Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.48 KB, 22 trang )

Lời mở đầu
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH)
tiến tới hoàn thành mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2020. Đó là con đường tốt nhất để giúp một đất nước phát triển kinh tế, thoát khỏi
nghèo nàn và lạc hậu. Đảng ta đã xác định rõ CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. CNH-HĐH là một bước chuẩn bị, một
bước xây dựng hạ tầng cơ sở, xây dựng nền tảng cho nền kinh tế của đất nước. Muốn
thực hiện CNH-HĐH cần phải có rất nhiều nguồn lực như: cơ sở vật chất, kinh tế, chính
trị, xã hội,… song nguồn nhân lực chính là nền tảng, là tiền đề quan trọng của CNHHĐH đất nước. Nguồn nhân lực tiên tiến sẽ tạo điều kiện cho công cuộc công nghiệp
hoá- hiện đại hoá đất nước đạt được những bước phát triển nhanh chóng.
Với thực trạng của một đất nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng
nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại, việc đầu tư lâu dài, đúng đắn và phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam chính là quốc sách hàng đầu cho sự phát triển của đất nước. Ở
nước ta con người, nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những mặt
hạn chế. Vấn đề sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý. Đây thực sự
là những vấn đề vô cùng quan trọng và cấp bách, vì vậy, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài
thảo luận: “Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở
nước ta hiện nay”.Tuy có cố gắng thực hiện đề tài nhưng bài viết không tránh khỏi những
thiếu sót và đánh giá chủ quan. Nhóm rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của cô
giáo và các bạn để làm nội dung thảo luận được hoàn thiện hơn.


Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
A. Cơ sở lý thuyết:
1. Khái niệm nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
1.1 Khái niệm nguồn nhân lực
1.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa
2. Quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy nguồn nhân lực ở


nước ta.
B. Phát huy nguồn nhân lực ở nước ta trong sự nghiệp CNH - HĐH
1. Thực trạng:
1.1 Những thế mạnh, ưu điểm của nguồn nhân lực nước ta
1.2 Những hạn chế, nhược điểm của nguồn nhân lực nước ta
1.3 Đánh gia chung về nguồn nhân lực nước ta hiện nay
2. Nguyên nhân dẫn đên chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn yếu kém
3. Giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực của nước ta trong sự nghiệp CNH - HĐH
C. Liên hệ: Tìm hiểu về việc phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH_HĐH
của ngành Tài chính ngân hàng

Kết luận

A.

Cơ sở lý thuyết:


1 Khái niệm nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1 Khái niệm nguồn nhân lực:

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp Quốc thì
“Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng
tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực,
trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người
được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ,
tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì:

- Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng
tham gia lao động .
- Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho
sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình
thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động,
có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể
tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được
huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định
có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng
đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước
và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình
độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là
tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang
tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và
chất lượng. Như vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại
không phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng không tích
cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người
trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…


Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn
nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của
một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một
dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ
cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
1.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa


Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển như: tài
nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong các nguồn lực đó thì
nguồn nhân lực là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên
nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình
độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự
phát triển như mong muốn.
Khi nói nguồn lực con người có vai trò quyết định, thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa
là tách nguồn lực con người một cách biệt lập với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác. Trái lại, cần phải đặt nguồn lực con người trong mối quan hệ với các nguồn lực
hiện có. Theo đó, vai trò của nguồn lực con người được thể hiện vừa với tư cách là chủ
thể vừa với tư cách là khách thể của các quá trình kinh tế - xã hội. Trong quan hệ với
nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác, nguồn lực con người thể hiện với tư cách là
chủ thể của sự khai thác, sử dụng. Nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác tự chúng
không thể tham gia vào các quá trình kinh tế - xã hội; do đó, cũng không thể trở thành
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội luôn thuộc về con người. Chính con người với sức lực và trí tuệ của mình mới là nhân
tố quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực
khác. Đồng thời, việc khai thác và sử dụng các nguồn lực đó một cách có hiệu quả sẽ
đem lại, nhân lên sức mạnh của nguồn lực con người. Thực tế cho thấy, nhờ có lợi thế về
vị trí địa lí, nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; đồng thời, do biết cách khai
thác thế mạnh đó mà một số nước trong khu vực và trên thế giới đã trở thành những nước
giàu có và có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Nhưng, con người không chỉ quyết
định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác hiện
có, mà còn góp phần tạo ra các nguồn lực mới. Điều đó có liên quan tới sự kế thừa giữa
các thế hệ trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Mỗi thế hệ đều được thừa
hưởng các nguồn lực do thế hệ trước để lại, đồng thời tạo ra các nguồn lực mới cho thế
hệ con cháu mai sau.



Nguồn nhân lực đóng vai trò tối quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước vì:
Trước hết, các nguồn lực khác tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chịu sự tác động của
con người. Nếu con người biết sử dụng , khai thác chúng thì các nguồn lực này mới phát
huy hết tác dụng , phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người.Vì thế trong các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất. Hơn nữa, các nguồn
lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà
cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn nhân lực vô tận, con người đã từng bước làm chủ tự nhiên,
khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn
trong tự nhiên, tạo ra các hệ thống công cụ sản xuất mới..... Điều đó nói lên trình độ vô
tận của con người, của sức mạnh nguồn nhân lực.
Ngoài ra, kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước cho thấy sự thành công của quá trình
CNH-HĐH phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức
thực hiện, tức là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người,
của nguồn nhân lực.
2. Quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy nguồn

nhân lực ở nước ta trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay, luôn chăm lo phát triển nguồn nhân lực,
nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta xác định rất rõ rằng: con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển. Bởi vì, mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước suy cho cùng là phải hướng tới phục vụ con người, vì con người và giải phóng
con người.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “phát huy nhân tố
con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân;
kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với
tập thể và cộng đồng xã hội”
Đại hội VIII của Đảng thì nguồn nhân lực càng được chú trọng. Nguồn lực cơ bản, to

lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp
ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của Đảng
khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”


Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược phát triển giáo dục
và đào tạo, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Giáo dục đào tạo được xác định là “quốc sách” hàng đầu với nhiều hình thức đa
dạng để mọi người được học, nhất là người nghèo, con em diện chính sách. Ngành giáo
dục đào tạo, nơi trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực từng bước khắc phục những yếu kém để
chất lượng nguồn nhân lực ngày một nâng lên. Cùng với đổi mới về nội dung giáo dục
theo hướng cơ bản, hiện đại, ngành giáo dục và đào tạo đã tăng cường giáo dục công dân,
giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên của người học. Bên cạnh
đó việc chăm lo cho con người về thể chất cũng được quan tâm và xác định là trách
nhiệm của toàn xã hội, đồng thời chỉ đạo các ngành y tế, thể dục, thể thao, dân số và kế
hoạch hóa gia đình làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996)
nêu: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững”. Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết
tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác định: Giáo
dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân; Phát triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh; Thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập
đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất
quản lý. Phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện về cả trí tuệ, sức khỏe, đạo
đức, thái độ…; Phát triển nguồn nhân lực phải là sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng,

Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là then chốt;
Mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan hệ
không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình
cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng.
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã có các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế
hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản,
toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng


nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ
sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri
thức”. Phương hướng này đã được cụ thể hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
. Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào
tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các
giải pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và
nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo
việc làm tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh
tế cao, xuất khẩu...
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các đại
hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu
đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá
đúng và trúng với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh
tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng
này đã và đang tập trung nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại và phát
triển trong một thế giới năng động, thế giới của khoa học và công nghệ. Vì thế, Đại hội
XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Đây chính là nội dung quan
trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền vững của nước ta trong
điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ những giải pháp
trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và hoàn thiện giá trị,
nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó,
đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu
then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc
con người Việt Nam”.
Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Trước hết, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội.


Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn diện, đủ khả
năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước thì việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày càng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp bách và mang
tính quyết định. Vì thế, để có nguồn nhân lực có chất lượng Đảng và Nhà nước ta đã và
đang quan tâm đồng bộ tới những vấn đề sau:
- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao động. “Đối với
con người hưởng thụ không thể tách rời với cống hiến, phần cống hiến phải nhiều hơn
phần hưởng thụ, bên cạnh nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần”(9). Nâng cao đời

sống vật chất cho người lao động trước hết thông qua đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Điều này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991): “Chính sách
xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hôi. Tình trạng
phân hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế thị trường những năm
đổi mới đã tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải quyết tình trạng này phải giữ
vững nguyên tắc vừa bảo đảm kích thích sản xuất phát triển vừa có chính sách xã hội để
tạo nên sự công bằng trong xã hội ở thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển
kinh tế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh sẽ tạo được động lực to lớn thúc đẩy sự
vươn lên của nguồn nhân lực. Không vươn lên sẽ không có khả năng cạnh tranh, sẽ bị
chính đòi hỏi của nền kinh tế đào thải. Định hướng xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính nhân
văn đối với nguồn nhân lực. Đây là quá trình đào tạo nên những con người Việt Nam mới
thời kỳ hội nhập để phát triển.
- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế. Điều này
giúp người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tôn dân tộc, quyết tâm phấn
đấu cho nền kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu, mặt khác
cũng tạo cơ hội để người lao động Việt Nam có thể tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế
giới, bồi bổ nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của
đất nước.
- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết sức áp lực này
phải được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra


sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế - xã hội. Khuyến
khích mọi thành phần kinh tế, mọi người dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo
việc làm cho người lao động… Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc

làm ở nông thôn”.
- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho người lao
động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa gia đình là bảo đảm
thể chất và tính ổn định của nguồn nhân lực. Vấn đề này được Đảng xác định: “Sự nghiệp
chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là trách nhiệm của
các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó
ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”, đồng thời đã có chương trình về kế hoạch hóa gia đình,
ổn định tỷ lệ tăng dân số.
- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho nguồn nhân lực của
đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam.
Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời
sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại. Đó là
quan điểm tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống của nguồn nhân lực phát triển.
Để có được môi trường đó, trước hết phải coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức,
trách nhiệm công dân, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn
hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền
đồ của đất nước.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ. Đảng ta đã chỉ
rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân
tài, kể cả người Việt nam ở nước ngoài”. Giải quyết tốt vấn đề này là tạo được yếu tố nội
sinh của nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập.
Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến lược phát triển con người trên cơ
sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển.
Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, thành tựu thu được ngày càng to lớn và được
khẳng định. Quan điểm về xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế được Đảng thể hiện
sâu sắc với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận rộng lớn của toàn xã hội. Đó là
những định hướng để nguồn nhân lực của đất nước phát triển nhanh, lành mạnh, đúng
hướng.



B.

Phát huy nguồn nhân lực ở nước ta thời kì công nghiệp hóa – hiện đại
hóa.

1.Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay:
1.1 Những thế mạnh và ưu điểm của nguồn nhân lực nước ta:

Một trong những thế mạnh của nguồn nhân lực Việt Nam là có nguồn nhân lực dồi dào.
Do nước ta có quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ được coi là “cơ cấu vàng” nên số
người trong độ tuổi lớn. Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan
trọng cho phát triển đất nước. Nhìn vào bảng phân hóa lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên phân theo giới tính phân hóa khá đều giữa nam và nữ với quy mô giao động trên
53.000,0 nghìn người. So với tổng quy mô dân số Việt Nam năm 2014 là 90.700,000
nghìn người thì chiếm 58% tổng quy mô của dân số cả nước.

Năm

2014 (Nghìn người)

2015 (nghìn người)

Nam

27.560,6

27.843,6


Nữ

26.187,4

26.140,6

Bảng 1.1: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo giới tính năm 2014, 2015
Một ưu thế khác, nước ta có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số lớn. Tính đến
năm 2015 thì tỷ lệ tham gia lực lượng lao đông của dân số ở khu vực thành thị là 33,94 %
(tăng 2,5 %) so với năm 2014. Còn đối với khu vực nông thôn là 66,06 % (giảm 1,3 %)
so với năm 2014.

Năm

2014(%)

2015(%)

Khu vực thành thị

33,10

33,94

Khu vực nông thôn

66,90

66,06


Bảng 1.2 : Bảng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động phân theo khu vực thành thị, nông
thôn năm 2014, 2015
-

Tuy nhiên, nhờ chính sách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng nguồn nhân lục đã
và đang được cải thiện nhiều. Trình độ học vấn và dân chí của nguồn nhân lực Việt


-

Nam khá cao. Đồng thời, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực không
ngừng được nâng cao. Ngoài ra, công tác nghiên cứu khoa học cũng được chú trọng.
Chúng ta cũng phát triển được một đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đông đảo.
Qua đó chất lượng nguồn lao động Việt Nam được nâng lên.
Nguồn nhân lực Việt Nam còn có lợi thế là tiếp thu truyền thống lịch sử của đất
nước: Truyền thống cần cù, lao động, siêng năng, chịu khó, yêu lao động. Người lao
động nước ta được đánh giá là thông minh, cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí, học
vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật
và công nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2 Những hạn chế, nhược điểm của nguồn nhân lực nước ta

Bên cạnh những ưu điểm nguồn nhân lực nước ta còn có những mặt hạn chế và nhược
điểm:
- Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa
phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây
lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
- Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu
xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam.
- Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, chủ yếu hiểu biết lý thuyết nhưng lại

kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công
nghiệp; cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
- Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ của
nguồn nhân lực còn rất hạn chế.
- Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá
công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.
- Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác,
đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các
nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
1.3 Đánh giá chung
Từ những thực trạng trên có thể thấy nguồn nhân lực nước ta có những đặc điểm khái
quát sau:
- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa được quy
hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi đến chốn.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và
chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức,…


chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Nguyên nhân dẫn đên chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn yếu kém
Một là, cơ cấu chất lượng đào tạo chưa hợp lý
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển đất nước, từng bước đổi
mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và tăng cường sức cạnh tranh, nên đòi
hỏi chất lượng lao động phải cao với một cơ cấu hợp lý hơn. Trong khi đó, công tác đào
tạo nghề vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhu cầu của các thành phần kinh tế để có thể sẵn
sàng tham gia hội nhập. Hằng năm, mặc dù với hơn 1 triệu lao động trẻ ra nhập thị trường
lao động, nhưng công tác đào tạo vẫn tồn tại nhiều yếu kém kéo dài, dẫn đến chất lượng
nguồn nhân lực vẫn không được cải thiện đáng kể, nhiều nghề xã hội có nhu cầu nhưng ít

người học. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động qua đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng vẫn tiếp
tục gia tăng. Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xã hội, nhất là đối
với các KCN, KCX thấp.
Công tác phân luồng học sinh sau trung học nhiều năm qua vẫn yếu kém, chưa khắc phục
được tâm lý sính bằng cấp, coi nhẹ học nghề trong xã hội; các trường đại học cao đẳng
tuyển sinh và đào tạo ồ ạt, làm cạn kiệt nguồn tuyển sinh học nghề. Tình trạng thiếu hụt
giáo viên dạy nghề có khả năng dạy cả lý thuyết và thực hành vẫn phổ biến tại hầu hết
các cơ sở dạy nghề, nhiều trường không tuyển sinh được nên số giáo viên dôi dư khá
nhiều. Thiết bị dạy nghề thiếu, lỗi thời, thậm trí không sử dụng được trong đào tạo thực
hành. Chất lượng đào tạo trong nhiều cơ sở dạy nghề thấp, không đáp ứng yêu cầu các
doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp sau khi tuyển dụng lao động phải đào tạo lại gây tốn
kém và lãng phí cho xã hội và người dân.
Hệ thống giáo dục chưa thống nhất, chia cắt đã kéo dài nhiều năm nhưng chưa được giải
quyết. Quy mô phát triển quá nóng, dẫn đến tình trạng 5 năm gần đây không đủ nguồn
tuyển vào các trường, nhiều cơ sở đào tạo nghề không có người học.
Thiếu tính liên thông trong hệ thống giáo dục và đào tạo cũng như trong việc công nhận
trình độ; chưa có sự gắn kết hai chiều giữa các cơ sở đào tạo với các khu công nghiệp,
khu chế xuất; giữa các cơ sở đào tạo nghề với các trường phổ thông; giữa giảng dạy và
nghiên cứu, phục vụ sản xuất; giữa các cơ sở đào tạo với nhau.
Số lượng các chương trình mới còn quá ít, nhất là những chương trình đạt chuẩn khu vực
và thế giới; nhiều trường vẫn dạy theo chương trình cũ chưa cập nhật kiến thức, nên
không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Hai là, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu cầu
Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các văn bản
quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp thời và
đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp thời,
chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán đầy đủ các
điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ. Ngoài ra,
công tác dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội chưa



tốt, chưa sát với nhu cầu nhân lực ở từng lĩnh vực, ngành, các khu vực kinh tế và các địa
phương; việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo thiếu tính
khoa học.
Năng lực của các cơ quan quản lý còn yếu kém, thiếu cơ chế tương tác giữa các cơ quan
có chức năng kiểm soát, đánh giá, thẩm định chất lượng với các cơ sở đào tạo. Công tác
và cơ chế quản lý còn nhiều vướng mắc, thiếu đồng bộ, chia cắt. Chưa kiên quyết đóng
cửa các cơ sở đào tạo yếu kém và vi phạm nghiêm trọng các quy định trong đào tạo.
Chưa có cơ chế và cơ quan chuyên trách kiểm định chất đào tạo, cấp giấy phép hành
nghề cho lao động qua đào tạo, làm cho thị trường lao động hoạt động thiếu lành mạnh và
khó kiểm soát chất lượng đào tạo. Chưa có khung trình độ quốc gia theo tiêu chuẩn khu
vực và quốc tế để yêu cầu các cơ sở đào tạo phải từng bước thực hiện.
Vai trò và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của
người lao động ở một số khu công nghiệp, khu chế xuất còn hạn chế, yếu kém, chưa thực
sự bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của công nhân, dẫn đến đời sống vật chất và tinh
thần, việc làm của công nhân gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, quan hệ lao động trong các
doanh nghiệp nảy sinh những vấn đề phức tạp.
Tuy có một số mô hình đào tạo nghề thành công, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực phục vụ khu công nghiệp, khu chế xuất như mô hình đào tạo “kép” (vừa
đào tạo tại các cơ sở đào tạo, vừa đào tạo gắn với doanh nghiệp) được các chuyên gia của
Cộng hòa Liên bang Đức đã giới thiệu đã được áp dụng ở một số cơ sở đào tạo và doanh
nghiệp nước ta nhưng chưa nhiều và cũng gặp nhiều khó khăn, bất cập từ chính sách,
công tác tổ chức vận hành đến đội ngũ cán bộ giảng dạy.
Ba là, lực lượng và cơ sở trang thiết bị để chăm sóc cho người dân còn nhiều thiếu thốn
Lực lượng và trang thiết bị chăm sóc người dân (đặc biệt người dân ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, hải đảo,..) dẫn đến thể trạng và sức khỏe người dân vẫn dậm chân tại chỗ. Đa
phần các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa có cán bộ y tế, việc thực hiện đo môi trường và
kiểm tra sức khỏe định kỳ còn chưa thường xuyên, việc phối hợp trong công tác kiểm tra,
giám sát công tác bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh môi trường làm việc, chăm sóc sức

khỏe cho người lao động còn nhiều hạn chế.
Bốn là, một bộ phận nhỏ lao động chưa ý thức được việc nâng cao trình độ, văn hóa,
tay nghề, thờ ơ với nếp sống lao động công nghiệp
Măc dù đã tăng cường công tác về học nghề và dạy nghề, nhưng một số đại bộ phận
người dân vẫn chưa nhận thức đúng nực về vai trò của đào tạo nghề. Một số cấp, ngành,
địa phương chưa có phương án chuẩn bị nguồn nhân lực kỹ thuật, phục vụ phát triển
KT-XH ở địa phương. Một bộ phận lớn học sinh tốt nghiệp THCS, THPT còn chưa hiểu
đúng và chọn học nghề là con đường lập thân, lập nghiệp phù hợp với khả năng, điều
kiện của mình.


Năm là, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế
Cụ thể là: công tác phân luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và
trung học phổ thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa
trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực từ các
đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về
chuyên môn nghiệp vụ, còn sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương,
vùng, miền; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết
quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa
được hiểu và thực hiện đúng…
Sáu là, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực chưa đáp
ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội, văn hoá nước
ta với thế giới
Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực
của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của các nước; mô hình hệ thống giáo
dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nhân lực chưa tương
thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến của các nước trong khu vực và thế
giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực. Việc tổ
chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần

thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu. Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc,
cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu
khoa học giữa Việt Nam và các nước được thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm
năng của khả năng hợp tác quốc tế này phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
3. Giải pháp nhằm phát huy nguồn nhân lực của nước ta trong sự nghiệp

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Từ thực tiễn trong nước và xu hướng phát triển của thế giới có thể thấy rằng, việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý nghĩa
hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo
dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ. Để xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam cần thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Một là, đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực


Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực, đổi mới
phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý
về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng
hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối
cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công
cụ phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc
làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định
cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến và
tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm
2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn
vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng

tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu
tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu,
vùng xa, cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên
cứu đổi mới cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ
hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm
công bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và
đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở
giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái, hình
thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối
với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và
đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ
sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ trợ
người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển
nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển
nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực
(đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đổi mới giáo dục và đào tạo


Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai
đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần quán triệt và triển khai quyết liệt
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8 khoá XI và Nghị
quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trước mắt, cần tập trung vào

một số nội dung sau đây:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân
luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng lưới
giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào tạo, cơ cấu
ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại
học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, vùng, miền và địa phương.
Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
- Đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc
đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học,
doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các bậc học, cấp học, giữa giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ
chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương
trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách mục tiêu, nội
dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo kết quả đầu ra của giáo
dục và đào tạo.
Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo. Đặc biệt chú
trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các trường sư
phạm trên phạm vi cả nước.
Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật
pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực hiện.


Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội dung,
chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp chuẩn quốc

tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào tạo giữa các cơ
sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên công nhận lẫn nhau
chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt Nam và của thế giới;
thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa Việt Nam với các nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại
học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng
và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình
đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại
học Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực
xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học, cao đẳng và dạy
nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào
Việt Nam hoạt động.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới, kỹ
năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm
cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân, các
nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng
nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và nâng
cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

C.

Liên hệ thực tế việc phát huy nguồn nhân lực ngành tài chính ngân
hàng trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Lĩnh vực ngành Tài chính - Ngân hàng (TCNH) luôn được xã hội quan tâm, bởi lẽ

đây là ngành mà trong những năm vừa qua số lượng tuyển dụng lao động khá lớn do điều
kiện về kinh tế xã hội phát triển. Bất cứ một quốc gia nào để có điều kiện phát triển tốt thì
phải có hệ thống ngân hàng vững mạnh. Nếu đặt vấn đề phải có hệ thống ngân hàng vững
mạnh thì rõ ràng họ phải quan tâm đến nguồn nhân lực. Đặc biệt trong thời gian vừa qua,


điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế ở các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng,
nên hệ thống ngân hàng tài chính phát triển và mở rộng rất nhanh, có điều kiện thu hút
nguồn nhân lực về lĩnh vực này khá lớn. Theo số liệu Bộ Tài chính thì trong những năm
qua, quy mô đào tạo trình độ Đại học, cao đẳng ngành Tài chính - Ngân hàng tăng nhanh.
Trong tổng số khoảng 1,5 triệu sinh viên năm học 2006-2008 thì có hơn 400 nghìn sinh
viên theo học ngành TCNH. Dự kiến đến năm 2011, nhu cầu nguồn nhân lực của các lĩnh
vực bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán và thẩm định giá khoảng 13.500 người. Trong đó,
lĩnh vực chứng khoán cần tới 5.000 người, tăng trên 500% so với hiện nay; nhu cầu nhân
lực đối với ngành kiểm toán đứng thứ 2 với tốc độ tăng 103% so với hiện nay (khoảng
3.000 người); lĩnh vực thẩm định giá cũng được dự báo cần tới 500 người (tăng 20% so
với hiện nay)… Nếu nhìn tổng thể về ngành TCNH mà nhiều trường đào tạo như vậy thì
mọi người nghĩ sẽ thừa nhân lực nhưng nếu nhìn vào chất lượng nguồn nhân lực thì hầu
như các cơ quan tuyển dụng họ vẫn lựa chọn đầu vào ở những trường có truyền thống
Nhu cầu sử dụng nhân lực trong lĩnh vực TCNH rất rộng vì nhiều lĩnh vực khác họ
cũng cần đến ngành này. Hướng tương lai, ngành TCNH luôn cuốn hút các doanh nghiệp
và các ngân hàng luôn tìm kiếm nguồn nhân lực có chất lượng cao. Tuy nhiên, trong năm
2008 - 2009, khi tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam thì việc mở rộng
các ngân hàng không còn như trước đây, song nguồn nhân lực cho hệ thống này mọi
người vẫn rất quan tâm bởi lý do sau: Lực lượng lao động chính của ngành này, hàng
năm số lượng nghỉ chế độ cũng khá lớn và sàng lọc trong hoạt động đối với những người
đã tuyển dụng nhưng không làm được việc cũng nhiều. Đại diện Ngân hàng xuất nhập
khẩu Việt Nam cũng cho biết hiện nay hầu hết các sinh viên ra trường đều chưa thể đáp
ứng ngay được công việc. Gần như 100% các nhân viên đều phải qua một khóa đào tạo
ngắn hạn ít nhất là ba tháng của ngân hàng, rồi sau đó có một thời gian “cầm tay chỉ

việc” mới có thể làm được. Bên cạnh đó, hàng năm có sự di chuyển nhân lực từ ngân
hàng này sang ngân hàng kia, do vậy bộc lộ nơi thừa, nơi thiếu nên mọi người đều có
cảm giác thiếu nhân lực. Đặc biệt, năm 2013 các ngân hàng nước ngoài họ vào thị trường
Việt Nam sẽ rất nhiều. Đây sẽ là nơi thu hút lực lượng trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam, kể cả lao động mới. Từ đó, dẫn đến nhu cầu lao động trong ngân hàng không phải
đến ngưỡng nào là đủ, nó luôn luôn có sự thay đổi, bổ sung liên tục.
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu cho biết nhân lực
ngành ngân hàng đã thực sự đến mức báo động đỏ. Nhu cầu nguồn nhân lực cho ngành
này mỗi năm cần khoảng 15.000 nhân viên tốt nghiệp đại học nhưng cộng số sinh viên tại
các trường mới chỉ đáp ứng 11.000 người, mỗi năm thiếu gần 4.000 người Tin tưởng rằng
với sự phát triển CNH,HĐH đất nước ngành ngân hàng sẽ đóng góp số lượg cũng như
chất lượng cho nền kinh tế.


Bất cứ một sự phát triển nào đó cũng đều phải có một động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội được dự trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực. Song chỉ có
nguồn lực con người mới tạo ra động học cho sự phát triển, những nguồn lực khác muốn
phát huy tác dụng chỉ có thể thông qua nguồn lực con người. Do vậy trong bất cứ xã hội
nào, một đất nước nào, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng đóng một vai trò cực kỳ quan
trọng. Đặc biệt ở nước ta, vấn đề này lại càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Con người
Việt Nam đã làm được những điều kỳ diệu trong lịch sử và con người Việt Nam chắc
chắn cũng làm được những điều kỳ diệu như thế trong tương lai, trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Kết luận
Việt Nam đã và đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến tới hoàn
thành mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để hoàn thành
công cuộc này thành công, một trong những việc mà nhà nước Việt Nam cần phải làm là
khắc phục được những hạn chế, những bất cập trong thực trạng của nguồn nhân lực công
nhân – nguồn lực cơ bản và quan trọng nhất trong các yếu tố nguồn lực chủ yếu tham gia

vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vấn đề chính cần phải khắc phục là thực
trạng tri thức của nguồn nhân lực công nhân hay nói cách khác là đầu tư phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao. Nếu giải quyết được triệt để các vấn đề này, Việt Nam sẽ có một
điểm tựa vững chắc trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hy vọng trong tương
lai, vào năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghệp và xa hơn nữa là
đứng trong hàng ngũ của những nền kinh tế phát triển thế giới.


Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 12
I.
1.
2.
3.
4.
5.

II.
III.

Các thành viên tham gia
………………………….
.…………………………
………………………….
…………………………..
…………………………..

6. ………………………

7.……………………….
8. ………………………
9.……………………….
10.. …………………….
11. …..………………...

Mục đích cuộc họp: Bầu nhóm trưởng và phân chia công việc ban đầu.
Nội dung công việc
1. Thời gian: ……………………………………………………..
2. Địa điểm: ……………………………………………………...


Nhiệm vụ từng thành viên nhóm
Các thành viên tham gia góp ý, thống nhất ý kiến về việc bầu ra nhóm
trưởng cho nhóm. Ngoài ra các bạn tìm kiếm tài liệu thêm ngoài giáo
trình cho đề tài.
Đánh giá chung
Buổi họp sôi nổi, tích cực, các thành viên thông nhất quan điểm về việc
chọn nhóm trưởng cũng như đưa ra ý tưởng, đóng góp cho đề tài.

3.

IV.

Nhóm trưởng

Thư kí

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc


BIÊN BẢN HỌP NHÓM 12
V.

Các thành viên tham gia
6. ………………………….
7. .…………………………
8. ………………………….
9. …………………………..
10. …………………………..

VI.
VII.

6. ………………………
7.……………………….
8. ………………………
9.……………………….
10.. …………………….
11. …..………………...

Mục đích cuộc họp: Thảo luận những công việc đã được phân chia
Nội dung công việc
4. Thời gian: ……………………………………………………..
5. Địa điểm: ……………………………………………………...
6. Nhiệm vụ từng thành viên nhóm


VIII.


…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
Đánh giá chung

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Nhóm trưởng

Thư kí

Bảng đánh giá thành viên tham gia thảo luận nhóm 12
STT

Họ tên

Lớp

Mã sinh viên

Điểm tự
đánh giá

Điểm nhóm
đánh giá




×