Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG GIẢI PHÓNG TRIỆT để CON NGƯỜI TRONG TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG sản sự vận DỤNG TRONG xây DỰNG mô HÌNH CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.47 KB, 21 trang )

TƯ TƯỞNG GIẢI PHĨNG TRIỆT ĐỂ CON NGƯỜI TRONG
“TUN NGƠN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”. SỰ VẬN DỤNG XÂY DỰNG
MƠ HÌNH XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Đặt vấn đề
Cách đây gần 170 năm, ngày 24-2-1848, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản một tác phẩm lý luận bất hủ, một văn kiện mang tính cương lĩnh chính trị giàu
sức sống thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản khoa học - do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo đã được xuất bản lần đầu tiên tại Ln Đơn (thủ đơ nước Anh).
Từ đó tới nay, dù thế giới đã trải qua biết bao biến đổi thăng trầm, nhưng Tuyên
ngôn vẫn luôn luôn là cơ sở lý luận khoa học, ngọn cờ tư tưởng, ngôi sao dẫn
đường và kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế. Và chắc chắn nó sẽ còn mãi với thời gian trong lịch sử phát triển tư
tưởng của nhân loại.
Sở dĩ Tun ngơn có sức sống lâu bền và giá trị to lớn như thế trước hết là
bởi nội dung của nó mang tính cách mạng và khoa học rất sâu sắc. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận
giải một cách khoa học về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội; về vị trí
và ý nghĩa quan trọng của sản xuất vật chất cũng như vai trò của kiến trúc thượng
tầng; về quá trình phát sinh, phát triển và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư
bản; về vai trò, sứ mệnh lịch sử và phương hướng đấu tranh của giai cấp công
nhân hướng tới xây dựng một xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh... Đúng như
V.I. Lê-nin nhận định, Tun ngơn của Đảng Cộng sản "trình bày một cách hết
sức sáng sủa và rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa
duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội, - phép biện chứng với tư cách
là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh
giai cấp và vai trị cách mạng - trong lịch sử tồn thế giới - của giai cấp vô sản,
tức là giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản"[10,tr57].
Dưới ngọn cờ của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động tồn thế giới đã thu được những thành tựu vĩ đại trong cuộc
đấu tranh khơng ngừng chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người khỏi áp
1



bức, bất cơng, tiến tới một thế giới hịa bình, ấm no và hạnh phúc. Sự ra đời của
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là một sự kiện trọng đại trong lịch sử. “Nó
chẳng những là một tác phẩm lý luận mà còn là bản cương lĩnh Cách mạng đầu
tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Với Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã hoàn thành về cơ bản quá trình
chuyển biến từ khơng tưởng thành khoa học.”[8, tr13]
Tun ngơn của Đảng Cộng sản là một tác phẩm kinh điển với kết cấu nội
dung gồm 4 chương, 7 lần viết lời tựa, được dịch trên 100 thứ tiếng, đến nay đã
tái bản trên 100 lần và phát hành trên toàn thế giới, là cuốn sách gối đầu dường
của những Người Cộng sản. Nội dung tác phẩm là sự kết tinh của lao động khoa
học sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, chứa đựng nhiều giá trị khoa học và
cách mạng, có ý nghĩa rất lớn lao đối với cuộc sống nhân loại tiến bộ trên thế
giới trong 168 năm qua. Trong đó, tư tưởng giải phóng triệt để, tồn diện con
người như là một sự hội tụ của nhiều giá trị tốt đẹp về triết học, về chính trị, về
nhân văn… Chính nhờ vậy mà tác phẩm Tun ngơn của Đảng Cộng sản đã có
sức sống mãnh liệt, giữ được sự bền vững và đã tạo nên một phong trào thực
tiễn cách mạng mang tính chất khoa học, ghi dấu ấn vơ cùng sâu sắc trong đời
sống của nhân loại tồn thế giới. Với giá trị cao đẹp, vĩnh hằng và tư tưởng tập
trung xuyên suốt của tác phẩm, tác giả tiếp cận đi sâu phân tích: Tư tưởng giải
phóng triệt để con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Sự vận dụng
xây dựng mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay làm nội dung
nghiên cứu viết bài thu hoạch và vận dụng trong quá trình học tập, cơng tác sau
này.
2. Nội dung cơ bản cần tập trung nghiên cứu thu hoạch
Tư tưởng giải phóng triệt để con người trong tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”
Thứ nhất, giải phóng con người là tư tưởng hàng đầu của các vĩ nhân mọi
thời đại, là khác vọng của nhân loại ở các thời kỳ lịch sử và đã được phản ánh
tập trung trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
2



Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy
tan rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp
bức, bóc lột và giai cấp bóc lột. Một xã hội tương lai khơng có áp bức, bóc lột là
giấc mơ của nhiều thế hệ. Trùng trùng, lớp lớp người nô lệ, những người nông
dân bị bóc lột đến cùng quẫn đã vùng đứng lên chiến đấu dưới ngọn cờ của
Spác-ta-quýt, Ga-ri-ban-đi ở phương Tây hay của những lãnh tụ nông dân ở
phương Đông. Nhưng rốt cuộc thì con đường kết cục của họ hoặc là giá treo cổ,
đài hành hình, hoặc là trở lại cúi đầu cam chịu cuộc sống nô lệ như trước. Khi
mà trên thực tế người ta bất lực, không thể giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột,
bất cơng thì các tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đã xuất hiện. Nó khơng
tưởng bởi vì khơng xuất phát từ những quy luật xã hội, khơng có khả năng cũng
như những cơ sở tồn tại trong thực tiễn. Về thực chất thì chủ nghĩa xã hội khơng
tưởng từ trong cội rễ sâu xa của nó cũng khơng khác gì sự an ủi trong tôn giáo
hay những ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc mà con người gửi gắm trong
những câu chuyện cổ tích. V.I. Lê-nin đã viết: "Đã lâu rồi, đã hàng bao thế kỷ
nay, thậm chí hàng ngàn năm nay, nhân loại mong ước thủ tiêu" lập tức "mọi sự
bóc lột"[9,tr53].
Trong dịng chảy liên tục của lịch sử, trải qua hàng ngàn năm các nhà tư
tưởng của nhân loại đã kế tiếp nhau từng bước thắp sáng niềm tin, bồi đắp năng
lực trí tuệ để con người tiến tới tự do nhờ khắc phục sự phụ thuộc thụ động vào
tự nhiên và các quan hệ xã hội. Các nhà triết học cổ đại ở Hy lạp, Ấn độ, Trung
quốc đã hết sức đề cao giá trị tự do của con người sống trong xã hội và hầu hết
các nhà triết học lớn đều có tiếng nói chung là: nghèo đói trong tự do cịn hơn
giàu sang trong nơ lệ. Các tôn giáo lớn của nhân loại đã cụ thể hơn khi đi tìm tự
do và con đường giải phóng tín đồ của mình, nên Đức phật thích ca Mâu Ni,
Chúa Giê Su, Thánh Ala và các nhà sáng lập lý thuyết về Chủ nghĩa xã hội khoa
học có thể gặp nhau ở khác vọng làm cho con người hạnh phúc. Tất nhiên, cơ sở
khoa học và thực tiễn của họ rất khác nhau nên vai trò lịch sử và ý nghĩa tiến bộ

xã hội khơng giống nhau. Vì như C.Mác đã khẳng định: các nhà triết học trước
Mác hoặc cùng thời với ơng đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau,
3


song theo Mác thì vấn đề là cải tạo thế giới. Về con người cũng như tự do và sự
phát triển tồn diện của nó được nhiều nhà tư tưởng, lý luận xem xét hết sức
trừu tượng của những con người lý tính, tách rời xã hội và hoạt động thực tiễn,
sống ngoài quần chúng nhân dân, đứng trên dân tộc và giai cấp. Ngược lại,
C.Mác và Ăng-ghen đã chú ý đến tính hiện thực là tổng hồ của các mối quan hệ
xã hội, là con người cảm tính, gắn với hoạt động thực tiễn; con người không
tách rời quần chúng nhân dân lao động, hoà trong giai cấp, dân tộc của những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Do vậy, trong tuyên ngôn của đảng cộng sản đã xác
định mục tiêu cao cả nhất cần đạt đến là phát triển tự do cho tất cả mọi người.
Phải “Thay thế xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của
nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[1,tr628]
Thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phác họa mơ hình xã hội mới mà trong
đó con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có điều kiện để được phát
triển tồn diện.
Sau khi giành được chính quyền, với bộ máy nhà nước trong tay, giai cấp
công nhân sẽ từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu - nguồn gốc của mọi áp bức bất
công. "Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một điểm
duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu"[1,tr616] hay "Cách mạng cộng sản chủ
nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá
khứ"[1,tr626]. Ở đây, chúng ta phải hiểu xóa bỏ chế độ tư hữu có nghĩa là xóa
bỏ chế độ chiếm hữu tư sản và các chế độ chiếm hữu trước đó về tư liệu sản
xuất. Đó là cơ sở để dẫn tới việc lao động sống của người công nhân chỉ là "một
phương thức để tăng thêm lao động tích lũy"- tăng thêm tư bản. Và vì thế, đó
chính là nguồn gốc đẻ ra nạn người bóc lột người. Mục đích của việc xóa bỏ chế

độ chiếm hữu đó cũng chính là để giải phóng lực lượng sản xuất, để "tăng thật
nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên"[1,tr626]. Chỉ khi lực lượng sản
xuất được giải phóng thì mới có năng suất cao, sản phẩm xã hội dồi dào. Đó là
con đường tất yếu để xây dựng xã hội mới.
4


Những người công nhân làm thuê đã bị bọn tư sản biến thành những công cụ
kiếm tiền cho chúng, họ trở thành những cái máy, mất hết sự độc lập và cá tính
"Trong xã hội tư sản, tư bản có tính độc lập và cá tính, cịn cá nhân người lao
động lại mất tính độc lập và cá tính"[1,tr617]. Như vậy xóa bỏ xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới chính là xóa bỏ cái cá tính tư sản, tự do tư sản, thứ tự do bóc lột
sức lao động của người khác để hình thành một xã hội mới mà ở đó mọi thành
viên được tự do, tự do định đoạt số phận của mình, và chính sự tự do của mỗi cá
nhân ấy là điều kiện cho sự phát triển chung của cả xã hội. "Thay cho xã hội tư
sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên
hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi cá nhân là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người"[1,tr628]. Ở đây, vấn đề giải phóng con người khơng
chỉ dừng lại ở việc xóa bỏ áp bức, bóc lột, thiết lập những quan hệ tự do, cơng
bằng giữa người với người, mang lại những cơ sở vật chất và tinh thần bảo đảm
cho cuộc sống con người. Xa hơn nữa và nhân văn hơn nữa, theo tinh thần
của Tun ngơn của Đảng Cộng sản, giải phóng con người còn bao gồm việc giáo
dục và tạo ra các điều kiện cho mỗi con người có thể phát triển tồn diện những
khả năng của mình. Để đạt tới mục đích đó, Tun ngơn của Đảng Cộng sản vạch
ra những giải pháp như: "Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người",
"giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em"...
Sự phát triển đồng đều và cân bằng giữa các vùng miền, đặc biệt giữa thành
thị và nông thôn là một đặc trưng của xã hội tương lai. "Kết hợp nông nghiệp
với công nghiệp, thi hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt giữa
thành thị và nông thôn"[1,tr628]. Đi cùng với sự phát triển kinh tế thường là sự

gia tăng chênh lệch giàu nghèo, đặc biệt giữa khu vực thành thị và nơng thơn.
Thực tế trong q trình tồn tại của mình, chủ nghĩa tư bản đã minh chứng rằng
nhiều người khơng được hưởng lợi, thậm chí thiệt thịi từ sự phát triển. Bảo đảm
phát triển đồng đều là một trong những yếu tố quan trọng để có sự bình đẳng và
công bằng cho mọi thành viên trong xã hội.

5


Các vấn đề xã hội được giải quyết một cách hài hịa, bình đẳng, nhằm mục
tiêu phát triển tự do của mỗi con người trong cộng đồng nhân loại. Một số vấn
đề xã hội cũng được đề cập đến trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản như giáo
dục, các mối quan hệ trong gia đình. Như chúng ta biết sự khác biệt về thu nhập,
trong những cơ may nào đó có thể chuyển đổi, nhưng sự khác biệt về học vấn thì
sẽ kéo dài cả thế hệ. Sự phân tầng xã hội về học vấn là một nguyên nhân quan
trọng nhất làm sâu sắc thêm sự bất bình đẳng trong xã hội. Để san lấp khoảng
cách đó thì trong xã hội tương lai mọi thành viên phải có cơ hội như nhau trong
giáo dục, học hành, đặc biệt là đối với trẻ em "Giáo dục công cộng và không
mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xóa bỏ việc sử dụng trẻ em làm cho các công
xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất, v.v.."[1,tr628] đó là
những tư tưởng đặc sắc về mơ hình xã hội mới mà ngày nay các quốc gia, dân
tộc đang nỗ lực phấn đấu thực hiện theo mục tiêu của thời đại.
Đối với các mối quan hệ trong gia đình, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã
nêu rõ bản chất quan hệ gia đình tư sản, nó dựa trên tư bản, lợi nhuận cá nhân, ở
đó người phụ nữ bị coi như một cơng cụ sản xuất. "Gia đình tư sản hiện nay
dựa trên cơ sở nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận cá nhân"[1,tr620], "Đối với
người tư sản, vợ hắn chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất"[1,tr623]. Gia đình
là tế bào của xã hội vì vậy muốn có một xã hội phát triển văn minh thì các mối
quan hệ gia đình phải được tạo lập trên cơ sở bình đẳng, đó cũng là một đặc
trưng của xã hội tương lai.

Trên phạm vi quốc tế, để xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân
tộc cũng phải xuất phát từ điều kiện hàng đầu là "xóa bỏ nạn người bóc lột
người" để xóa bỏ "nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác". Nói cách khác, nguyên
nhân của sự bất bình đẳng, áp bức của dân tộc này đối với dân tộc khác nằm
trong chính sự bất bình đẳng, đối kháng lợi ích của nội bộ mỗi dân tộc. Chính vì
thế mà "Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn
nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo"[1,tr624]. Ngày
nay, thế giới chúng ta đang chung sống trong hịa bình, nhưng tiềm ẩn biết bao
mối đe dọa về chiến tranh, xung đột vũ trang, sắc tộc tơn giáo… chỉ có giải
quyết triệt để các vấn đề ngổn ngang của thế giới khi biết soi vào những tư
tưởng vĩ đại như đã nói ở trên.
6


Như vậy, từ tất cả các phương diện của mô hình xã hội tương lai mà C.
Mác và Ph. Ăng-ghen đã dự đốn trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản đều
nhằm tới mục đích giải phóng, mang lại tự do cho con người, hướng tới những
điều kiện cho sự phát triển tồn diện của con người. Đó cũng là con đường, cách
thức để thực hiện ước mơ từ ngàn đời của các thế hệ con người trong quá khứ.
Tuy nhiên, điều khác biệt căn bản ở đây là sự giải phóng, cuộc sống tự do của
con người mà các tác giả của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vạch ra khơng
phải là một món q mà thượng đế hay một lực lượng siêu nhiên nào ban tặng.
Nó trước hết là kết quả có tính quy luật của tiến trình vận động xã hội và cùng
với đó là kết quả cuộc đấu tranh không mệt mỏi của con người chống các thế lực
áp bức, bóc lột, chống lại các giai cấp phản động, chinh phục thiên nhiên và bảo
vệ môi trường sống.
3. Đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa,
xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột là phương thức, động lực quyết định để giải phóng
các giá trị Người chân chính đã được C.Mác và Ph.Ăngghen luận giải khoa học
và cách mạng trong Tuyên ngôn.

Đến giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ nghĩa tư bản, các tư tưởng xã
hội chủ nghĩa không tưởng có bước phát triển mới, nó thể hiện sự bất bình của
đơng đảo người lao động trước những thủ đoạn bóc lột dã man và tàn bạo của
giai cấp tư sản mới lên. Nhận thức được mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp
trong xã hội tư sản, trong đó, giai cấp vơ sản là bộ phận bị áp bức, chịu nhiều
đau khổ nhất, những đại diện của chủ nghĩa xã hội khơng tưởng như Xanh Ximơng, Phu-ri-ê, Ơ-oen, v.v. đã đưa ra những kế hoạch để bảo vệ lợi ích của giai
cấp cơng nhân. Tuy nhiên, họ đã khơng tìm ra những điều kiện vật chất, những
cơ sở kinh tế, xã hội để biến những kế hoạch đó thành hiện thực. "Họ đã lấy tài
ba cá nhân của họ để thay thế cho hoạt động xã hội; lấy những điều kiện tưởng
tượng thay thế cho những điều kiện lịch sử của sự giải phóng; đem một tổ chức
xã hội do bản thân họ hoàn toàn tạo ra, thay thế cho sự tổ chức một cách tuần
tự và tự phát của giai cấp vơ sản thành giai cấp"[1,tr640]. Vì vậy, những dự
doán và kế hoạch của các nhà chủ nghĩa xã hội khơng tưởng về giải phóng giai
cấp cơng nhân và xây dựng một xã hội mới rút cục chỉ là những giấc mơ viển
vơng, mang tính chủ quan.
7


Chỉ đến khi xuất hiện C. Mác và Ph. Ăng-ghen, hai ông đã làm một cuộc
cách mạng sâu sắc nhất trong lịch sử với việc phát hiện ra xu thế phát triển
khách quan của đời sống xã hội, giải đáp một cách khoa học những vấn đề mà
các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng đã nêu ra nhưng chưa giải đáp nổi. C.
Mác và Ph. Ăng-ghen trải qua một quá trình nghiên cứu và thử nghiệm mà hành
trình tư tưởng được ghi nhận trong hàng loạt tác phẩm thời trẻ - "Lời tựa cuốn
Phê phán triết học pháp luật của Hê-ghen", "Bản thảo kinh tế - triết học 1844",
"Tình cảnh giai cấp công nhân Anh", "Sự khốn cùng của triết học", "Nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản" - đến đầu năm 1848, sự ra đời của Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản đánh dấu sự hình thành cơ bản những tư tưởng đó.
Nhận thức sâu sắc khát vọng của nhân loại về giải phóng con người và xem
đó như một động lực phát triển của lịch sử loài người, hai ông đã lập luận rằng,

xã hội nô lệ đã bị xã hội phong kiến thay thế, xã hội phong kiến đã bị xã hội tư
bản thay thế và đến lược nó xã hội tư bản sẽ bị xã hội cộng sản thay thế. Các sự
thay thế đó khơng phải là ý muốn chủ quan, mà là sự thống nhất sự chín muồi
của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Đến chủ nghĩa tư bản, nhu cầu
về tự do và phát triển con người đã có bước phát triển cao, do đó mà tính tất yếu
cấp thiết về giải phóng con người đã đặt ra rất thực tế. “Vì sự đối kháng các giai
cấp phát triển song song với công nghiệp cho nên họ càng không thấy những
điều kiện vật chất cần cho sự giải phóng của giai cấp vơ sản, và cứ đi tìm một
khoa học xã hội, những quy luật xã hội, nhằm mục đích tạo ra những điều kiện
ấy”[1,tr640].
Theo đó, những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã lựa chọn
đấu tranh để giải phóng con người thốt khỏi sự phụ thuộc thụ động của con
người trong quan hệ với tự nhiên và mọi ách áp bức, sự bất bình đẳng trong xã
hội và gia đình nhằm để con người thật sự có độc lập, tự do phát triển tồn diện.
Vì mục tiêu cao cả đó mà Mác và Ăngghen đã sử dụng đến phương thức đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, thậm chí cịn phải thực hiện một sự chun
chính nhất định để bảo vệ mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Đó là một thứ bạo lực tiến bộ cách mạng mang ý nghĩa nhân
8


văn sâu sắc. Chính trên lẽ phải đó mà Mác và Ăngghen đã công khai rằng:
“những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ, nếu giấu giếm những quan
điểm và ý định của mình. Họ muốn cơng khai tun bố rằng mục đích của họ chỉ
có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện
hành”[1,tr646]
Nằm trong sự chi phối của quy luật chung ấy, chính sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản cũng là một mắt xích, một nấc thang trong tiến trình đi tới tự do và
giải phóng cho con người. Bởi vì trước hết, sự phát triển của nền đại công nghiệp
dưới chế độ tư bản, một mặt đã thúc đẩy sự lớn mạnh, trưởng thành cả về số

lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, "người đào huyệt chôn" chủ nghĩa tư
bản. Mặt khác, nền sản xuất đại công nghiệp cùng với phương thức thống trị xã
hội của giai cấp tư sản đã trở thành một thứ động lực làm cho giai cấp cơng nhân
đồn kết lại và làm cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, mất dần sự cách biệt.
Và cuối cùng, bản thân nền đại công nghiệp cùng tất cả các lực lượng sản xuất, kỹ
năng lao động và các nguồn lực vật chất mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cũng chính
là sự chuẩn bị những điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho nền sản xuất cộng sản
chủ nghĩa. Đó cũng là những điều kiện, những động lực thúc đẩy nhanh q trình
thực hiện mục tiêu giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, mang lại cho
nhân loại sự tự do, bình đẳng, hạnh phúc và sự phát triển tồn diện. Chính trong
mục tiêu ấy đã hàm chứa tính nhân văn cao cả của Tun ngơn của Đảng Cộng
sản nói riêng, cũng như của học thuyết Mác - Lênin nói chung mà khơng có bất
cứ một học thuyết nào khác có thể so sánh nổi, cũng như khơng có bất cứ một âm
mưu nào, một luận thuyết nào có thể bơi nhọ hay làm lu mờ.
Thứ tư, C.Mác và Ph. Ăngghen đã lựa chọn những con người với chữ
Người viết hoa của lịch sử nhân loại làm lực lượng tiên phong cho sự nghiệp
giải phóng con người hồn toàn và triệt để.
Hai phát minh vĩ đại của Mác: học thuyết giá trị thặng dư, chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã nâng tầm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen trong tìm kiếm lực lượng
tiên phong của lịch sử, của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội. Vì nội dung hai học thuyết có tầm vóc thời đại, là cơ sở phương pháp luận
9


trực tiếp để xác định vai trò quyết định sự phát triển của lịch sử là quần chúng
nhân dân và trong xã hội tư bản, giai cấp vô sản muốn giải phóng mình trước hết
phải giải phóng các đồng minh của họ. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,
Mác và Ăng-ghen đã có lịng tin khoa học và cách mạng trong sự nghiệp giải
phóng con người vào giai đoạn phát triển cao của lịch sử nhân loại. “Trong tất
cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vơ sản

là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác điều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản
phẩm của bản thân nền đại cơng nghiệp”[1,tr610].
Nhờ có sự tiếp cận lịch sử-lơgíc và lơgíc-lịch sử, C.Mác và Ăng-ghen đã
chăm lo đến những điều kiện, nhân tố để giai cấp vơ sản có khả năng đương đầu
với giai cấp tư sản để hiện thực mục tiêu độc lập, tự do ở trình độ cao cho con
người. Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, thì giai cấp vơ sản và
các dân tộc bị áp bức phải đoàn kết lại; cần chuyển đấu tranh tự phát thành tự
giác; nhất thiết phải có lý luận tiền phong soi đường và phải có bộ phận tiên tiến
nhất của giai cấp cách mạng lãnh đạo. Theo Mác và Ăngghen thì: “Về mặt thực
tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công
nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về
mặt lý luận, họ hơn bộ phận cịn lại của giai cấp vơ sản ở chổ là họ hiểu rõ
những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản”[1,tr615]. Như
vậy, giai cấp vô sản và quần chúng nhân bị áp bức dưới sự soi sáng của chủ
nghĩa và sự tiên phong của Đảng Cộng sản thực hiện một cuộc chiến đấu sống
còn với những cản trở cuối cùng trong lịch sử để giải phóng tồn vẹn con
đường: “Giai cấp tư sản sinh ra những người đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là điều tất yếu như
nhau.”[1,tr613]
Thứ năm, giá trị cao đẹp và vĩnh hằng của Tuyên ngôn về giải phóng con
người đã được lịch sử nhân loại chứng minh bằng cuộc cách mạng vĩ đại làm
thay đổi nhận thức thế giới khẳng định tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội hiện
thực tồn tại hơn bảy thập niên và những triển vọng, phục hồi của phong trào
cộng sản công nhân quốc tế hiện nay.
10


Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười vĩ đại là sự kiện có ý nghĩa lịch
sử trọng đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải

phóng con người. Cuộc cách mạng đó đã khẳng định chân lý về thắng lợi của
cách mạng vô sản, mở đầu cho một thời kỳ lịch sử mới của sự quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, kết quả
lịch sử đó đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của giai cấp vô sản và các dân tộc
bị áp bức vì độc lập, tự do; hình thành, phát triển tư tưởng: Thà huy sinh tất cả,
nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ; không có gì q hơn độc
lập tự do.[6,tr350]
Sự tồn tại, phát triển của Liên Xô và các nước trong hệ thống Xã hội chủ
nghĩa trên thế giới trước đây đã làm xuất hiện và phát triển hàng loại các giá trị
Người. Các nước xã hội chủ nghĩa thế giới là mảnh đất màu mỡ, là những dòng
sữa mát dể thực hiện lý tưởng giải phóng con người, tạo mọi điều kiện để phát
triển tồn diện con người mà Tun ngơn Đảng Cộng sản đã phát thảo. Tuy hiện
nay hệ thống xã hội chủ nghĩa tốt đẹp đó khơng cịn ngun vẹn, nhưng nó đã để
lại những dấu ấn sâu sắc về thành tựu giải phóng con người và thực hiện một
khát vọng cháy bỏng của lồi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người cộng sản
lỗi lạc, một chiến sĩ xuất sắc của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con
người đã viết: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận
Mác-Lênin và làm công tác thực tế dần dần tơi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[5,tr707].
Trải qua nhiều biến động lịch sử, trong hơn hai thập niên qua, phong trào
cộng sản quốc tế từng bước phục hồi cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng
thời ngày càng có thêm những chuyển động tích cực, chứng tỏ sức sống mãnh
liệt của một phong trào hiện thực được định hướng bằng lý tưởng - niềm tin
khoa học và dựa trên một cơ sở giai cấp - xã hội sâu rộng.
Nét mới đáng chú ý trong phong trào cộng sản quốc tế thời gian gần đây là
nỗ lực tìm kiếm cơ chế phối hợp hoạt động chung, tập hợp lực lượng, tăng cường
11



đoàn kết, trao đổi kinh nghiệm, nhằm nâng cao sức mạnh của phong trào. Quan
hệ giữa các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới từng bước được khôi phục
và củng cố. Các mối quan hệ này, về cơ bản, được chỉ đạo theo tinh thần chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong bối cảnh lịch sử mới. Trong đó,
nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và công nhân
hiện nay là độc lập, tự chủ, bình đẳng, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của
nhau, đồn kết hợp tác vì lợi ích chung. Bên cạnh quan hệ song phương, các quan
hệ đa phương cũng được thúc đẩy mạnh. Hàng loạt hội nghị của các Đảng Cộng
sản và công nhân ở từng khu vực, châu lục và giữa các châu lục được tổ chức.
Các cuộc hội thảo, trao đổi lý luận và thực tiễn được nhiều đảng quan tâm.
Hiện nay, phong trào cộng sản quốc tế đã có bước phục hồi nhất định, tuy
phía trước vẫn cịn nhiều khó khăn, thử thách lớn. Mặc dù vậy, với những
chuyển động tích cực như đã nêu trên, hồn tồn có cơ sở để tin rằng phong trào
cộng sản quốc tế sẽ dần lấy lại vị thế của một lực lượng cách mạng thời đại.
Khát vọng hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội nhất định sẽ thôi
thúc giai cấp công nhân và nhân dân lao động hướng theo con đường đi lên
CNXH. Đó vừa là mục tiêu phấn đấu chung của phong trào cộng sản quốc tế,
vừa là xu thế phát triển hợp quy luật lịch sử. Vì thế, Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) Đảng ta xác định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay
của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng
tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân
tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng sẽ có
những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định
sẽ tiến tới CNXH”[4,tr69].
Thứ sáu, sự nghiệp giải phóng con người theo tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen đang chịu sự tác động tổng hợp của thách thức và thời cơ trong thế
giới đương đại hiện nay.
Ngày nay, tư tưởng của Tun ngơn nói chung và lý tưởng giải phóng con
người nói riêng đã tỏ rõ sức sống mãnh liệt trong cuộc sống của nhân loại tiến

12


bộ, nhưng hiện nay đang đứng trước thách thức nghiêm trọng trước những biến
động của lịch sử. Trước hết, là sự thích nghi và tiếp tục phát triển về nhiều mặt
của chủ nghĩa tư bản nên các nhu cầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
đang được giải quyết ở những mức độ nhất định, làm cho con người dễ chịu hơn
với xã hội tư bản. Theo đó, là mơ hình của chủ nghĩa xã hội hiện thực bị sụp đổ
do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề tự do phát triển của cá nhân đã làm
cho khơng ít người hồi nghi khả năng giải phóng con người của chủ nghĩa xã
hội và kẻ bá quyền, nước lớn đã lợi dụng sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội để
áp đặt các giá trị văn hoá, giá trị người của họ. Sau cùng là các nhân tố tạo nên
sức mạnh để giải phóng con người trong thời điểm hiện nay có biểu hiện sa sút
sức chiến đấu như sự phân hố của giai cấp cơng nhân, vai trị lãnh đạo của
Đảng Cộng sản ở các nước khơng nắm chính quyền bị hạ thấp… Đó là những
cản trở chính trong thực hiện khát vọng của nhân loại và dân tộc Việt nam trong
sự nghiệp giải phóng con người.
Trong điều kiện hiện nay, cộng đồng thế giới cũng như từng quốc gia dân
tộc tiếp tục đấu tranh để không ngừng hồn thiện các giá trị của sự nghiệp giải
phóng con người. Nhân loại tiến bộ đã tích luỹ được những kinh nghiệm đầy
máu và nước mắt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Sự phát triển của đời sống vật chất, văn hoá tinh thần; sự tiến
bộ của tri thức khoa học tiên tiến, của công nghệ hiện đại đang thúc đẩy con
người đấu tranh cho độc lập, tự do. Xu thế tồn cầu hố, sự hội nhập khu vực,
quốc tế, dự hợp tác và cạnh tranh sẽ từng bước nuôi dưỡng ý thức độc lập dân
tộc, tính tự giác trong giải phóng giai cấp, giải phóng con người theo mục tiêu
của thời đại: “Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Đó là điều
kiện tiên quyết để mọi người có tự do, có điều kiện để phát triển toàn diện phẩm
chất con người. Đồng thời, mỗi người phải học tập suốt đời trong một xã hội học
tập và không ngừng đấu tranh với bất cứ nhận thức, hành động nào làm tha hoá

con người với tư cách là chủ thể chân chính của lịch sử.
3. Ý nghĩa vận dụng trong cách mạng Việt Nam hiện nay
13


Vận dụng tư tưởng giải phóng triệt để con người trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản về xây dựng mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về tư tưởng giải phóng con người trong Tun
ngơn của Đảng Cộng sản nói riêng và học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học nói
chung, trong suốt q trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như
cơng cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Đảng ta đã luôn coi vấn đề giải phóng
và phát triển con người là yếu tố trung tâm quyết định, là mục đích của sự nghiệp
cách mạng. Ngay trong bản chính cương vắn tắt đầu tiên - năm 1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định mục đích tiến hành cách mạng là để "đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", giải phóng dân tộc, giải phóng những
người cần lao khỏi ách áp bức, bóc lột. Và "đi tới xã hội cộng sản" là điều kiện
thực tế để thực hiện được sự giải phóng ấy. Từ Đại hội VI của Đảng (1986) đã
xác định yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã một lần
nữa khẳng định quan điểm hết sức coi trọng "yếu tố con người", phát huy yếu tố
con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; gắn
phát triển kinh tế với phát triển xã hội, lấy việc chăm lo con người làm mục đích
của chủ nghĩa xã hội, lấy sự tôn trọng con người, quan tâm đến con người là tiêu
chuẩn đạo đức cốt yếu. Đến Đại hội XI, trong Cương lĩnh 2011 tiếp tục khẳng
định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền
và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.”[4,tr76]
Đặc biệt, xuất phát từ nguyên lý căn bản của học thuyết Mác - Lê-nin, trên
cơ sở tổng kết thực tiễn của đất nước và những bài học của các nước xã hội chủ
nghĩa trên thế giới; Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng Cộng sản

Việt Nam đã khái quát đưa ra những đặc trưng cơ bản của mơ hình xã hội mà
chúng ta xây dựng: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một
xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
14


con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng,
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.[4,tr70]
Có thể nhận thấy từ tất cả các tiêu chí của mơ hình xã hội mà chúng ta xây
dựng, con người - tức là toàn thể nhân dân, dân tộc, đều hiện diện như mục đích
chủ yếu, như yêu cầu trung tâm, có ý nghĩa quyết định. Các đặc trưng này đã thể
hiện rõ sự vận dụng nguyên lý về vai trò của con người của Đảng ta một cách
sâu sắc và chặt chẽ, trên tất cả các lĩnh vực.
Một là, trong lĩnh vực chính trị, nhà nước mà chúng ta xây dựng là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước thực sự "của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân". Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 và Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đều khẳng định: "Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Nhân dân được bảo đảm quyền lực
thơng qua các đại biểu của mình lựa chọn, bầu ra là Quốc hội. Nguyên tắc cơ bản
của nhà nước đó là hướng vào phục vụ nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng
chung phổ biến của nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi người dân có thể
tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, tham gia quản lý xã hội. Quản lý nhà
nước thông qua hệ thống pháp luật làm mọi người dân được bình đẳng và cơng
bằng. Cơ sở chính trị của Nhà nước này là chế độ dân chủ nhất nguyên. Đó cũng
là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao và bảo

đảm sự ổn định chính trị, xã hội bền vững. Tính nhất nguyên được thể hiện trước
hết trong việc khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân, mục đích vì nhân dân của
Nhà nước. Đồng thời, tính nhất nguyên của Nhà nước thể hiện và dựa trên sự lãnh
đạo của một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản đại diện cho lợi ích của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc.
Có người cho rằng, chế độ một đảng lãnh đạo là không dân chủ. Toàn bộ
thực tiễn xã hội cận - hiện đại của loài người đã chỉ ra rằng, bản chất của một nền
dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ
15


đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào
những mục đích nào trên thực tế. Mặt khác, tính chất dân chủ của một chế độ là
tổng thành của nhiều tiêu chí có tính lịch sử và tính nhân loại chung, trong đó
quan trọng nhất là sự bảo đảm về quyền và lợi ích cho nhân dân phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể. Không thể coi là chế độ dân chủ khi có nhiều đảng thay nhau
lãnh đạo, nhưng các đảng đó chỉ là đại diện lợi ích của một bộ phận dân cư chứ
khơng phải của tồn xã hội, cũng như các đảng đó trong khi bảo vệ các quyền và
lợi ích của dân tộc mình lại sẵn sàng can thiệp một cách vụ lợi, áp đặt quyền lực,
gây đau khổ cho các dân tộc khác.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là đại diện cho lợi ích khơng chỉ của giai cấp
cơng nhân mà cịn của nhân dân lao động, của tồn dân tộc. Thơng qua các hạt
nhân chính trị ở cơ sở là các tổ chức cơ sở đảng mà Đảng gắn bó hữu cơ với nhân
dân. Các chi bộ, đảng bộ cơ sở có vai trị lãnh đạo, thể hiện sự gương mẫu, cùng
với nhân dân giải quyết những vấn đề được đặt ra hằng ngày, hằng giờ trong sản
xuất, cơng tác và đời sống, qua đó mà tổ chức thực hiện các đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, bám sát nhu cầu, tiếp nhận và phản ánh ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, phát huy vai trị của nhân dân trong cơng tác quản lý
xã hội. Ngược lại, nhân dân thực hiện sự giám sát, phản biện thông qua các tổ
chức cơ sở đảng, qua quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của

Đảng. Mối quan hệ này trở thành một điều kiện quan trọng bảo đảm cho sức
sống, sự năng động, cũng như vai trò của Đảng là người đại diện cho lợi ích, ý chí
của nhân dân. Như vậy, cả về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt cũng như trên thực tế
hoạt động của mình, Đảng cũng chính là một bộ phận hữu cơ của nhân dân, gắn
bó ruột thịt với nhân dân, lấy nhân dân làm nguồn sống, đại diện cho lợi ích tồn
diện của nhân dân. Mục đích tồn bộ hoạt động thực tiễn của đảng khơng là gì
khác ngồi việc giải phóng và sự phát triển của mỗi con người hài hòa trong sự
phát triển chung của cả xã hội.
Hai là, trong lĩnh vực kinh tế: mơ hình xã hội nước ta hướng tới là nền kinh
tế phát triển cao theo thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại. Đây là một trong những yếu tố hàng đầu cho sự phát
triển chung của cả xã hội, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
16


công bằng, văn minh". Thể chế thị trường với nhiều hình thức sở hữu là điều kiện
để giải phóng và phát triển sức sản xuất, khuyến khích mọi cơng dân làm giàu
chính đáng, phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng xã hội phục vụ cho cơng cuộc cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Định hướng xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính ưu việt của chế độ, bảo đảm
tính nguyên tắc của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng do dân, vì
dân, vì mục tiêu tối thượng là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do, toàn
diện của con người. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy mục
tiêu phục vụ con người làm trung tâm, "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội..."[3,tr77].
Trong điều kiện đất nước còn nghèo, cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém,
việc bảo đảm cân đối giữa tăng trưởng mạnh về kinh tế với giải quyết đồng bộ các
vấn đề cơng bằng xã hội, cải thiện nhanh chóng đời sống nhân dân địi hỏi chúng
ta phải có một đường lối phát triển sáng tạo, hợp lý, trên cơ sở những điều kiện,

truyền thống của đất nước, dân tộc và những bài học của quốc tế.
Về tổng thể, định hướng xã hội chủ nghĩa bao hàm ý nghĩa của sự phát triển
bền vững, trong đó sự phát triển kinh tế, một yếu tố được đặt trong tổng thành sự
phát triển, phát huy và bảo tồn cân đối, hài hịa và hợp lý các yếu tố, giá trị xã
hội, văn hóa, môi trường và quan hệ quốc tế. Trong điều kiện hội nhập quốc tế
như ngày nay, với phạm vi toàn cầu các quan hệ, liên kết kinh tế, các vấn đề môi
trường, với sự tác động qua lại mạnh mẽ giữa các quốc gia, khu vực về văn hóa
thì ở một nghĩa nào đó, vấn đề phát triển bền vững cũng đã khơng thể cịn là vấn
đề của từng quốc gia riêng rẽ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia phải bao gồm việc tự giải quyết các vấn đề đặt ra để bảo đảm sự
phát triển hài hịa của đất nước mình, đồng thời phải có trách nhiệm tích cực tham
gia đấu tranh để giải quyết các vấn đề và bảo vệ những giá trị chung của toàn cầu,
toàn nhân loại. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi u cầu chung đó.
Ba là, trong lĩnh vực văn hóa – xã hội, thực hiện đường lối, quan điểm
chung của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần
của xã hội, là một bộ phận hợp thành của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa. Mục
17


tiêu đặt ra là xây dựng và phát triển, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho nền văn hóa ấy, gắn bó hữu cơ chặt chẽ
với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, trở thành động lực phát triển, trở thành
nhân tố bồi dưỡng, giáo dục, hoàn thiện nhân cách, lối sống, năng lực trí tuệ và
bản lĩnh của con người Việt Nam. Đương nhiên, việc phát triển văn hóa cũng
đồng nghĩa với việc bảo đảm cho môi trường tự do, dân chủ trong hoạt động sáng
tạo gắn với trách nhiệm cơng dân, khuyến khích và ni dưỡng nhân tài của đất
nước, động viên, khuyến khích việc tạo dựng nên những giá trị văn hóa mới trong
các lĩnh vực hoạt động sáng tạo. Như vậy, phát triển văn hóa trong mơ hình xã hội
Việt Nam thực chất cũng chính là phát triển các yếu tố của đời sống tinh thần góp
phần phát triển và hồn thiện con người Việt Nam. Xây dựng, phát triển văn hóa,

con người phải: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực
của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Làm cho giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động,
mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển bền
vững”[7,tr15].
Nhìn tổng thể trên phạm vi tồn xã hội, các yếu tố chính trị, kinh tế và văn hóa
hợp thành trụ cột cơ bản của mơ hình xã hội và đều hướng tới giải phóng, phát triển
con người một cách toàn diện. Mục tiêu tối thượng của mơ hình xã hội này là con
người Việt Nam mới, ngày càng có khả năng và điều kiện thực tế để làm chủ xã hội
và làm chủ bản thân mình. Như vậy, nguyên lý về vai trò của con người như là mục
tiêu cao nhất đồng thời là động lực của sự nghiệp giải phóng, sự hài hịa giữa cá
nhân và xã hội như là đặc trưng cao nhất của xã hội mới đang được chúng ta vận
dụng vào việc hình thành và xây dựng mơ hình xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thực chất của nguyên lý đó là giải phóng tiềm năng con
người như là động lực, hướng vào phục vụ con người như là mục tiêu cao nhất của
chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa "con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng,
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển toàn diện".
Ngày nay, nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế thế
giới. Cùng với những cơ hội to lớn, những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển,
chúng ta cũng sẽ đứng trước những khó khăn, thách thức và rủi ro không nhỏ. Sự
18


cạnh tranh gay gắt hơn có thể dẫn tới sự phá sản của một số doanh nghiệp. Văn
hóa, truyền thơng từ khắp thế giới tràn vào sẽ có thể gây ra những xáo trộn trong
quan hệ gia đình, xã hội, tâm lý và nhận thức của người dân, nhất là thế hệ trẻ. Sự
tác động của cơ chế kinh tế thị trường cùng sự phát triển nền sản xuất vật chất sẽ
dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc hơn, gây ra những chia rẽ trong cộng đồng
nhân dân... Điều kiện đó địi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải chủ động tìm ra những
cơ chế, giải pháp nhằm bảo vệ và tiếp tục cải thiện, nâng cao trình độ giải phóng,

phát triển con người của mọi tầng lớp nhân dân lao động. Điều đó có ý nghĩa như
sự biểu hiện bản chất tốt đẹp của chế độ. Hơn nữa, chỉ có như thế, chúng ta mới
có thể tạo ra được nguồn lực quyết định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước - nguồn lực con người. Do đó, phải tiếp tục“kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.”[4,tr76]. Có như vậy mới tối đa
phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…; chúng ta
nhất định thành công trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước
phồn vinh, hạnh phúc.
4. Kết luận và liên hệ trách nhiệm
Như vậy, theo quan điểm C. Mác và Ph. Ăng-ghen luôn xuất phát từ quan
điểm lịch sử, cụ thể để nhìn nhận những vấn đề đặt ra trong Tun ngơn của Đảng
Cộng sản; việc vân dụng những nguyên lý, lý luận bao giờ cũng phải được đặt
trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong lời tựa viết cho bản tiếng
Đức xuất bản năm 1872, C. Mác và Ph. Ăng-ghen viết: "Mặc dầu hoàn cảnh đã
thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể,
những nguyên lý tổng quát trình bày trong "Tun ngơn" này vẫn cịn hồn tồn
đúng... Chính ngay "Tun ngơn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất
cứ lúc nào, việc áp dụng những ngun lý đó cũng phải tùy theo hồn cảnh lịch
sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng
nêu ra ở cuối chương II"[2,tr128]. Trong lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản
19


năm 1888 ở Luân-đôn, Ph.Ăng-ghen đã một lần nữa nhắc lại nguyên văn đoạn
văn trên.
Rõ ràng là trên thế giới đã có rất nhiều sự đổi thay. Chỉ có một điều khơng
thay đổi, đó là sự khát khao cháy bỏng của các giai cấp cần lao và lồi người nói

chung được hồn tồn giải phóng khỏi sự bóc lột, áp bức và bất cơng, dù dưới
bất cứ hình thức và mức độ nào. Tư tưởng cốt lõi của Tuyên ngôn là tư tưởng
giải phóng xã hội, giải phóng con người triệt để. Tư tưởng đó phải đi vào cuộc
sống sinh động trên khắp hành tinh mà thời đại ngày nay cũng chính là thời đại
của Tun ngơn.
Tóm lại, với thái độ khoa học, lịch sử và cụ thể, chúng ta có thể khẳng định
rằng, mặc dù hồn cảnh đã thay đổi, nhưng những tư tưởng cơ bản, trong đó có tư
tưởng về giải phóng triệt để con người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đến
nay vẫn giữ nguyên giá trị. Đó là tư tưởng khoa học, mang tính nhân văn cao cả
và phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên
toàn thế giới. Điều đó, một mặt địi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, hình
thành những giải pháp hợp lý, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước
ta để từng bước thực hiện mục tiêu giải phóng con người tồn diện. Mặt khác, nó
cũng cho phép chúng ta càng vững tin hơn vào những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, vào con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta
đã lựa chọn, vào sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Trên cương vị là một cán bộ đảng viên, một nhà khoa học xã hội và nhân văn
quân sự đang học tập, nghiên cứu các quan điểm lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, bản thân càng thấy rõ vinh dự và trách nhiệm to lớn của mình phải nêu cao
hơn nữa tính tiền phong gương mẫu, khơng ngừng học tập, nghiên cứu và vận dụng
sáng tạo các tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng vào thực tiễn hoạt động xây dựng Đảng trong quân
đội, đơn vị. Hệ thống lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin là
vũ khí lý luận sắc bén mà mỗi cán bộ đảng viên Đảng Cộng sản ngày nay phải biết
nâng cao trình độ lý luận để giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân và sự gương mẫu trong hoạt động thực tiễn để hoàn
20


thành tốt nhiệm vụ được giao, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Kiên quyết

đấu tranh bảo vệ những nguyên lý, nguyên tắc về xây dựng Đảng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, các nghị quyết, quy định, điều lệ của Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị
quyết của Quân ủy Trung ương góp phần trực tiếp thực hiện thắng lợi cuộc đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận đang diễn ra cấp thiết, nóng bỏng hiện nay, mà
bản thân là một chiến sĩ tiên phong trên mặt trận ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb sự thật, Hà Nội. 1995, t4, tr612,
616, 617, 620, 623, 624, 626, 628, 640.
2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb sự thật, Hà Nội. 1995, t18, tr128
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb CTQG, H. 2007, tr77.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG, H. 2011, tr69, 70, 76.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 8, Nxb CTQG, H, 2002, tr707.
6. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H, 2002, tr350.
7. Tài liệu: Đề cương thông báo nhanh kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của ĐCS Việt Nam, Văn phòng Trung ương Đảng, H 2016, tr15.
8. GS.TS Tạ Ngọc Tấn (2/2008): Tư tưởng giải phóng con người trong
Tun ngơn của Đảng Cộng sản, Tạp chí Cộng sản, (số 254).
9. V.I. Lê-nin: Tồn tập, Nxb Tiến bộ Mat-xcơ-va, 1979, t 12, tr 53.
10. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t 26, tr 57.
11. TS Trần Thị Vinh (9/2014): Vài nét về cấu trúc lý luận của mơ hình
“CNXH ở thế kỷ XXI”, Tạp chí Cộng sản, (số 863).
12. Vấn đề Chủ nghĩa xã hội khoa học trong tác phẩm của C.Mác –
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Nxb CTQG, H-2010.

21




×