Tải bản đầy đủ (.ppt) (29 trang)

27 cây quả có chất độc ở VN powerpoint presentation (3)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 29 trang )

27 Cây cỏ - hoa trái

CÓ CHẤT ĐỘC
CHẾT NGƯỜI


Giới thiệu
• Thiên nhiên ưu ái với con người nhưng cũng
cho con người nhiều bài học khi không biết tôn
trọng thiên nhiên. Cỏ cây hoa trái cho con
người các sản phẩm dùng làm thức ăn, uống,
làm thuốc, nhưng cỏ cây hoa trái cũng sẽ
trừng phạt ai khơng hiểu về chúng.
• TL này cung cấp thông tin về > 20 cỏ cây-hoa
tráí (thương thấy ở VN) có chất độc để các bạn
tham khảo, tranh bị ngộ độc.


1/ Cây ngót nghẻo
Đây là loại cây thân thảo dài
1 - 2m, lá hình mũi mác, đầu
tận cùng bằng một tua cuộn
hình xoắn ốc quấn bám cho
thân leo.
Trái dạng nang hình chuỳ
dài, chứa nhiều hạt, khi chín
có màu đỏ tươi. Mùa hoa
vào tháng 5 - 6, mùa quả từ
tháng 6 - 8.




Độc nhất ở rễ củ. Chất độc đáng lưu ý có trong cây là colchicin, chỉ cần 5mg
cho 1kg thể trọng cũng đủ gây chết rất nhanh.
Ngộ độc do ăn phải cây ngót nghẻo gây bệnh cảnh cấp tính sau 2 - 6 giờ, đau
rát miệng, khát nước sau đó nơn, buồn nơn dữ dội, đau bụng và tiêu chảy,
tiêu máu nặng dẫn tới truỵ tim mạch, rối loạn tri giác, co giật, suy hô hấp, tiểu
máu, thiểu niệu. Tiếp đó là xuất huyết, thiếu máu, yếu cơ vào những ngày thứ
hai, thứ ba tiếp theo. Nếu qua khỏi thường bị rụng tóc sau 1 - 2 tuần.


2/Cây lá ngón
Khi những cơn mưa đầu
mùa đổ xuống các cánh
rừng ở độ cao 200 2.000m, cũng là lúc loài
lá ngón Gelsemium
elegans khoe sắc từng
chùm hoa vàng rực rỡ.
Cây và lá ngón rất dễ
nhầm với cây rau sắng




Chỉ cần một chiếc lá mỏng manh hay chùm hoa đẹp đẽ kia xâm nhập vào cơ
thể các lồi máu nóng, lập tức độc tính ancaloit sẽ gây ra triệu chứng khát
nước, đau họng, chóng mặt, hoa mắt, buồn nơn… sau đó là mỏi cơ, giảm
thân nhiệt, hạ huyết áp, răng cắn chặt, sùi bọt mép, đau bụng dữ dội, tim đập
yếu, khó thở, đồng tử giãn và chết rất nhanh do ngừng hô hấp.
Mức độ độc của cây giảm theo thứ tự: rễ, lá, hoa, quả, thân cây. Các nhà
khoa học đã tìm thấy 17 đơn phân ancaloit gây độc được chiết ra từ lá ngón.



3/Cây sui
Có tên KH là Antiaris
toxicaria, cịn được
gọi là cây thuốc bắn.
Vỏ cây được một số
vùng phía Bắc nước
ta lấy sợi dùng làm
chăn, nhưng lại có
độc tố khủng khiếp.

• Từ xa xưa, các thợ săn dân tộc ít người ở miền núi đã
biết dùng nhựa của loài cây này tẩm vào mũi tên săn thú
rừng, chỉ cần một phát trúng đích thì ngay cả một con bị
rừng cũng khơng có cơ hội sống sót


4/ Cây
bồng bồng
Bồng bồng có tên
khoa học Calotropis
gigantea, có hoa to,
đẹp và mọc rất nhiều
ven đường các tỉnh
miền Trung.

• Nhựa của nó với liều thấp sẽ gây nơn, liều cao gây độc
mạnh như nhức đầu, chóng mặt, sốt, nổi ban khắp người,
yếu sức sẽ bị ép tim, ngủ lịm, khó thở và ngừng thở nếu

không được cấp cưu giải độc.


5/Cà độc dược
Còn gọi là mạn đà la, tên khoa
học là Datura metel, thuộc họ
Cà(Solanaceae).
Trong cây (ở lá và hột có hàm
lượng cao nhất) có chứa
nhiều ancaloit (hàm lượng tồn
phần từ 0,2-0,5%), chủ yếu
là scopolamin, cịn có
hyoscyamin, atropin và các
saponin, flavonoit, tanin...
Tác dụng dược lý chủ yếu là do các ancaloit: làm giãn phế quản, giãn
đồng tử, giảm nhu động ruột và bao tử nếu những cơ quan này co
thắt, làm khô nước bọt, dịch vị, mồ hôi…như ngộ độc Benladon


6/Cà gai leo

• Có tên khoa học là Solanum hainanense Hance
Solanaceae, thuộc họ cà. Họ cà gai rất phong phú, có rất
nhiều lồi, trong đó có cây chứa độc giống cây cà độc dược
nhưng độc tính mạnh hơn.
• Nhiều người tử vong vì dùng nhầm cà độc dược. Trẻ em vơ
tình cũng dễ ăn phải và ngộ độc rất nặng


7/Cây sừng trâu



Sừng trâu Strophanthus
caudatus thuộc họ trúc đào
Apocynaceae (một lồi có
độc tính), hoa rất đẹp, quả
ngộ nghĩnh như chiếc sừng
trâu, nhưng độc tính thuộc
loại mạnh. Cả lá, rễ, hạt và
nhựa đều độc.

Nhựa cây sừng trâu thường được trộn với nhựa cây thuốc bắn để tẩm vào mũi
tên săn thú. Hạt là nguyên liệu chế strophanthin pha thuốc tiêm trị bệnh tim vì
trong hạt chứa các glycozit có tác động đối với tim (nhưng dùng quá liều chỉ
định sẽ gây ngộ độc). Khi ngộ độc, người bồn chồn vật vã, nôn kéo dài gây hội
chứng mất nước và rối loạn điện giải, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, ù tai thở
khó, mắt mờ dần và nhịp tim rối loạn, lúc nhanh lúc chậm, triệu chứng rầm rộ.
Nếu không cấp cứu kịp thời có thể tử vong


8/Cây Trúc đào (Oleander)
Trúc đào là một
trong những lồi
hoa có độc tính
cao nhất và chứa
nhiều hợp chất có
độc, nhiều hợp
chất trong số này
có thể gây tử
vong ở người, đặc

biệt là trẻ em.


Loại hoa đỏ và hoa
vàng đều độc

Tồn bộ cây này, bao gồm cả nhựa cây màu trắng sữa là rất độc và bất kỳ bộ
phận nào đều có thể gây ra các phản ứng có hại cho sức khỏe. Chỉ cần ăn
phải từ 10-20 lá trúc đào thì một người lớn cũng có thể bị nguy hiểm đến tính
mạng và chỉ cần 1 chiếc lá cũng có thể gây tử vong ở trẻ em.


9/ Cây hoa Đỗ quyên
Tên khoa học:
Rhododendron
occidentale

Tất cả các bộ phận
của cây đều có chất
độc Andromedotoxin
và Arbutin glucoside

• Người bị ngộ độc do loại cây này thường có triệu chứng
buồn nơn, chảy nước dãi, ói mửa, uể oải, chóng mặt, khó
thở, mất cân bằng. Một lượng 100 đến 225 gram lá Đỗ
quyên đủ để gây ngộ độc nặng cho trẻ em 25 kg.


11.Cây sơn
tên khoa học Rhus

succedanea được
trồng rất phổ biến ở
nước ta (vùng Phú
Thọ) để lấy nhựa,
và cũng mọc tự
nhiên trong rừng

• Chất laccol trong sơn ta gây dị ứng mạnh đối với da.
Những người có cơ địa dị ứng chỉ đi ngang qua cây hay
ngửi thấy đã bị lở sơn và lở nặng, bỏng rát, khó chịu.


12/Bạch
hoa xà
Cây cùng họ với Hoa nhài,
Lá giống lá hoa nhài, bứt lá
khỏi thân cây thấy nhiều
nhựa. Nhựa này có chất ăn
mịn da rất mạnh; đơng y
chữa được 1 số bệnh, đắp
cho vỡ mụn nhọt

• có các thành phần flavonoid, phenol, triterpen, các hợp chất
plumbagin 0,91%, chitranon, zeylenon, matrinon…; axít hữu cơ: acid
palmitic, linoleic… bạch hoa xà cấm dùng cho phụ nữ có thai. Và do
vị thuốc này có độc tính mạnh nên chủ yếu chỉ được dùng ngồi


13/ Găng tu hú
• Cây gỗ nhỏ cao tới 8m,

có gai to, nhọn, dài 515mm. Lá hình xoan
ngược, có lơng mềm
trên cả hai mặt. Hoa
màu vàng lục hay trắng
thường đơn, hầu như
khơng cuống. Quả
mọng, hình cầu hay
hình trứng,

quả chứa saponin trung tính và acid, tinh dầu và acid nhựa. Quả khô
chứa một lượng nhỏ saponin kết tinh gọi là ursosaponin. Cịn có bsitosterol và một triterpen mới Lá thường dùng làm thạch (Sương
sâm). Rễ nghiền ra dùng duốc cá. Quả dùng nhuộm vàng, Như vậy
rễ và quả rất độc


14/ Cây lá Cơi




Có nơi gọi là cây Ngón
- Pterocarya
tonkinensis Pterocarya
tonkinensis (Franch.) họ Hổ
đào, Rất phổ biến ở ven các
sông, suối nhiều nơi ở miền
Bắc Việt Nam từ Lào Cai,
Yên Bái, Hồ Bình, Bắc-Thái,
Lạng Sơn, Thanh-Nghệ.
Cây nhỡ leo cao 5-10m; các

nhánh có màu nâu và lỗ bì
nâu xám. Lá kép lơng chim
có 3-6 đơi lá chét mọc đối
hay gần đối, mép lá có răng
cưa, răng có tuyến, mặt dưới
lá hơi có lơng; các lá chét
càng lên càng to dần. Hoa
đơn tính họp thành đi sóc
đơn tính rất dày hoa.

Trong lá, thân và rễ cây chứa tanin và
quinon và cả juglon, có nhiều trong lá
(0,33%), có ít hơn ở trong rễ (0,17%)
và trong thân (0,08%). Lá rất độc với
chuột và người nhưng ít độc đối với cá
nên ngươi dân dung làm “bả duốc cá”


15/Thàn mát


Cây to cao 10-15m. Cành
màu nâu đỏ có chấm trắng.
Lá có kích thước lớn, kép
lơng chim 2 lần, rất nhẵn.
Hoa trắng, xếp thành chùm
nách nằm ở gốc các nhánh
hằng năm. Quả thót lại từ
1/3 trên đến tận gốc, có
mũi nhọn dài, mỏng khơng

có cánh và khơng mép lồi.
Hạt đơn độc hình bầu dục,
dẹt, màu nâu nhạt đến nâu
cánh gián
• Một vài nơi ở Hà Nội có
trồng để lấy bóng mát có
dạo đua nhau tìm chát cây
này với tên “Cây xưa”

Hạt thường được dùng để duốc cá:
tán nhỏ, trộn với tro bếp, rắc vào
dòng nước suối đã ngăn lại, cá sẽ
chết và nổi lên.


16/ Ba đậu
(ba nhân, mần
để, cây đết)


Cây gỗ nhỏ cao 3-6m, phần
cành nhiều. Lá mọc so le,
mép khía răng. Lá non màu
hồng đỏ. Hoa mọc thành
chùm ở đầu cành. Quả nang
nhẵn màu vàng nhạt. Hạt có
vỏ cứng màu vàng nâu xám.

Hạt chứa khoảng 30-50% dầu mùi khó chịu chứa các glycerid acid,
có tính chất tẩy do nhựa hồ tan trong dầu chứa các yếu tố

phenolic gây bỏng da. Trong hạt có một glycosid là crotonosid một
albuminoza rất độc là croitin,


17/Cây củ đậu
Tên khoa học pachyrhizus
erosus (L) urb, Fabaceae. Cây
được trồng khắp mọi nơi,
Bộ phận gây độc chính là ở lá và
hạt, đều có thành phần chất
rotenon và tephrosin. Những
chất này rất độc với người, nếu
ăn phải toàn thân co giật, đau
bụng dữ dội, miệng nôn trôn
tháo, đường huyết tụt, loạn nhịp
tim, mê man bất tỉnh và tử vong
do suy hô hấp.


18/ Cây
phụ tử
Cây phụ tử (Aconitum
napellus) còn được
gọi là cây Thầy Tu vì
đầu của hoa giống
như đầu nhà tu hành
Vị thuốc “Phụ tử”
nhập từ Trung quốc
• Lồi cây này chứa độc tố aconitine gây nguy hiểm cho những ai ăn
phải thậm chí là chạm vào nó. Ai bị ngộ độc thường có triệu trứng tiết

nhiều nước bọt, nơn mửa, tiêu chảy, cảm giác ngứa ran trong da,
huyết áp và tim bất thường, hôn mê và đôi khi tử vong


19/Ma hồng (Ephedra)




Các lồi thực vật này
sống trong các vùng có
khí hậu khơ trên một
khu vực rộng, chủ yếu
ở Bắc bán cầu, suốt từ
miền nam châu Âu,
miền bắc châu Phi, tây
nam và miền trung châu
Á, tây nam Bắc Mỹ và ở
Nam Mỹ
Nước ta chưa thấy cây
này. Vị thuốc phải nhập
từ Trung Quốc.

Thành phần
Alcaloid (ít nhất
1%), chủ yếu là
ephedrin.

Các amin kích thích thần kinh giao cảm như ephedrin làm tăng nhịp
tim và huyết áp, vì thế nó có thể là nguy hiểm đối với những người có

tiền sử liên quan đến các bệnh tim mạch.


Hồi núi có hoa màu hồng rất đẹp.
Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp,
dài, và cong lên như hình lưỡi
liềm. Lá và quả có tinh dầu, mùi
vừa giống đại hồi, vừa giống tiêu.
Mọc hoang khắp vùng rừng núi ở
trong nước. (Rất giống cây đại hồi
mà chúng ta thường dùng làm gia
vị, nên phải lưu ý để tránh nhầm
lẫn, vì cây hồi núi có độc).



20/Cây hồi núi

Tên khoa học Illicium griffithii Hook.f.et Thoms,Thuộc họ hồi Illiciaceae
Là cây cao 8-15 m. Lá hình bầu dục, khơng rụng, dai, nhẵn, phiến lá
ngun, dài 6-8cm, rộng 2.5-3cm, thành từng cụm 4-5 lá một giống
như mọc thành vòng giả, cuống lá dài 8-10cm. Hồi núi có hoa màu
hồng rất đẹp, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp,
dài, và cong lên như hình lưỡi liềm


21/ Cây hạt Trẩu:
Là cây to, cao từ 8m trở
lên,, thân nhẳng. Cây mọc
hoang và cũng được trồng

khắp nơi trong nước. Lá
đa dạng nhưng có đặc
điểm chung: ở gốc phiến
lá và kẽ thùy bao giờ cũng
có 2 tuyến đỏ nổi rõ.
Hoa màu trắng, đốm tía.
Quả hình trứng màu lục,
cấu tạo bởi 3 mảnh vỏ.
Lá và hạt đều có
saponozit rất độc



Cịn gọi là cây Dầu Sơn, Ngô đồng,
Thiên niên đồng, Mộc du thụ. Thuộc họ
thầu dầu (Euphorbiaccae)


22/ Cây Hồng nàn
• Cịn gọi là Vỏ Dãn. Thuộc họ Mã Tiền
(Loganiaccae)

Là một dây leo mọc hoang ở các
vùng rừng núi miền Bắc nước ta.
Cành gầy, nhẵn, có những móc
mọc đối ở cành non. Thân có vỏ
xám với những đám màu vàng
đỏ. Lá mọc đối, hơi bầu dục. Quả
hình cầu, vỏ ngồi cứng, trong
chứa nhiều hạt hình khuy áo, rất

giống hạt mã tiền. Vỏ và hạt
hoàng nàn rất độc.


23/ Cây Mã tiền
Còn gọi là Củ chi. Thuộc họ
Mã tiền (Loganiacae)
Mọc hoang rất nhiều ở miền Nam
nước ta. Là một cây nhỏ, vỏ xám,
cây non có gai. Lá mọc đối, phiến
lá hình bầu dục. Hoa nhỏ, màu
hồng, họp thành xim thành tán.
Quả mọng hình cầu, to bằng quả
cam, có chứa cơm màu trắng và
nhiều hạt hình khuy áo.
Một số mã tiền được khai thác ở
miền Bắc nước ta là dây leo, có
đường kính thân 10-15 cm, chiều
dài có thể 30-40 mét. Mã tiền rất
độc khi dùng với liều cao, rất dễ
tử vong khi ngộ độc.


24/ Cây
Sừng dê
Còn gọi là Cồng
cộng, Sừng Bò...
Thuộc họ Trúc Đào
(Apocynaccae).
Độc tính tương tự

cây “Sừng trâu”, đơi
khi gọi lẫn tên 2 cây
này
• Là một cây nhỏ, cao từ 3-5 mét.Cây mọc hoang rất phổ biến ở Việt
Nam. Toàn thân và lá khi bẻ có mủ màu trắng sữa. Lá mọc đối, hơi
giống hình thìa, tràng hoa hình phễu rộng, xẻ 5 cánh màu vàng,
đầu cánh hẹp lại thành hình sợi. Quả khơ gồm 2 đại dính vào
nhau chứa nhiều hạt có cuống và chùm lơng mịn dài.
Tồn thân cây sừng dê đều có chất độc, nhất là hạt. Người ta còn
dùng cây sừng dê để chế thuốc tẩm độc tên dùng trong săn bắn.


×