Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm vật CHẤT và vận ĐỘNG TRONG tác PHẨM BIỆN CHỨNG của tự NHIÊN ý NGHĨA TRONG CUỘC đấu TRANH TRÊN mặt TRẬN tư TƯỞNG lý LUẬN ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.96 KB, 24 trang )

QUAN ĐIỂM VẬT CHẤT VÀ VẬN ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM
“BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN” CỦA PH. ĂNGGHEN. Ý NGHĨA KHI NGHIÊN
CỨU TÁC PHẨM ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH TRÊN MẶT TRẬN TƯ TƯỞNG
LÝ LUẬN HIỆN NAY

1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.1. Vài nét sơ lược về thân thế sự nghiệp của Ph. Ăngghen
Ph. Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 ở Bácmen thuộc tỉnh
Ranh của nước Phổ. Năm 1834 học ở trường trung học Enbơphenđơ, ngay từ
khi còn trẻ đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt và nghị lực nghiên cứu, học tập phi
thường; năm 1837 làm việc cho hãng buôn của bố ở Bácmen. Năm 1841
Ăngghen đi làm nghĩa vụ quân sự ở Béclin, năm 1841 nghiên cứu tác phẩm
“Bản chất đạo Thiên chúa” của Phoiơbắc, năm 1842 ông bắt đầu cộng tác với
tờ nhật báo của tỉnh Ranh; cuối tháng 10 năm 1842 hoàn thành nghĩa vụ quân
sự trở về Bácmen. Khi trở về Bác men ông bắt đầu hoạt động, tham gia viết
bài...năm 1844 ông viết “Tình cảnh nước Anh” gửi cho tạp chí “Niên giám
Pháp- Đức”, khoảng tháng 8- 1844 sang Pari, ở đây Ăngghen đã gặp Mác...
Ông đã viết rất nhiều tác phẩm, trong đó có tác phẩm “Biện chứng của tự
nhiên”...Ông cùng với Mác đấu tranh phát triển triết học Mác và trực tiếp lãnh
đạo phong trào công nhân cho đến năm 1895 khi qua đời.
Đánh giá về tình bạn của Mác và Ăngghen Lênin viết: “Giai cấp vô sản
châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai bác
học kiêm chiến sĩ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất
trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”1.
Vài nét sơ lược về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” là một trong những tác phẩm chính
của Ăngghen được viết sau Công xã Pari (1873- 1886). Sự phát triển của triết
học Mác thời kỳ này đòi hỏi hỏi xem xét toàn diện mọi cơ sở của nó. Sự thất
bại của Công xã Pari (1871), một mặt, giúp giai cấp vô sản rút ra những bài

1



V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 2, tr 12.


2
học kinh nghiệm quý báu, mặt khác, là cơ sở thực tiễn xã hội giúp Mác và
Ăngghen khái quát và phát triển lý luận của mình.
Thời kỳ này, khoa học tự nhiên có bước phát triển mới với việc xuất hiện
hàng loạt các phát minh quan trọng đòi hỏi phải đánh giá ý nghĩa triết học của
chúng. Hơn nữa, cuộc đấu tranh tư tuởng trong lĩnh vực khoa học tự nhiên
đang diễn ra gay gắt. Đa số các nhà khoa học tự nhiên còn bị ảnh hưởng bởi
thế giới quan siêu hình và không biết tới phép biện chứng. Đó là một trở ngại
cần phải khắc phục trên con đường của nhận thức khoa học.
Cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm dưới mọi mầu sắc trong
khoa học tự nhiên thời kỳ này có ý nghĩa to lớn, bảo vệ các nguyên lý triết
học cơ bản của chủ nghĩa Mác. Ăngghen viết tác phẩm “Biện chứng của tự
nhiên” một mặt nhằm chứng minh sự đúng đắn của quan niệm duy vật biện
chứng và dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng để khái quát những
thành tựu quan trọng nhất của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX; phê phán những
quan niệm siêu hình, CNDV tầm thường, CNDV cơ giới; đấu tranh chống các
quan điểm sai lầm của chủ nghĩa Đácuyn xã hội, chủ nghĩa cơ hội Đức, chủ
nghĩa duy tâm sinh lý học, chủ nghĩa tiên nghiệm trong toán học, “thuyết cơ
giới về nhiệt” và tình trạng mê tín dị đoan đang lan tràn lúc đó, v.v.. Mặt khác,
chống lại sự phản kích của kẻ thù đối với chủ nghĩa Mác sau thất bại của Công xã
Pari.
Quá trình viết tác phẩm được chia thành hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất (từ tháng 5/1873 đến tháng 5/1876): Ăngghen chủ yếu
tập hợp tư liệu, viết các bài báo riêng và “Lời nói đầu”;
Từ tháng 5/1876 đến tháng 5/1878: theo đề nghị của Mác, Ăngghen tạm
dừng lại để viết tác phẩm “Chống Đuyrinh”;

Thời kỳ thứ hai (từ tháng 7/1878 đến tháng 3/1883): Ăngghen hoàn
thiện đề cương cụ thể của tác phẩm và viết tác phẩm.
Sau khi Mác mất (ngày 24/03/1883), Ăngghen dừng hẳn công trình này
để chuyển sang hoàn thành việc xuất bản tập I và tập II của bộ “Tư bản” mà
Mác viết còn dang dở, và lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế.
Vì thế, “Biện chứng của tự nhiên” viết kéo dài, gián đoạn và chưa thực sự
hoàn chỉnh, nhiều phần vẫn còn là những đoạn ngắn mới tập hợp lại.


3
2. Kết cấu và tư tưởng chính của tác phẩm
Tác phẩm được kết cấu gồm 4 phần: Những sơ thảo đề cương; Các
chương; Bút ký và đoạn ngắn; Tên và mục lục các xấp bản thảo.
Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” gồm 10 bài và chương, 169 bút ký
và đoạn ngắn và 2 sơ thảo đề cương. Tổng cộng gồm 181 bộ phận hợp thành.
Trong đó, phần “Các chương” và phần “Bút ký và đoạn ngắn” chứa đựng
toàn bộ tư tưởng của tác phẩm.
Tư tưởng chính của tác phẩm là thông qua việc tổng kết những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên, Ăngghen giải quyết mối quan hệ giữa triết
học với khoa học tự nhiên và mối quan hệ giữa khoa học với chính trị. Đồng
thời, Ăngghen cũng trình bày phép biện chứng duy vật trên cơ sở những thành
tựu của khoa học tự nhiên, đánh giá phép siêu hình trong khoa học tự nhiên;
phân tích và hệ thống hoá các hình thức vận động; khẳng định quan điểm duy
vật biện chứng trong giải thích các quan hệ xã hội và chứng minh tính tất yếu
sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Năm 1925, sau 30 năm, kể từ khi Ph. Ăngghen qua đời, lần đầu tiên “Biện
chứng của tự nhiên” được xuất bản ở Liên Xô bằng tiếng Đức và tiếng Nga.
Tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên" Đức được in trong bộ C. Mác và Ph.
Ănghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995 (tr 451- tr 826).
Trong tác phẩm Ăngghen đề cập tới các lĩnh vực của triết học như: tư

tưởng về tính thống nhất vật chất của thế giới; học thuyết về vận động và các
hình thức của vận động; về sự phát triển của giới tự nhiên, nguồn gốc sự sống,
con người và ý thức; phép biện chứng duy vật- phương pháp luận của khoa
học tự nhiên.v.v. Phạm vi bài thu hoạch đi sâu nghiên cứu quan điểm của
Ăngghen về vật chất và vận động của vật chất trong tác phẩm.
3. Nội dung: Quan điểm về vật chất và vận động của Ăngghen trong
tác phẩm "Biện chứng của tự nhiên".
3.1. Về phạm trù vật chất
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” Ăngghen, trong khi phê phán
quan điểm siêu hình của Nêgơli (Nêgơli là nhà thực vật học người Đức, theo


4
thuyết bất khả tri, mang quan điểm siêu hình), đã đưa ra những tư tưởng thiên
tài về phạm trù vật chất và các hình thức tồn tại của nó.
Theo Ăngghen, cần phải phân biệt phạm trù vật chất với vật thể cụ thể.
Ăngghen viết: “Vật chất, với tính cách là vật chất, là một sự sáng tạo thuần tuý
của tư duy và là một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về chất
của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là những vật tồn tại hữu
hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất nhất định và đang
tồn tại, vật chất, với tính cách là vật chất, không có sự tồn tại cảm tính” 2. Như
vậy theo Ăngghen thì vật chất với tính cách là vật chất chỉ là sự sáng tạo thuần
tuý của tư duy, là sản phẩm của tư duy, thông qua sự khái quát hoá, trừu tượng
hoá các thuộc tính chung của tất cả các sự vật hiện tượng cụ thể đang tồn tại hữu
hình cảm tính mà thông qua các giác quan chúng ta cảm biết được. Vật chất với
tính cách là vật chất, nó là phạm trù triết học, nó khác với vật thể cụ thể là nó
không tồn tại cảm tính, không ai nhìn thấy nó tồn tại như thế nào. Ăngghen viết:
“Từ những vật hữu hình, người ta tạo nên những trừu tượng, rồi lại muốn nhận
thức những trừu tượng ấy bằng cảm tính, muốn nhìn thấy thời gian và ngửi thấy
không gian...Chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất với tính cách là vật chất

và vận động với tính cách là vận động bằng con đường cảm tính nào khác; người
ta chỉ tiếp xúc với những vật thể khác nhau, và những hình thức khác nhau tồn
tại thật sự của vận động”3. Chúng ta chỉ nhìn thấy con người cụ thể chứ không thể
nhìn thấy con người (với tính cách là khái niệm người), chúng ta chỉ có thể ăn
được quả táo, quả ổi chứ tuyệt nhiên không ăn được quả (với tính cách là khái
niệm quả)...
Phạm trù vật chất phải bao quát được những thuộc tính chung của các sự
vật, hiện tượng. Nghĩa là phải bằng sự trừu tượng hoá rút ra từ những sự vật cảm
tính đặc tính chung nhất của chúng và đưa vào phạm trù vật chất. Ông viết:
“Thực thể, vật chất không phải là cái gì khác hơn là tổng số những vật thể từ đó
người ta rút ra khái niệm ấy bằng con đường trừu tượng hoá; vận động với tính
cách là vận động không phải là cái gì khác hơn là tổng số những hình thức vận
2
3

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 751.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 726.


5
động có thể cảm biết được bằng các giác quan; những từ như “vật chất ” và “vận
động” chỉ là những sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp những thuộc tính chung
của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng các giác
quan”4.
Ăngghen phê phán Nêgơli khi ông ta cho rằng con người không nhận thức
được vật chất và vận động. Trái lại Ăngghen đã khẳng định con người có thể
nhận thức được thế giới vật chất thông qua sự phản ánh của giác quan về các sự
vật, hiện tượng cụ thể. Ăngghen viết: “Vì thế chỉ có thể nhận thức được vật chất
và vận động bằng cách nghiên cứu những vật thể riêng biệt và những hình thức
riêng lẻ của vận động, và khi chúng ta nhận thức được những cái ấy thì chúng ta

cũng nhận thức được cả vật chất và vận động với tính cách là vật chất và vận
động”5.

4
5

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 726- tr 727.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 727.


6
Ăngghen tiếp tục khẳng định đặc tính tồn tại khác quan vốn có của vật chất
không ai có thể sáng tạo ra vật chất: vật chất có tính vô hạn, vô cùng, vô tận và
tính không thể sáng tạo, không thể tiêu diệt được. Ăngghen viết: “Khi chúng ta
nói rằng vật chất và vận động là không thể sáng tạo ra được và không thể bị tiêu
diệt được tức là chúng ta nói rằng thế giới như một sự tiến lên vô hạn,...xem
những chu trình ấy có những nhánh đi lên và nhánh đi xuống”6.
Nguyên lý về sự thống nhất vật chất của thế giới. Tiếp nối tư tưởng về tính
thống nhất vật chất của thế giới trong “Chống Đuyrinh”, Ăngghen đã khẳng định
vai trò của khoa học tự nhiên trong việc chứng minh cho nguyên lý về sự thống
nhất vật chất của thế giới. Những phát minh của khoa học tự nhiên của con
người đã đem lại cho con người quan niệm tổng quát về thế giới như là một
chỉnh thể toàn vẹn.
Sự thống nhất của thế giới không phải là sự thống nhất tuyệt đối, mà là sự
thống nhất bao hàm cái khác biệt, cái đa dạng về chất lượng. Ăngghen viết: “Tất
cả những sự khác nhau về chất trong giới tự nhiên đều dựa hoặc là trên thành
phần hoá học khác nhau, hoặc là trên những số lượng hay hình thức vận động
(năng lượng) khác nhau, hoặc như trong hầu hết mọi trường hợp, đều dựa trên cả
hai cái đó. Như thế nếu không thêm vào hoặc bớt đi một số vật chất hay vận
động, nghĩa là nếu không thay đổi một vật thể về mặt số lượng, thì không thể

thay đổi được chất lượng của vật thể ấy”7. Như vậy trong tất cả các trường hợp
ấy, Ăngghen chú ý nhiều đến sự khác biệt cơ bản giữa các dạng vật chất cụ thể
là do sự khác nhau của các hình thức vận động của vật chất quy định. Quan niệm
siêu hình không thừa nhận điều này, nên đã đồng nhất sự đa dạng chất lượng của
các hình thức vận động với vận động cơ giới. Đó là do hạn chế của sự nhận thức
khoa học thế kỷ XVIII.
Mặc dù Ăngghen chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ về vật chất, nhưng ông
đã có những kết luận, lý giải tương đối rõ ràng về phạm trù vật chất đó là:

6
7

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 728.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 511.


7
Ông đã chỉ ra vật chất với tính cách là vật chất, là khái niệm được rút ra từ
những sự vật cụ thể cảm tính bằng con đường khái quát hóa, trừu tượng hoá,
là sản phẩm của tư duy, bao quát được đặc tính chung nhất của các sự vật;
Ông cũng chỉ ra được đặc tính chung nhất của các sự vật cụ thể của vật
chất là tồn tại khách quan;
Ông cũng khẳng định con người có thể nhận thức được vật chất thông qua
sự phản ánh của các giác quan về các vật thể riêng biệt.
Những vấn đề đó là các kết luận quan trọng có tính chất nền tảng, là cơ sở
trực tiếp để Lênin phát triển và đưa ra định nghĩa một cách hoàn chỉnh về
phạm trù vật chất, mà cho tới nay nó vẫn còn nguyên giá trị. Lênin đã định
nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”8.

3.2. Về vận động và các hình thức cơ bản của vận động
Như chúng ta đã biết phạm trù vận động xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử
triết học. Phạm trù này không ngừng được bổ sung hoàn thiện trong sự phát
triển của tư tưởng triết học, nhờ vào sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Ăngghen đã phê phán quan điểm siêu hình đã quy mọi vận động vào hình
thức vận động cơ giới. Ông đã khẳng định đối tượng nghiên cứu của khoa học
tự nhiên chính là vật chất đang vận động và các hình thức vận động của nó.
Theo Ăngghen, vận động và vật chất không tách rời nhau, vận động là mọi
sự biến đổi nói chung, vận động là phương thức tồn tại và là thuộc tính cố hữu
của vật chất.
Ông viết: “Vận động đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến
hoá nói chung”9. Từ đó ông đưa ra quan điểm biện chứng về vận động: “Vận
động, hiểu theo nghĩa chung nhất,- tức được hiểu là một phương thức tồn tại
của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,- thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy”10. Không có vật chất nào không vận động, cũng như
không có vận động nàolại không có vật chất, vật chất là tự thân vận động.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr 151.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 724.
10 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 519.
8
9


8
Như vậy khác với các quan niệm trước đó, Ăngghen cho rằng vận động
không chỉ là thay đổi vị trí trong không gian, sự thay đổi vị trí không gian chỉ
là hình thức vận động thấp, đơn giản của vật chất. Với sự tồn tại đa dạng,
phong phú của vật chất, nó còn có những hình thức vận động khác phức tạp
hơn nhiều.

Khi nghiên cứu các hình thức vận động của vật chất, ông chỉ ra các hình
thức vận động cơ bản, tương ứng với các dạng cụ thể của vật chất. Theo
Ăngghen, có năm hình thức vận động cơ bản: Vận động cơ giới (vận động cơ
học, đó là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); Vận động vật
lý (vận động của các phân tử); Vận động hoá học (vận động của các nguyên
tử); Vận động sinh học (vận động của các phân tử anbumin); Vận động xã
hội.
Trong các hình thức vận động ấy, vận động cơ học là hình thức vận
động thấp nhất, đơn giản nhất, vận động xã hội là hình thức vận động cao
nhất, phức tạp nhất. Việc phân chia các hình thức vận động có ý nghĩa cho
việc phân ngành khoa học. Hiện nay cách phân loại phổ biến nhất trong khoa
học vẫn là năm hình thức cơ bản như Ăngghen đã phân chia. Trong vận động
xã hội, Ăngghen chú ý hoạt động sản xuất vật chất là hình thái hoạt động cơ
bản nhất của con người, ông đã giải quyết vấn đề nguồn gốc của ý thức.
Trên cơ sở tư tưởng về sự chuyển hoá các hình thức vận động cơ bản,
Ăngghen phê phán “Thuyết cơ giới về nhiệt” của Claudiút. Theo thuyết này,
nhiệt lượng được truyền từ vật thể nóng sang vật thể ít nóng hơn. Đến một lúc
nào đó nhiệt lượng sẽ đạt tới trạng thái cân bằng trong vũ trụ, làm cho các vì
sao nguội lạnh và dẫn tới sự chết nhiệt của vũ trụ. Theo đó, các hình thức cao
của vận động, trước hết là sự sống sẽ bị tiêu diệt. Và như vậy, vũ trụ là một hệ
thống có hạn. Ăngghen cho đây là điều vô lý, vì nó trái với định luật bảo toàn
và chuyển hoá năng lượng. Theo Ăngghen sự vận động của vật chất là do sự
tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố trong bản thân thế giới vật chất, vận
động của vật chất là cái vốn có của vật chất, không ai có thể sáng tạo ra và
không thể tiêu diệt được vận động. Ông viết: “vật chất đối diện với chúng ta,


9
như một cái gì đã có sẵn, một cái gì không thể sáng tạo ra, cũng không thể
tiêu diệt đi được, thì do đó có thể kết luận rằng bản thân sự vận động cũng

không thể sáng tạo ra và tiêu diệt được”11.
Nếu thừa nhận sự tồn tại vĩnh cửu của vật chất trên thực tế cũng có nghĩa
là thừa nhận tính vô sinh, vô diệt của vận động. Ăngghen còn chỉ ra rằng, vận
động của vật chất được bảo toàn cả về số lượng và chất lượng. Ông viết: “Cần
phải hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ đơn thuần về mặt số lượng mà
cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa” 12. Nếu một hình thức vận động nào
đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình thức vận động
khác thay thế nó. Nghĩa là các hình thức vận động chỉ chuyển hoá lẫn nhau,
chứ vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn vô tận, tồn tại cùng với sự
tồn tại vĩnh viễn vô tận như vật chất vậy. Điều đó đã được định luật bảo toàn
chuyển hoá năng lượng chứng minh. Các hình thức vận động tuy khác nhau
nhưng có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong những điều kiện nhất định chúng có
thể chuyển hoá từ một hình thái này sang một hình thái khác. Ăngghen viết:
“Vận động cơ giới của các khối lượng chuyển hoá thành nhiệt, thành điện,
thành từ, nhiệt và điện chuyển hoá thành phân giải hoá học; và ngược lại, quá
trình hoá hợp hoá học lại sinh ra nhiệt và điện và thông qua điện mà sinh ra
từ; cuối cùng nhiệt và điện lại sinh ra vận động cơ giới của các khối lượng.
Và sự chuyển hoá đó diễn ra như sau: một số lượng nhất định của một hình
thái vận động bao giờ cũng tương ứng với một lượng nhất định của một hình
thái vận động khác”13. Như vậy, tính bất diệt của vận động phải hiểu theo hai
nghĩa; bất diệt cả về mặt số lượng, lẫn về mặt chất lượng. Vật chất vận động
theo quy luật và có chu trình. Thuộc tính của các vật thể chỉ bộc lộ ra thông
qua vận động. Hình thức vận động như thế nào là do bản chất của vật thể
đang vận động sinh ra.
Khi phân tích Ăngghen cũng chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa các
hình thức vận động. Hình thức vận động cao không thể tách rời hình thức vận
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 520.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 479.
13 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 530.
11


12


10
động thấp, nhưng giữa chúng lại khác nhau về chất. Vận động thấp không thể
bao quát được bản chất của vận động chủ yếu của sự vật. Giữa các hình thức
vận động đó có thể chuyển hoá cho nhau trong điều kiện nhất định. Việc phân
biệt các hình thức vận động- theo Ăngghen là vạch ra mối liên hệ lẫn nhau
giữa chúng và là cơ sở để phân loại các ngành khoa học cũng như vạch ra mối
quan hệ lẫn nhau giữa các ngành khoa học.
Trong khi khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu
của nó, Ăngghen còn chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa vận động và đứng
im- sự đứng im tương đối của vật chất, đó là hiện tượng cân bằng xác định
của vật chất. Ông viết: “Cân bằng không thể tách khỏi vận động. Trong vận
động của các thiên thể, có vân động trong cân bằng và có cân bằng trong vận
động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào,
ở đây tức là bất kỳ vận động riêng biệt nào của những vật riêng biệt trên một
thiên thể đang vận động, cũng đều có xu hướng khôi phục lại sự đứng im
tương đối, sự cân bằng. Khả năng đứng yên tương đối của các vật thể, khả
năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật
chất”14. Như vậy giữa vận động và cân bằng không tách rời nhau. Có vận
động trong cân bằng và có cân bằng trong vận động. Ăngghen còn chỉ ra rằng
vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, ngược lại vận động
toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng. Ông viết: “Vận động riêng biệt có xu hướng
chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng
biệt”15. Cuối cùng ông rút ra kết luận: “Mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và
tạm thời”16. Trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất.
Kết luận này hiện nay vẫn còn nguyên giá trị của nó. Thực tế cho thấy, hiện
tượng đứng im tương đối hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong

quá trình vận động của nó chỉ xảy ra khi được xem xét trong một quan hệ xác
định nào đó.
Về không gian, thời gian.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 740.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 740.
16 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 741.
14

15


11
Khi nghiên cứu về không gian và thời gian, Ăngghen đã phê phán Nêgơli
quan niệm về không gian và thời gian. Thông qua khái quát hoá, trừu tượng
hoá, ông khẳng định rằng: “Chúng ta biết thế nào là một giờ, một mét, nhưng
không biết thế nào là thời gian và không gian! Làm như thể là thời gian là cái
gì khác chứ không phải là tổng số những giờ, còn không gian là cái gì chứ
không phải là tổng số những mét khối! Tất nhiên là không có vật chất thì cả
hai hình thức tồn tại đó của vật chất đều chẳng là cái gì cả, đều chỉ là những
khái niệm rỗng tuếch, những sự trừu tượng, chỉ tồn tại trong đầu óc chúng ta
thôi”17. Như vậy theo Ăngghen không gian và thời gian là hai hình thức tồn
tại của vật chất; không gian và thời gian cũng chỉ là những phạm trù đặc trưng
cho phương thức tồn tại của vật chất, không có vật chất tồn tại ngoài không
gian và thời gian. Sau này khi bàn đến không gian và thời gian, Lênin đã nhận
xét rằng: “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất
đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”18.
Ăngghen còn chỉ ra tính vô cùng, vô tận của không gian và thời gian,
ông viết: “Sự kế tiếp nhau lặp đi lặp lại mãi mãi của các thế giới trong thời
gian vô tận chỉ là cái bổ sung lôgích cho sự đồng thời tồn tại bên cạnh nhau
của hằng hà sa số thế giới trong không gian vô tận” 19. Rõ ràng theo Ăngghen

không gian vô tận tức là không có tận cùng về phía nào cả, cả phía trước lẫn
phía sau, cả bên trên và bên dưới, cả bên phải và bên trái...
Như vậy bằng việc phê phán các nhà tư tưởng triết học, với tư duy biện
chứng duy vật, Ăngghen đã chứng minh và đưa ra các kết luận thiên tài về phạm
trù vật chất, vận động, không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất;
mặc dù ông chưa đưa ra được một định nghĩa hoàn chỉnh về phạm trù vật chất.
3.3. Một số nội dung triết học khác như: sự phát triển của giới tự
nhiên, nguồn gốc sự sống, con người, ý thức; phép biện chứng duy vật...
Về sự phát triển của giới tự nhiên
Ăngghen chống lại quan điểm siêu hình về tính chất bất di bất dịch của
giới tự nhiên. Ông đã dẫn các ví dụ của khoa học tự nhiên để bác bỏ tính chất
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 726.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr 209- tr 210.
19 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 482.
17
18


12
vô căn cứ của quan điểm siêu hình, và khẳng định thế giới tự nhiên luôn luôn
biến đổi, bản thân nó cũng có một lịch sử. Ăng ghen viết: “Mục đích luận cũ
đã đi đời nhà ma rồi, và bây giờ người ta đã xác định vững vàng rằng vật chất,
trong vòng tuần hoàn vĩnh viễn của nó, vận động theo những quy luật, những
quy luật này đến một giai đoạn nhất định- hoặc ở chỗ này, hoặc ở chỗ kia- tất
nhiên sinh ra tinh thần có tư duy trong các vật hữu cơ” 20.Theo Ăng ghen, nhờ
có những phát minh khoa học, nhất là ba phát minh khoa học vĩ đại lúc đó, đã
chỉ rõ tính chất biện chứng của thế giới, là cơ sở để phác hoạ ra bức tranh tiến
hoá của thế giới vật chất. Ông viết: “Nhờ ba phát minh vĩ đại ấy, người ta đã
giải thích được những quá trình chủ yếu của giới tự nhiên, tìm ra được những
nguyên nhân tự nhiên của những quá trình ấy”21.

Ở thời đại của Ăng ghen, tuy khoa học tự nhiên đã có những bước tiến
vượt bậc, nhưng ông cũng nhận thấy còn nhiều vấn đề khoa học tự nhiên chưa
giải đáp đựơc. Chẳng hạn, giải thích sự phát sinh ra sự sống từ giới vô cơ.
Từ thời đó cho đến nay, mặc dù bức tranh chung về sự phát triển của giới
tự nhiên đã được khoa học tự nhiên làm rõ hơn về chi tiết, song về cơ bản bức
tranh tiến hoá tổng quát của Ăng ghen vẫn được bảo toàn.
Về nguồn gốc sự sống, nguồn gốc loài người.
Ăng ghen nhấn mạnh đến điều kiện trái đất và nguồn gốc hoá học của
quá trình hình thành sự sống. Trên cơ sở đó, ông bác bỏ quan điểm duy tâm,
tôn giáo đã phủ định sự khác nhau về chất giữa sự sống và không sống, nhằm
chứng minh vai trò của Thượng đế sáng tạo ra sự sống. Ăngghen đã sử dụng
phát minh mới nhất của Paxtơ để bác bỏ quan niệm của thuyết tự sinh và
khẳng định nguồn gốc hoá học của quá trình hình thành sự sống trên trái đất.
Đồng thời, Ăng ghen cũng phê phán thuyết du nhập sự sống từ không gian vũ
trụ của Licbic, Hemhôntxơ. Theo ông, ngoài không gian vũ trụ không thể có
các điều kiện cần thiết cho thể abumin tồn tại và hoạt động. Ông hy vọng hoá
học hữu cơ sẽ tổng hợp được chất abumin và từ đó tạo nên tế bào và cơ thể
sống. Trên cơ sở đó, Ăng ghen quan niệm về bản chất của sự sống: “Sự sống
20
21

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 673.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 676.


13
là phương thức tồn tại của các thể abumin mà yếu tố quan trọng nhất của nó là
sự trao đổi thường xuyên chất với tự nhiên bên ngoài bao quanh nó, hơn nữa
khi sự trao đổi chất ấy chấm dứt thì sự sống cũng chấm dứt ”22.
Về nguồn gốc con người và ý thức.

Ăngghen đã phê phán Đácuyn tuy ông đã chỉ ra khởi nguyên sinh vật của
con người, song ông đã không thấy được vai trò của lao động trong quá trình
biến vượn thành người. Do đó, không thấy được sự khác nhau cơ bản giữa
động vật và con người. Ăng ghen đã tiến xa hơn Đácuyn và các nhà khoa học
tự nhiên đương thời trong vấn đề này. Ông đã phân tích sâu sắc và thuyết
phục vai trò của lao động trong việc hoàn thiện đôi tay và các giác quan của
con người. Nhờ lao động mà bộ não và khả năng nhận thức của nó phát triển,
qua đó tăng thêm sự phát triển của ý thức. Lao động còn là nguồn gốc hình
thành ngôn ngữ, thiếu ngôn ngữ thì không thể hình thành ý thức ở con người.
Do đó, cùng với lao động, ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu hình thành
ý thức. Và lao động là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt động vật và con người,
là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
Xuất phát từ cách giải quyết duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, Ăngghen đã đưa định nghĩa về biện chứng khách quan và biện
chứng chủ quan, mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Theo đó, biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất;
biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan, là tư duy biện
chứng. Chính sự thống nhất giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quanđã quy định tính khách quan trong nghiên cứu khoa học và là cơ sở
phương pháp luận chung cho các hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội.
Trên cơ sở luận giải mối quan hệ giữa biện chứng khách quan và biện
chứng chủ quan, Ăngghen chỉ ra rằng, khoa học tự nhiên cần phải thoát ra khỏi
phương pháp tư duy siêu hình và trở về với phép biện chứng một cách tự giác.
Có hai phương pháp tư duy biện chứng trong lịch sử triết học trước đó
khoa học tự nhiên đã đề cập đến: phép biện chứng tự phát của triết học Hylạp
22

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 811.



14
cổ đại và phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Cho nên con đường thoát ra
khỏi phương pháp siêu hình một cách triệt để là phép biện chứng duy vật.
Sự thống nhất giữa biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan là sự
thống nhất bao hàm sự khác biệt, cụ thể là sự khác biệt về hình thức tồn tại
của chúng. Do đó, Ăngghen đã đề xuất hai môn khoa học: một là, biện chứng
của khoa học tự nhiên, đối tượng nghiên cứu của nó là vật chất đang vận
động; hai là, lôgíc học biện chứng hay là lôgíc học hình thức trong vận động,
đối tượng nghiên cứu của nó là tư duy biện chứng.
Chống lại quan điểm về sự đối lập giữa lôgíc học hình thức và lôgíc học
biện chứng, Ăngghen cho rằng trong lôgíc học biện chứng, các khái niệm và
phán đoán có sự liên hệ phụ thuộc, chuyển hoá lẫn nhau. Nếu lôgíc học hình
thức là toán học sơ cấp thì lôgíc học biện chứng là toán học cao cấp.
Vai trò của phép biện chứng trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên.
Mỗi thời đại đều có những hình thức tư duy của nó. Vì thế, khi nghiên
cứu về tư duy biện chứng, Ăngghen luôn quan tâm đến yếu tố thời đại. Ông
cho rằng phép biện chứng là hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa
học tự nhiên hiện đại. Ăngghen khẳng định thời đại của ông là thời đại đang
cần đến phép biện chứng. Đó là thời đại mà “người ta không thể không tiếp
nhận tính chất biện chứng của các quá trình tự nhiên” 23. Ăngghen phê phán
các nhà trết học đương thời như Phôgtơ, Buysnơ... chỉ biết truyền bá những tư
tưởng chiết trung và siêu hình. Những triết học đó đã không giúp cho khoa
học tự nhiên tìm ra lối thoát của mình. Các nhà khoa học tự nhiên chỉ có thể
tìm ra lối thoát bằng cách quay trở lại phép biện chứng. Ăngghen lần lượt nêu
lên ba hình thức phát triển của phép biện chứng, và khẳng định: “công lao của
Mác là ở chỗ ông là người đầu tiên đã phục hồi lại phương pháp biện chứng
đã bị bỏ quên, nêu rõ những mối quan hệ và sự khác nhau của phương pháp
đó với phép biện chứng của Hêghen, và đồng thời, trong bộ “Tư bản”, ông đã
áp dụng phương pháp đó vào những sự kiện của một khoa học thực nghiệm,

khoa kinh tế chính trị”24. Để theo kịp với đà phát triển của thời đại mới,
23
24

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 488- tr 489.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 490- tr 494.


15
Ăngghen đặc biệt quan tâm đến việc các nhà khoa học tự nhiên phải hình thành
cho mình tư duy biện chứng. Ăngghen còn nêu lên những áp dụng của phép biện
chứng vào nghiên cứu khoa học tự nhiên như các môn toán học, hoá học, sinh
học, v.v..
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng, theo Ăngghen, các quy luật
của phép biện chứng được rút ra từ lịch sử của giới tự nhiên và của xã hội:
“Những quy luật không phải là cái gì khác hơn là những quy luật chung nhất
của hai giai đoạn phát triển lịch sử ấy cũng như là của bản thân tư duy”25.
- Quy luật về sự chuyển hoá từ số lượng thành chất lượng và ngược lại:
Ăngghen cho rằng trong giới tự nhiên, thì những sự biến đổi về chất chỉ
có thể có được do thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động
(hay là năng lượng như người ta thường nói). Tất cả sự khác nhau về chất
trong tự nhiên đều dựa trên thành phần hoá học khác nhau, hoặc những số
lượng hay hình thức vận động (năng lượng) khác nhau. Ăngghen dẫn ra nhiều
ví dụ trên các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau chứng minh tính khách quan và
phổ biến của quy luật này.
- Quy luật mâu thuẫn: Ăngghen khẳng định mâu thuẫn là khách quan,
phổ biến. Ông phê phán phương pháp siêu hình phủ nhận mâu thuẫn, chỉ thừa
nhận ranh giới tuyệt đối giữa các sự vật, hiện tượng; coi sự vật đồng nhất với
chính nó. Ăngghen, cho rằng tính đồng nhất bao hàm tính khác biệt, đó là sự
đồng nhất của các mặt đối lập, nên chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau.

- Quy luật phủ định của phủ định: Ăngghen cho rằng phủ định của phủ
định ít nhất phải trải qua một chu kì và phủ định mang tính kế thừa.
Ăngghen phê phán tính đồng nhất trừu tượng (a=a) của quan niệm siêu
hình cũ, không còn phù hợp với thời đại. Thời đại mới phải hiểu tính đồng
nhất theo quan niệm biện chứng: đồng nhất phải bao hàm cái khác biệt.
Về phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Ăngghen phê phán quan điểm cho
cái tất nhiên là cái duy nhất khiến cho khoa học quan tâm, còn cái ngẫu nhiên
thì không được khoa học quan tâm. Ông cho rằng: “Nếu thế thì không còn là
khoa học nữa, vì khoa học phải nghiên cứu chính cái mà chúng ta không

25

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 510.


16
biết”26. Ăngghen phê phán quyết định luận hoàn toàn phủ nhận cái ngẫu nhiên
và cho rằng trong tự nhiên chỉ có cái tất nhiên trực tiếp, đơn giản thôi.
Ăngghen nêu tư tưởng của Hê ghen về mối quan hệ giữa cái tất nhiên và
cái ngẫu nhiên, và khẳng định giữa chúng có thể chuyển hoá được cho nhau.
Về tính nhân quả. Ăngghen phê phán Hium, chủ nghĩa duy tâm và những
người tự nhiên chủ nghĩa chỉ dựa vào quan sát bằng kinh nghiệm nên đã
không thấy được tính nhân quả của các sự vật. Ông cho rằng, hoạt động thực
tiễn của con người hình thành nên tính nhân quả, là hòn đá thử vàng của tính
nhân quả. Tính nhân quả tồn tại khách quan tự nó. Một số hiện tượng tự nhiên
cũng có thể hình thành nên tính nhân quả. Thực tiễn của con người xác nhận
sự tồn tại khách quan của tính nhân quả và bác bỏ thuyết hoài nghi của Hium.
Ngoài ra, Ăngghen còn đề cập đến các phạm trù: cái chung và cái riêng;
tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực; nội dung và hình thức.
4. Ý nghĩa khi nghiên cứu tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” đối

với cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận hiện nay.
“Biện chứng của tự nhiên” là kết quả của một công trình nghiên cứu
trong nhiều năm của Ăngghen về các môn khoa học tự nhiên. Trong tác phẩm
này, Ăngghen đã khái quát về một số vấn đề về mặt triết học có ý nghĩa to lớn
từ những thành tựu khoa học của khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, để khẳng
định phép biện chứng duy vật của mình. Lênin viết: “Vật lý học đang nằm
trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng”27.
Ông đã góp phần làm rõ phạm trù vật chất và các hình thức tồn tại của
nó; chứng minh được phép biện chứng và những quy luật cơ bản, phổ biến
của nó là cơ sở lí luận và phương pháp nhận thức của các ngành khoa học tự
nhiên; chứng minh gía trị phổ biến của phép biện chứng duy vật.
Cùng với “Chống Đuyrinh” và một số tác phẩm khác, “Biện chứng của
tự nhiên” đã góp phần thanh toán triệt để tư tưởng cổ điển Đức, làm cho triết
học Mác đứng vững trên lập trường khoa học, cách mạng.
Ngày nay, tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” vẫn là cơ sở để chống
các quan điểm tách rời hoặc đồng nhất triết học với khoa học tự nhiên. Đồng
thời, nó còn tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của triết học duy vật biện chứng
26
27

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1994, tập 20, tr 703- tr 704.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1980, tập 18, tr 323.


17
trong khoa học tự nhiên, trên cơ sở khoa học tự nhiên và vì sự phát triển của
khoa học tự nhiên. Tác phẩm vẫn được coi là kiểu mẫu trong việc gắn triết
học với chính trị theo xu hướng vận động khách quan của xã hội.
Những nội dung trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, hiện nay
những tư tưởng cơ bản trong tác phẩm vẫn đúng, vẫn giữ nguyên giá trị, nó

vẫn là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học cho hoạt động của các đảng
cộng sản trong lãnh đạo cách mạng.
Đây là một trong những tác phẩm kinh điển xuất sắc của chủ nghĩa Mác.
Với sự ra đời của tác phẩm này, lần đầu tiên quan niệm nhất nguyên duy vật
về vận động là sự biến hoá nói chung, là sự thay đổi cả về lượng và chất đã
được Ăngghen trình bày một cách có hệ thống, nó chính là cơ sở lý luận quan
trọng cho sự hình thành chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
Nghiên cứu tác phẩm cung cấp cho mỗi người cơ sở lý luận để hình
thành thế giới quan duy vật mác-xít và phương pháp luận khoa học trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn là triết học Mác nó có cơ sở khoa học của nó, nó
không tách rời khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Và có cơ sở khoa học
để khẳng định rằng, ngày nay chủ nghĩa Mác- Lênin không hề lỗi thời như kẻ
thù đang xuyên tạc. Đảng ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn
Đảng, toàn dân ta”. Rõ ràng sự khẳng định đó là khách quan, có cơ sở khoa học,
không phải là ý trí chủ quan của cá nhân ai. Từ tác phẩm này chúng ta nhận thấy
các vấn đề cơ bản, hết sức khoa học và là một bộ phận hữu cơ trong triết học
Mác.
Ăngghen đã giải đáp được các vấn đề mà trước đó nhân loại chưa giải
đáp được hoặc giải đáp chưa triệt để. Đồng thời ông tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung, hoàn thiện, phát triển đến đỉnh cao- hoàn bị cả về lý luận và thực tiễn
của đời sống xã hội. Hệ thống lý luận đó thống nhất thế giới quan và phương
pháp luận, cách mạng và khoa học, lý luận và thực tiễn, nhận thức thế giới và
cải tạo thế giới. Mác đã chỉ ra: “Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng
chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản; vì mỗi hình thái


18
hình thành đều được phép biện chứng xét trong sự vận động, tức là xét cả mặt
nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một

cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”28.
Thông qua nghiên cứu tác phẩm chúng ta thấy, Ăngghen đã trở thành
nhà tư tưởng vĩ đại, các ông đã đưa triết học của mình trở thành thế giới quan
khoa học của giai cấp công nhân, là chìa khoá để khám phá, nắm bắt “bí mật”
của lịch sử xã hội, từ việc phân tích sự vận động, phát triển của tự nhiên, với
quan điểm nhất nguyên duy vật ông đã khẳng định sự vận động, phát triển của
lịch sử xã hội- sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội; xã hội loài
người trải qua các hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao và là một quá trình
lịch sử tự nhiên; xã hội bóc lột tồn tại dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất; trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là nguồn gốc động lực trực
tiếp thúc đẩy các xã hội có giai cấp phát triển...đó là những kết quả của quá
trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, sự cần cù sáng tạo và thiên tài của Mác
và Ăngghen. Lênin viết: “Thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp
được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra”29.
Với tác phẩm này, Ăngghen đã góp phần cống hiến vô giá vào việc đưa
chủ nghĩa Mác thâm nhập vào phong trào công nhân quốc tế. Tác phẩm đã
góp phần quyết định vào việc trang bị cho giai cấp công nhân ý thức rằng: thế
giới quan khoa học và đảng cách mạng của giai cấp là một thể thống nhất
không thể tách rời. Tác phẩm là cơ sở lý luận tuyệt vời cho cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống lại triết học tư sản. Từ đây giai cấp vô sản có
một học thuyết cách mạng và khoa học hoàn bị, trở thành hệ tư tưởng vô sản,
đưa cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ tự phát lên tự giác. Mác và
Ăngghen đã hướng hoạt động của mình vào nghiên cứu sáng tạo khoa học,
các ông đã thâu tóm được tinh hoa tri thức, văn hoá nhân loại từ đó xây dựng
lên hệ thống lý luận của mình. Hệ thống lý luận ấy được khởi nguồn từ khoa
học đích thực do đó tự nó đã khẳng định giá trị thời đại và sức sống trường
tồn cả về mặt lý luận và thực tiễn.
28
29


C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 23, tr 35- tr 36.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 23, tr 49.


19
Thông qua tác phẩm chúng ta thấy đặc trưng nổi bật thể hiện sự sáng tạođó cũng là đặc trưng của triết học Mác. Ăngghen đã công phu trình bày tác
phẩm trên cơ sở đấu tranh có phê phán các nhà triết học trước đó và là kết quả
lao động sáng tạo không mệt mỏi của các ông. Điều đó chứng tỏ rằng học
thuyết triết học của Mác và Ăngghen là một học thuyết chân chính và khoa
học nó gắn với thực tiễn sinh động của phong trào công nhân. Qua tác phẩm
này chúng ta cũng thấy rằng triết học Mác là học thuyết phản ánh thế giới vật
chất luôn luôn vận động phát triển. Triết học Mác luôn là hệ thống mở và
được bổ sung hoàn thiện, coi triết học của các ông chỉ là kim chỉ nam cho
nhận thức và hành động, cần phải vận dụng một cách sáng tạo trong những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Ăngghen viết: “Lý luận của chúng tôi không phải
là một giáo điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao
hàm trong bản thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau”30.
Như vậy, với phân tích ở trên chúng ta khẳng định rằng triết học Mác là
sáng tạo và khoa học, là hệ thống mở, không ngừng được bổ sung, hoàn thiện,
phát triển do đó, nó không thể bị lạc hậu, lỗi thời như các thể lực phản động,
xét lại đang rêu rao xuyên tạc. Lênin người học trò xuất sắc của Mác và
Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một
cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ
nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành
lạc hậu đối với cuộc sống”31.
Triết học Mác đã giải đáp mong muốn xây dựng một xã hội mà ở đó
không có người bóc lột người, con người được giải phóng và được phát triển
toàn diện là mong muốn của các nhà tư tưởng trước Mác. Song những mong
muốn đó không trở thành hiện thực vì nó không đi vào nghiên cứu xã hội cụ

thể, con người cụ thể, thiếu đường lối, phương pháp cách mạng...do đó nó chỉ
là khẩu hiệu chung chung và rơi vào chủ nghĩa xã hội không tưởng mà thôi.
Chủ nghĩa xã hội mở đầu là Cách mạng Tháng mười Nga (năm 1917) đã đánh
30
31

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, t 36, tr 785.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.


20
dấu một bước ngoặt lịch sử nó đã trở thành chủ nghĩa xã hội hiện thực- phong
trào cách mạng hiện thực, nó đã phát động được giai cấp công nhân và quần
chúng cách mạng dưới sự lãnh đảo của đảng cộng sản- đội tiền phong của giai
cấp công nhân- lãnh tụ của phong trào đứng lên làm cách mạng và đã giành
được thắng lợi và đã trở thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa đối trọng với
chủ nghĩa tư bản. Đó là bằng chứng đầy sức thuyết phục cả về lý luận và thực
tiễn- khẳng định tính chân lý, tính hiện thực và sức sống mãnh liệt của chủ
nghĩa Mác- Lênin nói chung và triết học Mác nói riêng.
Triết học Mác- Lênin có mối quan hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên và
đời sống xã hội. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản
của chủ nghĩa Mác- Lênin, đã trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy cả lý
luận và thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân phát triển. Nhận thấy
khoa học là động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng, khoa học đích thực là
giải phóng con người, phục vụ lợi ích con người, do đó thông qua khoa học,
nhất là khoa học tự nhiên để rút ra các kết luận mới làm tăng sức mạnh của
chủ nghĩa duy vật chiến đấu.
Mặt khác những người cộng sản đã lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền
tảng kim chỉ nam cho hành động của mình, vì thế họ luôn luôn bám sát thực
tiễn, phát hiện cái mới và những mâu thuẫn nảy sinh để giải quyết, từ đó khái

quát, hoàn thiện lý luận đưa lý luận vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy cuộc
sống và thực tiễn cách mạng tiến lên. Mác chỉ rõ: “Giống như triết học thấy
giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học
là vũ khí tinh thần của mình”32.
Hiện nay chủ nghĩa xã hội đang lâm vào khủng hoảng, thoái trào, điều đó
không phải do lý luận Mác “sụp đổ” mà là sự khủng hoảng, sụp đổ của một
mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể- có tính chất giáo điều, điều đó cũng có
nghĩa là các nhà cộng sản chưa nắm bắt kịp thời thực tiễn cuộc sống xã hội
đang vận động- sự phát triển của khoa học công nghệ, sự bùng nổ thông
tin...để khái quát, phát triển lý luận, làm cơ sở định hướng và cải tạo thế giới
32

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội1995, tập 1, tr 589.


21
theo đúng tính thần của Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ huấn: “Đối với chúng
ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra,
không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ
nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, xoá bỏ trạng thái hiện nay”33.
Tuy nhiên một số Đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế vẫn
kiên định đường lối lấy lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, kim chỉ
nam cho hành động của đảng, kịp thời nắm bắt các thành tựu mới của sự phát
triển khoa học công nghệ để đổi mới, bổ sung và phát triển lý luận phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước do đó không những đang đứng vững
mà còn có sự phát triển mạnh mẽ, điều đó khẳng định chủ nghĩa Mác- Lênin
nói chung, triết học Mác nói riêng không hề bị lỗi thời như kẻ thù đang xuyên
tạc.
Có thể nói đây là tác phẩm thể hiện xuất sắc nhất tính đảng- bút chiến
của Mác và Ăngghen. Ông đã công khai tính đảng của triết học một cách triệt

để, đứng hẳn trên lập trường của chủ nghĩa duy vật để phân tích biện chứng
của tự nhiên, vận dụng nó trong biện chứng của xã hội, biện chứng của tư
duy. Lênin nhấn mạnh: “Triết học hiện đại cũng có tính đảng như triết học hai
nghìn năm về trước”34. Mác và Ăngghen biến triết học của mình thành vũ khí
tinh thần của giai cấp vô sản. Do gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, triết học Mác đã trở thành hạt nhân lý luận khoa
học cho thế giới quan cộng sản của giai cấp công nhân. Sự thống nhất giữa
tính đảng và tính khoa học trong triết học Mác là sự thống nhất hữu cơ với
nhau. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận của chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình
độ tự phát lên tự giác- một điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân thực
hiện được sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình. Bản thân triết học nó không có
mục đích tự thân mà triết học sinh ra do nhu cầu của phe phái...trong xã hội
có giai cấp tính đảng biểu hiện ra là tính giai cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh là
học trò xuất sắc của Mác, Ăngghen, Lênin với thế giới quan, tư duy triết học
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 3, tr 51.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1980, T.18, tr 445.

33
34


22
duy vật biện chứng, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân
tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác- Lênin” 35. Hiện nay Đảng Cộng sản Việt
Nam không những đánh giá cao vai trò lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin mà
còn khẳng định: “Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của toàn dân tộc Việt

Nam”36. Thực tiễn hơn 75 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh thiên tài đã lãnh đạo cách mạng Việt
Nam giành thắng lợi chấm dứt ách đô hộ hàng nghìn năm của chế độ phong
kiến, hàng trăm năm của các thế lực thực dân cũ và mới đưa đất nước thống
nhất giang sơn thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua hơn 20
năm đổi mới chẳng những đất nước đứng vững không bị sụp đổ (như kẻ thù
tưởng) mà còn đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Đó đã
góp thêm một bằng chứng hùng hồn về sức sống và giá trị thời đại của chủ
nghĩa Mác- Lênin khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã bám sát thực tiễn, bám sát
vào sự phát triển của khoa học và công nghệ, không ngừng bổ sung lý luận
phù hợp với thực tiễn đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên- điều đó càng khẳng
định bản chất cách mang và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, nó không bị lỗi thời như họ lầm tưởng.
Trong công tác nghiên cứu khoa học, với tinh thần kế thừa tinh hoa tư
tưởng văn hoá nhân loại chúng ta phải biết kế thừa, đồng thời phải biết phát
triển, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác nắm vững chủ nghĩa duy vật
biện chứng vào giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội. Giờ đây triết học
Mác không những giải thích thế giới mà là cải tạo thế giới: “Các nhà triết học
đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau; vấn đề là cải tạo thế
giới”37. Nắm vững lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 2, tr 268.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước, Nxb Sự thật, H. 1991, tr 10.
37 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 3, tr 12.
35
36


23
bộ đảng viên, đặc biệt là lực lượng vũ trang trong nhận thức cũng như trong
hành động, trong mỗi việc làm, như Ăngghen viết: “Một dân tộc muốn đứng

vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”38.
Ăngghen đã chỉ ra rằng: mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả
trong lĩnh vực tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi
hình thức của nó. Trên thực tế triết học Mác đã, đang và sẽ trở thành thế giới
quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của mọi
khoa học cụ thể, trong đó có khoa học tự nhiên nói chung và cho phong trào
công nhân nói riêng. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng
chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại, chỉ có
dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại để phát triển thì triết học Mác
mới không ngừng nâng cao được sức mạnh cải tạo thế giới của mình.
Đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa duy tâm, xét lại đang
xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kể cả trong nhận thức
cũng như trong hành động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là
trong lực lượng vũ trang hiện nay. Bám sát cuộc sống, tổng kết kinh nghiệm
phát triển lý luận phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đó là nhiệm vụ của những
người cộng sản hiện nay. Kẻ thù đang tìm cách tuyên truyền xuyên tạc chống
lại Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hiện nay, bóp méo chủ nghĩa Mác chúng
đang rêu rao về giải phóng, phát triển toàn diện, dân chủ, nhân quyền “con
người” một cách phi giai cấp, đó chỉ là con người tộc loại, con người toàn thể,
một cách chung chung...mục đích nhằm che đậy bản chất và đấu tranh giai
cấp mà thôi; điều chỉnh quan hệ sản xuất, các hình thức sở hữu... nhưng tự
bản thân chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua chính nó. Đòi hỏi Đảng ta và
các lực lượng vũ trang nhân dân, cũng như toàn thể giai cấp công nhân Việt
Nam cần hết sức cảnh giác và đấu tranh không khoan nhượng với mưu đồ đó.
Đồng thời kiên quyết phê phán các trào lưu tư tưởng lợi dụng chủ nghĩa duy
tâm bóp méo vai trò con người trong nền sản xuất vật chất. Đó là thái độ đúng
đắn của những người cộng sản. Đó cũng là thể hiện công khai tính đảng của
38

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 489.



24
triết học, biến triết học mácxít thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản; là
hạt nhân lý luận khoa học cho thế giới quan cộng sản của giai cấp công nhân,
là điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử
vĩ đại trên phạm vi toàn thế giới.



×