diễn ra ở Việt Nam.
Độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh cho độc lập, tự do, rút cục lại phải đem đến
hạnh phúc cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 2 và “Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”3.
Khi nắm chính quyền, làm Chủ tịch nước, Người luôn quan tâm đến mọi
mặt đời sống của nhân dân: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành... quan tâm đến mọi
lớp người từ cụ già đến em bé, từ phụ nữ đến thanh niên, từ công nhân đến
nông dân, trí thức, những nhà du hành... Người nhấn mạnh: “Chính sách của
Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, T.5, tr.698.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, T.4, tr.56, 152.

2 ,3


13

Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính
phủ có lỗi.
Vì vậy cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức
quan tâm đến đời sống của nhân dân”1.
- Độc lập phải gắn với thống nhất Tổ quốc
Kẻ thù ra sức chia cắt đất nước Việt Nam. Dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, chúng chia nước Việt Nam thành 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ
có chế độ cai trị riêng, kết hợp với Cao Miên (Cambodge) và Lào (Laos)
thành Liên bang Đông Dương (Indochine). Sau thắng lợi Cách mạng Tháng
Tám của Việt Nam, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa,
chúng đưa con bài Nam Kỳ tự trị, Tây nguyên tự trị, chia rẽ dân tộc ta, làm
suy yếu sức mạnh của dân tộc để dễ dàng thực hiện âm mưu thâm hiểm của
chúng là cướp nước ta một lần nữa. Sau thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ, đế
quốc Mỹ lại muốn biến giới tuyến tạm thời thành biên giới chia cắt vĩnh viễn
hai miền Nam - Bắc.
Vì vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, độc lập bao giờ cũng gắn liền
với thống nhất đất nước; Nam Bắc một nhà, Người khẳng định chân lý:
“Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mồn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi”2.
Trong Di chúc, Người mong muốn cả nước đẩy mạnh công cuộc “xây
dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”3. Rõ ràng, lúc đó Hồ Chí Minh đặt yêu cầu thống nhất lên trước độc
lập và dân chủ vì lúc bấy giờ âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai là chia cắt
lâu dài đất nước ta.
- Độc lập là “độc lập thực sự”, không phải là “độc lập giả hiệu”. Đấu
tranh cho độc lập tự do đi đôi với quyết tâm giữ vững độc lập tự do.
1


Sđd, t.7, tr.572.
Sđd, t.4, tr.246.
3
Sđd, t.12, tr.512.
2


14
Kẻ thù thường xuyên dùng mọi thủ đoạn gieo rắc ảo tưởng về độc lập tự
do, nêu lên những khẩu hiệu “độc lập tự do, dân chủ, dân quyền và thiện chí”
giả hiệu. Chính quyền chúng dựng nên chỉ là chính quyền tay sai cho chủ
nghĩa thực dân đế quốc. Nền kinh tế chúng xây dựng chỉ là nền kinh tế thực
dân, làm cho nền kinh tế dân tộc bị phụ thuộc, què quặt. Nền giáo dục mang
tính thực dụng, cắt xén nhằm phục vụ cho việc đào tạo nên một đội ngũ
những viên chức làm việc cho bộ máy thống trị. Nền văn hoá lại càng mất dần
tính chất dân tộc, ca ngợi chế độ thực dân và bọn xâm lược, hạ thấp truyền
thống đạo đức của dân tộc.
Chính vì vậy, Người nhấn mạnh: Phải đấu tranh giành cho được độc lập
thực sự, phải chống chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới để
giành độc lập, tự do, hoà bình, thống nhất cho đất nước. Khi đã giành được
độc lập, tự do, “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” 1. Trong dịp thăm đền Hùng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ lấy nước”2. Câu nói này của Người biểu hiện một chân lý, một
quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta, xác định nghĩa vụ thiêng liêng của
mỗi người Việt Nam là xây dựng đất nước gắn với bảo vệ đất nước. Trên tinh
thần ấy, Đảng ta đã coi xây dựng kết hợp với bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ
chiến lược cơ bản của nhân dân ta.
Suy ngẫm về những cống hiến trong nội dung tư tưởng độc lập dân tộc
của Hồ Chí Minh, càng thấy sáng tỏ bản chất cách mạng và khoa học trong tư

tưởng giải phóng dân tộc của Người. Đó là tư tưởng cách mạng triệt để nhằm
giải phóng đất nước, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chân lý đó trở
thành phương châm hành động của mọi người cách mạng , nó như hòn đá thử
vàng kiểm chứng mọi suy nghĩ, hành động của chúng ta hôm nay và ngày
mai, về hạnh phúc của cả dân tộc cả xã hội, của từng con người.

1

Sđd, t.4, tr.4.
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí MinhBiên niên tiểu sử, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.533.
2


15
Tư tưởng về độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc,
hoàn chỉnh, triệt để. Tư tưởng đó đang và vẫn tiếp tục trở thành mục tiêu, lý
tưởng của toàn dân Việt Nam. Nguyên lý: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”,
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã trở thành chân lý, khẩu hiệu động
viên, cổ vũ nhân dân Việt Nam làm nên kỳ tích vĩ đại: Đánh thắng hai đế
quốc to, đưa đến thắng lợi độc lập, thống nhất toàn vẹn của đất nước. Tư
tưởng đó mãi mãi là ngọn cờ chỉ đạo, là khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân
ta trong sự nghiệp đấu tranh vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh” hiện nay.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

1. Kiên trì công cuộc đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
từ năm 1930 đến nay, phong trào cách mạng Việt Nam trải qua các kỳ
khác nhau đã trở thành một phong trào hiện thực, quyết xoá bỏ chế độ thực

dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không chấp
nhận chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam phù
hợp với xu thế của thời đại.
Với những thành quả như: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã
nêu một vấn đề lý luận mới mẻ của phong trào giải phóng dân tộc. Đó là: Chủ
nghĩa tư bản có thể bị đánh bại tại vùng “ngoại vi” trước khi nó bị đánh bại tại
chính quyền hương của nó. Hơn ai hết nhân dân Việt Nam hiểu rõ thực chất
chủ nghĩa tư bản, nêu không thể không tìm kiếm con đường phát triển đất
nước bỏ qua chế độ đó. Bao nhiêu thành quả cách mạng giành được bằng
xương máu của nhiều thế hệ người Việt Nam không thể lại đưa đất nước đi
vào con đường tư bản chủ nghĩa để rồi tự mình trở lại thâm nhập những người
bị áp bức nô lệ.
Trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, việc
thấm nhuần quan điểm của Đảng ta: gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã


16
hội, đổi mới toàn diện, đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở lập trường quan điểm của giai cấp công nhân,
theo tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, chống giáo điều, chống cơ hội và
xét lại, chống những thiên kiến dân tộc hẹp hòi, biệt phái, đó chính là giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện đúng tinh thần và phương pháp
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đổi mới theo tinh thần và nguyên tắc đó sẽ đảm bảo cho chúng ta đi thới
mục tiêu: giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Chỉ có độc lập dân tộc mới tạo tiền đề cho việc triển khai các nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có hiệu quả và thắng lợi mới tạo ra
sức mạnh toàn diện đảm bảo sự bền vững của độc lập dân tộc và tự do hạnh
phúc của nhân dân.

Với quan điểm đó, trong toàn bộ tiến trình đổi mới cũng như trên từng
lĩnh vực hoạt động chúng ta phải nắm chắc hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do vậy
cùng với phát triển kinh tế, văn hoá, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, phải không ngừng đề cao cảnh giác, tăng cường tiềm
lực quốc phòng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các
thế lực thù địch hòng làm sụp đổ chế độ ta và làm chệch hướng mục tiêu xã
hội chủ nghĩa.
Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới, mở
cửa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, với tất cả các tác động phức tạp của
kinh tế thị trường, của cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận trên quy mô quốc tế và
chống diễn biến hoà bình, đòi hỏi phải hết sức tỉnh táo và kiên định, đòi hỏi
phải thống nhất tư tưởng và hành động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của
nhân dân ta. Thực tế chứng minh rằng có những nước tuy đã giành được độc
lập dân tộc về chính trị, nhưng vẫn trở thành nước phụ thuộc, không thoát
khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, vì đã không gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội. Cuối cùng nền độc lập dân tộc về chính trị cũng không còn được
bảo đảm vững chắc nữa.


17
Gắn liền sự nghiệp cách mạng của nước ta với phong trào cách mạng
thế giới
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, khi hoạch định đường lối cách mạng
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ: “Đảng phổ biến khẩu hiệu
“Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và
quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”1.
Nhận thức sâu sắc mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đoàn kết

quốc tế và liên minh với các lực lượng của phong trào cách mạng thế giới.
Người nói rằng, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam muốn thắng lợi, nhất
thiết phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười. Và một trong những
điều kiện thắng lợi là phải có bầu bạn khắp thế giới. Thực hiện được điều đó,
Hồ Chí Minh luôn giáo dục, động viên nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của mình, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế, Người thường
nói: Nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của
mình, mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hoà bình trên thế
giới. Với ý thức trách nhiệm, giúp nhân dân nước bạn “là tự giúp mình”,
Người đã kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế, lợi
ích dân tộc Việt Nam với lợi ích cách mạng của nhân dân thế giới. Vì vậy,
cách mạng Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của quốc tế.
Khi đề ra chủ trương đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài với các nước
trên thế giới, Hồ Chí Minh không chỉ xuất phát từ những mục tiêu chính trị xã hội của thời đại: Độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, mà còn vì sự phát triển
nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Điều này đã được thực hiện
ngay trong quá trình lãnh đạo cách mạng Tháng Tám 1945, đó là việc bắt tay
với đồng minh và sau đó ngày 1/11/1945, nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam,
Người đã gửi thư cho Bộ trưởng, Ngoại giao Mỹ, đề nghị: “… được gửi một
phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một
mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ và mặt
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr.4.


18
khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như
các lĩnh vực chuyên môn khác”1. Tiếc rằng, quan điểm của Hồ Chí Minh đã
không được thể hiện trong đường lối, chủ trương của các nước xã hội chủ
nghĩa trong chừng nào đó kể cả ở Việt Nam trước đây, không chú ý đúng mức

đến sự phát triển và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ,
không có sự trao đổi, học tập kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài. Sự say
sưa với “tính ưu việt” của chủ nghĩa xã hội, việc tách biệt đi, đến sự “đối đầu”
giữa các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau là một trong những
nguyên nhân gây nên sự tụt hậu về nhiều mặt khoa học kỹ thuật của các nước
xã hội chủ nghĩa so với các nước tư bản chủ nghĩa, các nước vừa giành được
độc lập dân tộc. Đó là nguyên nhân dẫn tới sự khủng hoảng trầm trọng của
chủ nghĩa xã hội, sự tan vỡ của Liên Xô và các nước Đông Âu.
Cuộc sống ngày càng làm sáng tỏ một nhu cầu bức xúc trong quan hệ
quốc tế, đó là mở rộng sự hợp tác hữu nghị với nhân dân thế giới, đặc biệt các
nước láng giềng, các nước trong khu vực hợp tác, hữu nghị là biểu hiện tích
cực của sự đoàn kết quốc tế giữa các dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do, văn
minh, tiến bộ. Xuất phát từ tư tưởng đó của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước
ta đã thực hiện chính sách đối ngoại thân thiện và cởi mở với tất cả các nước
để tăng cường sự hiểu biết ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được thành lập, đặc biệt từ khi Chính phủ ta tuyên bố “Sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với Chính phủ nước nào trong quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh
thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình
và xây đắp dân chủ thế giới”2.
Tư tưởng hợp tác, hữu nghị của Hồ Chí Minh có mục tiêu, định hướng
rõ rệt không mơ hồ về chính trị. Ngay cả với những nước đang tiến hành chính
sách thù địch với Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phân biệt rất rõ những
kẻ hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ ngay ở chính nước đó,

1

. Sđd, tập 4, tr. 80.
. Sđd, tập 6, tr. 8.

2



19
làm cho nhân dân thế giới giúp chúng ta phân biệt kẻ xấu, người tốt để kết bạn,
thực hiện phương châm của người là “thêm bạn, bớt thù”.
Ngày nay, chủ nghĩa thực dân cũ hầu như bị xóa bỏ. Song bọn đế quốc
vẫn chưa từ bỏ ý đồ nô dịch các dân tộc khác bằng thủ đoạn thâm độc hơn, đó
là chủ nghĩa thực dân mới. Vì thế cuộc đấu tranh cho độc lập hoàn toàn và
thực sự của các dân tộc vẫn còn tiếp tục.
Ngày nay, Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước
trong bối cảnh thế giới đầy biến động phức tạp. Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1966) khẳng định: “Nhiệm vụ đối
ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội” 1. Chúng ta chủ trương: “Hợp
tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế
và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có
lợi”2. Đây là quan điểm đúng đắn, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh
về đường lối ngoại giao đa phương, đa dạng. Khi được hỏi về chính sách đối
ngoại của nước Việt Nam, Người nói: Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả
mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”3 .
Thực tiễn đang diễn ra, không một nước nào có thể tách biện khỏi các
quan hệ quốc tề mà có thể phát triển bình thường và không một nền kinh tế nước
nào có thể tự túc, tự cấp được hoàn toàn như xã hội chậm triển trước đây.
Sự giúp đỡ quốc tế rất to lớn, quý báu không thể thiếu, nhưng điều
quan trọng có ý nghĩa quyết định là sự phát huy “nội lực” của nền kinh tế, là
nước ta phải biết cách đi lên cho vững chắc, là phải xuất phát từ những đặc

điểm kinh tế, xã hội mà tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp với quy luật
1 .2.
3

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr. 120.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 5, tr. 220.


20
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói” Cố nhiên sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong
chờ người khác. Sự giúp đỡ cho ta của các nước bạn chỉ có hạn, căn bản là ta
phải tự lực cánh sinh, cố gắng sản xuất.
Trải qua hơn 70 năm hoạt động, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao
tinh thần độc lập dân tộc, đồng thời nêu cao chủ nghĩa quốc tế cao cả của giai
cấp công nhân cả trên nhận thức lẫn hành động. Trong cách mạng giải phóng
dân tộc, Đảng nêu cao tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, trong
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là “trường kỳ kháng chiến, tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, thấm nhuần chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, hòa bình xây
dựng đất nước theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, “chúng ta phải tiếp
tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ,
của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình
thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”1.
Đó chính là Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam với cách mạng thế
giới trong thời đại ngày nay.
Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng xây dựng, chỉnh đốn
Đảng để Đảng xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân.

Từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng nước ta “trước hết
phải có Đảng”. Đảng “như người cầm lái” đưa con thuyền cách mạng vượt qua
bao thác ghềnh để cập bến vinh quang. Vai trò, vị trí của Đảng không phải tự
nhiên mà có, cũng không phải cứ tự nhận mà được. Mặt khác, khi Đảng tự ý
thức được vai trò lãnh đạo của mình thì cũng phải luôn luôn làm thế nào xứng
đáng với vai trò ấy. Do đó, tư tưởng đầu tiên của Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng là phải xác lập và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, H, 1991, tr. 8.


21
Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm đúng đắn rằng “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không
có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1. Chủ nghĩa mà Người tin theo đó là
chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Hồ Chí Minh là một mẫu mực luôn luôn
“theo chủ nghĩa Mác - Lênin” nhưng không giáo điều, rập khuôn mà là sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Người
đã vận dụng những nguyên tắc tổ chức và hoạt động kiểu mới của Lênin vào
xây dựng Đảng ta.
Đảng phải là đại biểu của giai cấp công nhân, đồng thời là đại biểu cho
lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng:
mọi đường lối chủ trương của Đảng và Chính phủ phải luôn luôn tuân thủ lợi
ích tối cao của toàn dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Sức mạnh của Đảng là sức mạng
nơi dân,, là khối đoàn kết toàn dân do Đảng ta lãnh đạo. Đảng ở trong lòng
nhân dân, được nhân dân chở che, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ

của nhân dân. Từ luận điểm đó, người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải: gần
dân, hiểu dân và vì dân; chống quan liêu, mệnh lệnh đối với dân, điều gì có
lợi cho dân, dù nhỏ cũng phải gắng làm, điều gì có hại cho dân thì cố tránh.
Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác tổ chức. Người chỉ rõ: Đảng không
phải là tổ chức làm quan phát tài. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức,
một tổ chức tiền phong của giai cấp, của dân tộc. Hệ thống tổ chức của Đảng
từ Trung ương đến cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao, Đảng gồm có
nhiều người nhưng khi hành động thì như một người. Trong các tổ chức của
Đảng phải tuên theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phải phục tùng
cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, chống mọi biểu hiện địa phương, cục bộ,
bản vị, gia trưởng… Điều đó đòi hỏi trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng
rãi. Dân chủ trong Đảng là tiền đề cho dân chủ toàn xã hội.

1

. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Ncb CTQG, H, 2000, tập 2, tr. 268.


22
Qua hoạt động thực tiễn cách mạng đã chứng tỏ, Đảng có sức mạnh và
uy tín không chỉ do đường lối chính trị đúng mà còn nhờ sức chiến đấu của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quần chúng nhân dân thường xem xét đánh giá
Đảng không chỉ qua những chủ trương, chính sách của Đảng, mà còn qua
những hoạt động thường ngày của mỗi cán bộ, đảng viên. Do đó, vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch vững mạnh luôn được Hồ Chí
Minh quan tâm một cách sâu sắc. Người khẳng định: Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc, Đảng không phải là lực lượng siêu nhân, mà do những người
ưu tú trong nhân dân - những người tuân thủ tôn chỉ, mục đích, điều lệ của
Đảng hợp thành. Để có đội ngũ đảng viên có chất lượng cao, Hồ Chí Minh
dạy rằng, đảng viên phải luôn luôn nêu cao đạo đức cách mạng: Cần, kiệm,

liêm, chính, chí công, vô tư. Người chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải
trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”1. Hồ Chí Minh cũng lên án những biểu hiện tiêu cực ở một số đảng
viên như lãng phí, tham ô, quan liêu… và Người cho đó là “kẻ thù bên trong”
của Đảng.
Hiện nay, chúng ta đang bước vào giai đoạn cách mạng mới với nhiệm
vụ hết sức nặng nề và phức tạp. Kẻ thù của chủ nghĩa xã hội cũng nhận thấy
muốn xóa bỏ cách mạng, phá hoại sự nghiệp đổi mới, trước hết là phá hoại
Đảng, lợi dụng sjw tha hóa biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kích
động nhân dân làm giảm sút uy tín của Đảng. Vì vậy, Đảng phải không ngừng
xây dựng và chỉnh đốn tăng cường khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải tiến hành
đồng bộ cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực hành nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Cán bộ, đảng viên phải phấn đấu không
ngừng để kịp bước đi của cuộc cách mạng. Nếu trong chiến tranh, Đảng đòi hỏi
mỗi đảng viên, trước hết phải có nhiệt tình, dám xông lên, sẵn sàng hy sinh
xương máu trong mỗi trận đánh để hoàn thành nhiệm vụ thì ngày nay, trong sự
1

. Sđd, tập 9, tr. 293.


23
nghiệp xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên
không chỉ có nhiệt tình, lòng hăng hái, mà còn năng lực, trí tuệ, biết sáng tạo,
chủ động trong công việc. Vì vậy, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là không ngừng
làm cho Đảng vững mạnh, trong sạch theo tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng mãi
mãi xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp cách mạng

trong giai đoạn hiện nay. Khi đã xác định được con đường giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội và xác định đúng đắn mục tiêu cụ thể của mỗi giai đoạn,
mỗi thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những nội dung, nguyên tắc cơ
bản cho việc xác định phương pháp cách mạng. Về vấn đề này, cố Tổng Bí
thư Trường Chinh đã chỉ rõ, Hồ Chí Minh “đã hiểu đúng được quy luật phát
triển của xã hội và nắm được những điều kiện cụ thể của nước mình, do đó
mà nhận thức rõ phải làm gì và làm như thế nào để thay đổi điều kiện ấy cho
phù hợp với những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, đặng mang
lại độc lập cho dân tộc và tự do hạnh phúc cho nhân dân”1.
Điểm nổi bật trong phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh là luôn
luôn xuất phát từ tình hình thực tế, đề ra phương pháp cụ thể giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể, độc lập, sáng tạo. Phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh
còn là tin tưởng và dựa vào sức mạnh quần chúng, phát huy nhiệt tình cách
mạng, ý chí quyết chiến quyết thắng, trí thông minh và tài năng sáng tạo của
nhân dân. Phương pháp cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng
như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm được mục tiêu độc lập
dân tộc. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dạy rằng: “Dĩ bất biến ứng
vạn biến”, giữ vững nguyên tắc nhưng linh hoạt trong hình thức, biện pháp,
bước đi cụ thể, chống giáo điều, máy móc, chủ quan, duy ý chí.
Nhở có phương pháp cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh, sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã thắng lợi hoàn toàn. Ngày nay
Đảng, Nhà nước ta đang vận dụng phương pháp cách mạng của Người vào sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm thực
1

. Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, H, 1992, tr. 49.


24
hiện điều mong muốn cuối cùng của Người là “xây dựng một nước Việt Nam

hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp của cách mạng thế giới”1.
Đại đoàn kết toàn dân đã mang lại thắng lợi to lớn trong cách mạng giải
phóng dân tộc, thì ngày nay đại đoàn kết toàn dân sẽ mang lại thành công
trong công cuộc đổi mới.
Xuyên suốt và nhất quán trong cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh là
tư tưởng đại đoàn kết, nhằm tập hợp, phát huy sức mạnh của lực lượng cách
mạng trong nước, quốc tế, phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Với Hồ Chí Minh thì đoàn kết, đại đoàn
kết là một vấn đề chiến lược có ý nghĩa sống còn, lâu dài, nó không đơn thuần
là các biện pháp tập hợp lực lượng trong cuộc đấu tranh cách mạng, là sự đúc
kết những nhu cầu của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh đã tổng kết thành công thức nổi tiếng: Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh được xây dựng và thực hiện theo
những nguyên tắc cách mạng nhất quán. Đó là, đoàn kết phải được xây dựng
trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc và những quyền cơ bản
của nhân dân lao động. Tin vào dân, dựa vào dân: “Trong bầu trời không có
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”2. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên lập trường của giai cấp
công nhân lấy liên minh công nông, trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế; kết hợp chặt chẽ
phương châm tự lực, tự cường với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Để xây dựng, củng cố, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết, Đảng Cộng sản phải có phương pháp, biện pháp đúng.
Theo Hồ Chí Minh, muốn có đại đoàn kết, cần phải tuyên truyền, giáo dục,
vận động quần chúng để mọi người tự mình nhận thức được sự cần thiết phải
1
2


. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 12, tr. 512.
. Sđd, tập 6, tr. 267.


25
đoàn kết lại, từ đó tự giác tham gia vào trận tuyến cách mạng. Xây dựng, hoàn
thiện một hệ thống chính trị hoàn chỉnh từ Đảng Cộng sản, Nhà nước, đến các
tổ chức chính trị, các đoàn thể nhân dân. Phải kết hợp đồng bộ, hiệu quả các
giải pháp, xử lý sao cho có thể mở rộng đến mức cao nhất trận tuyến cách
mạng và thu hẹp đến mức tối đa trận tuyến thù địch.
Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại đoàn kết Hồ Chí Minh, kế
thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, phương pháp đại đoàn
kết của Người là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng giúp chúng ta
vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, xây dựng thành công một nước Việt Nam độc
lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

KẾT LUẬN


×