Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH vài nét về cấu TRÚC LÝ LUẬN mô HÌNH CHỦ NGHĨA xã hội ở THẾ kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.94 KB, 18 trang )

1

Vài nét về cấu trúc lý luận của mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI”
Trong hai thập niên gần đây, các đảng cánh tả ở khu vực Mỹ La-tinh bằng con
đường bầu cử dân chủ đã giành được chính quyền và thực hiện nhiều cải cách tiến
bộ, tích cực hóa đời sống chính trị theo hướng dân chủ, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Vê-nê-xu-ê-la, Bô-li-va, Ê-cu-a-đo, Ni-ca-ra-goa là những quốc gia đã tuyên bố
hướng tới CNXH với mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI”. Trong đó, Vê-nê-xu-ê-la là
quốc gia khởi xướng và nhiệt thành cổ vũ mô hình này.
Mô hình xã hội mới chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ - trước hết cho một chặng phát
triển mới của Mỹ La-tinh và sau đó, ít nhiều có thể xem là một đóng góp cho lý luận
CNXH hiện đại. Nền tảng lý luận của “CNXH ở thế kỷ XXI” - triết lý phát triển riêng
của khu vực Mỹ La-tinh là khá đặc thù, trước hết bởi sự kết hợp và vị thế của các nhân tố
làm nên cơ sở lý luận của mô hình này. Đó là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Bô-li-va
và chủ nghĩa nhân đạo Thiên chúa giáo.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong mô hình "CNXH ở thế kỷ XXI"
Không phải ngay từ đầu của quá trình cải cách, các đảng cánh tả đã đến với chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, CNXH khoa học. Trái lại, đã từng có nhiều ý tưởng được đưa ra trong quá
trình cải cách ở Vê-nê-xu-ê-la. Từ những năm 1990 thế kỷ XX, người dân Vê-nê-xu-ê-la
theo đuổi mục tiêu của cuộc “cách mạng Bô-li-va” là giành chính quyền để tiến tới “xây
dựng nền dân chủ toàn diện”, rồi “xây dựng CNXH kiểu mới”, “xây dựng CNXH Si-môn
Bô-li-va (Simon Bolivar)” và gần đây nhất, năm 2005 là “xây dựng CNXH thế kỷ
XXI”… Khi mới lên cầm quyền, cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H. Cha-vết (H.Chavez)
vẫn tin vào một chủ nghĩa tư bản nhân đạo và đã từng có ý định đưa đất nước mình đi
theo con đường thứ ba của trào lưu dân chủ xã hội quốc tế. Song đã có một bước ngoặt
trong tư tưởng của cố Tổng thống H. Cha-vết. Đó là vào năm 2002, khi ông suýt bị lật đổ
vì một cuộc đảo chính của cánh hữu thân Mỹ. Kể từ đó, ông không còn ảo tưởng về “chủ
nghĩa tư bản xã hội” hay “chủ nghĩa tư bản có bộ mặt người” nữa. Ông nói: “Chính cuộc
đảo chính tháng 4-2002, những cuộc đình công kéo dài do giới chủ doanh nghiệp tổ chức,
những hành động phá hoại ngành dầu khí; những phản ứng và tuyên truyền chống đối đã
đưa tôi tới kết luận rằng con đường duy nhất để thoát khỏi đói nghèo là đi lên CNXH”




2

(1). Năm 2005, sau 06 năm cầm quyền chống lại cuộc tiến công bằng mọi thủ đoạn của
CNĐQ, cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H. Cha-vết đã đi tới kết luận: “Chỉ có CNXH mới
có thể đem lại công bằng xã hội và xóa được nghèo đói”.
Nhận thức của cánh tả Mỹ La-tinh về chủ nghĩa Mác trước tiên là từ “lập trường
phê phán”. Tác giả cuốn “CNXH của thế kỷ XXI” xuất bản ở Vê-nê-xu-ê-la, năm 1996,
Hai-xơ Đi-ơ-trich Xtê-phan - người sau này được coi là nhà tư tưởng và cố vấn chính trị
của cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H. Cha-vết đã phê phán tư tưởng của C. Mác là thiên
về cải tạo xã hội và đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản. Hai-xơ Đi-ơ-trich Xtê-phan
cho rằng, C.Mác chưa đưa ra được mô hình khả thi, bởi đã tuyệt đối hóa vai trò nhà nước
và lý tưởng hóa xã hội xã hội chủ nghĩa. Quan niệm của ông là thay vì chuyên chính vô
sản, xây dựng một nền dân chủ rộng rãi, mọi người dân được tổ chức trong cộng đồng
dân cư đều được tham gia vào cải tạo xã hội như tư tưởng của Si-môn Bô-li-va.
Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Kinh tế, Tổng thống Cộng hòa Ê-cu-a-đo Ra-pha-en Cô-rê-a
(Rafael Correa) cho rằng: “CNXH ở thế kỷ XXI” dựa trên các nguyên tắc chứ không dựa
trên các mô hình. Nó từ bỏ các cách thức xa lạ và giáo điều. Những người ủng hộ và xây
dựng “CNXH ở thế kỷ XXI” cũng tin rằng, ở thời đại ngày nay, không ai có thể khẳng
định rằng, nhà nước hóa tư liệu sản xuất là cách thức tốt nhất để đạt được sự phồn thịnh
cho xã hội. Và đây chính là sự khác biệt căn bản giữa “CNXH thế kỷ XXI” và CNXH
truyền thống. Theo CNXH truyền thống, để xóa bỏ sự bóc lột lao động, cần phải xóa bỏ
sở hữu tư nhân về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Những người xây dựng “CNXH thế kỷ
XXI” không cho rằng cần phải nhà nước hóa hoàn toàn tư liệu sản xuất, tất nhiên là ngoại
trừ những ngành chiến lược, nhưng họ ủng hộ việc dân chủ hóa tất cả các tư liệu sản
xuất, hay nói cách khác là việc phân bổ chúng một cách công bằng.
“CNXH thế kỷ XXI” đưa ra quan niệm mới về phát triển: phát triển có nghĩa là đời
sống xứng đáng cho tất cả và cho mỗi người, là sự mở rộng tự do và cơ hội cho con
người hòa hợp với tự nhiên, là sự giữ gìn muôn đời nền văn hóa nhân loại”. (2).

Mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI” đã kế thừa những gì ở chủ nghĩa Mác? Chưa có những
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này và bản thân lý luận về “CNXH ở thế kỷ XXI” vẫn
đang còn tiếp tục khai thác thêm nhiều tư tưởng ở chủ nghĩa Mác. Song các nhà nghiên


3

cứu khá nhất trí khi cho rằng, “CNXH ở thế kỷ XXI” vận dụng lý luận mác-xít ở các luận
điểm tư tưởng chống chủ nghĩa tư bản, chống đế quốc; chống áp bức về chính trị và bóc
lột về kinh tế của giai cấp tư sản, hướng tới một xã hội công bằng và dần đi tới xóa bỏ
giai cấp… Nguyên tắc sở hữu - lấy công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm cơ sở
kinh tế cho CNXH đã được ghi nhận và thể hiện trên thực tế.
Nhìn chung, sự kế thừa các tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin của mô hình này
chủ yếu là thông qua việc học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa đang trong
thời kỳ cải cách, đổi mới, đặc biệt là về biện pháp. Dường như họ cũng nhận ra rằng, lý
luận chủ nghĩa Mác hiện đại đã chuyển hóa và có bước tiến dài thông qua kinh nghiệm
của đổi mới. Và việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác của mô hình "CNXH ở thế kỷ XXI" có
phần rất quan trọng đi theo hướng này.
Mô hình "CNXH ở thế kỷ XXI" có một điểm khác so với mô hình CNXH ở Đông
Âu và Liên Xô cũ là không có tình trạng sao chép, giáo điều đối với lý luận CNXH giữa
các nước Mỹ La-tinh. Chung nhau quan niệm về mô hình xã hội nhưng mỗi nước lại có
cách xây dựng khác nhau, có lúc lại khá “phóng khoáng”. Sự “phóng khoáng” đó được
thể hiện ở chỗ, có một số nguyên lý cơ bản của CNXH khoa học chưa thấy xuất hiện
trong mô hình. Chính điều này đôi khi cũng làm gợn lên sự lo ngại về tính trung thành
với lý luận của CNXH khoa học. Dù sao đây vẫn là những cuộc cải cách trong khuôn khổ
dân chủ tư sản, chứ chưa phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ thể đầu tiên của mô
hình này là những người theo đường lối dân chủ cánh tả chứ không phải là cộng sản. Sự
tiếp thu chủ nghĩa Mác, dù theo cách của họ, vẫn có thể tạo ra được khuynh hướng tích
cực cho cải cách.



tưởng

S.

Bô-li-va

trong



hình

"CNXH



thế

kỷ

XXI"

Si-môn Bô-li-va (1783 - 1830) là nhà cách mạng nổi tiếng người Vê-nê-xu-ê-la, người
lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ XIX. Ông được mệnh danh
là “Người giải phóng” và được coi như “Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn của Nam Mỹ”. Những
cuộc đấu tranh do ông lãnh đạo đã lật đổ sự thống trị của Tây Ban Nha, giành độc lập cho


4


06 quốc gia ngày nay là: Vê-nê-xu-ê-la, Cô-lôm-bi-a, Pa-na-ma, Ê-cu-a-đo, Pê-ru, và Bôli-vi-a. Tư tưởng Bô-li-va chiếm vị trí quan trọng trong việc phát triển mô hình “CNXH ở
thế kỷ XXI”, thể hiện ở 07 nội dung chính:
Độc lập dân tộc. Đấu tranh để Vê-nê-xu-ê-la thoát khỏi sự đô hộ của các thế lực
bên ngoài, trở thành một dân tộc tự do. Việc tự quyết định vận mệnh của đất nước mình
là một nguyên tắc không thương lượng.
Quyền tự chủ của nhân dân. Nguyên tắc này khẳng định quyền tự do của nhân dân
trước các chế độ độc tài trong nước. Quyền tự chủ của nhân dân là quyền hợp pháp lớn
nhất của các dân tộc.
Công bằng xã hội. S. Bô-li-va cho rằng, nền cộng hòa và tự do không thể tồn tại nếu
không có công bằng xã hội. Nếu tự nhiên làm cho chúng ta khác nhau thì luật pháp có nhiệm
vụ phải điều chỉnh những khác biệt này thông qua giáo dục, phát triển công nghiệp, nghệ
thuật và các dịch vụ, cho phép mọi người được bình đẳng cả về chính trị và xã hội. Theo S.
Bô-li-va, các bất bình đẳng xã hội đe dọa sự tồn vong của nền cộng hòa. Vì vậy, ông tuyên
bố sự bình đẳng phải được đặt lên trên cả lợi ích giai cấp. Chính vì vậy, ông đã soạn thảo và
công bố các bộ luật trao tự do cho nô lệ và công nhận những quyền rất cơ bản của các dân
tộc thổ dân như quyền tự do và quyền có ruộng đất.
Giáo dục toàn dân. Bolivar là người luôn thúc đẩy và bảo vệ quyền được hưởng nền
giáo dục của nhân dân. Ông cho rằng, giáo dục toàn dân là trách nhiệm và nghĩa vụ của
Nhà nước; chính vì thế, ông đã khẳng định: “Nhiệm vụ đầu tiên của chính phủ là đưa
giáo dục đến với nhân dân”. Đối với ông, “một dân tộc dốt nát là công cụ mù quáng hủy
diệt chính họ”.
Chống tham nhũng. Đối với S. Bô-li-va, sự hưng thịnh của một quốc gia phụ thuộc
vào đạo đức của các công dân thông qua hệ thống giáo dục của quốc gia đó. Đạo đức
công dân phải đi cùng các bộ luật nghiêm minh và các tòa án công tâm có khả năng thực
hiện công lý. Nếu không làm được điều đó thì nền cộng hòa sẽ chết.
Chống chủ nghĩa quân phiệt. S. Bô-li-va luôn chống lại sự thoái hóa của quân đội; hay
nói cách khác là ông phản đối việc các sỹ quan quân đội lạm dụng sức mạnh của vũ khí
để mưu cầu lợi ích riêng. Ông luôn chống lại các chế độ độc tài. Đối với ông, một người
lính hạnh phúc là người không đòi hỏi quyền lãnh đạo đất nước. Họ không được tự cho



5

mình là trọng tài hay là người phán quyết luật pháp của Chính phủ; họ phải là những
người bảo vệ tự do. Ông là người đưa ra sáng kiến xây dựng các đơn vị quân - dân sự;
các đơn vị này đã thể hiện tính hiệu quả cao trong cả thời kỳ chiến tranh lẫn hòa bình.
Các đơn vị này phải công nhận quyền hợp pháp của nhân dân thông qua luật pháp và thể
chế Nhà nước.
Liên kết Mỹ La-tinh. Đây là ý tưởng về sự liên kết Mỹ La-tinh và toàn thế giới trong
một chính phủ, được S. Bô-li-va xây dựng từ năm 1826. Hòa bình trên cơ sở một khối
liên kết thống nhất các nước Mỹ La-tinh và ông hy vọng một ngày nào đó, nó sẽ là tấm
gương để: “Thế giới mới sẽ gồm các quốc gia độc lập gắn chặt với nhau bởi luật pháp
chung quy định quan hệ đối ngoại của các nước và tạo cơ hội cho các nước đó, thông qua
một cơ quan lập pháp chung, những phương thức để trường tồn... Mọi rào cản về xuất xứ,
chủng tộc và màu da sẽ biến mất. Trong các thế kỷ tiếp theo, có thể tiến tới một chính
phủ hợp nhất toàn thế giới như một liên bang” (3).
Từ năm 1983, nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của S. Bô-li-va, một tổ chức của
các sỹ quan quân đội Vê-nê-xu-ê-la ra đời lấy tên là “Quân đội Bô-li-va 200” (Ejértio
Bolivar 200) gọi tắt là EB-200. Tổ chức này có sự tham gia của cố Tổng thống H.Cha-vết
và sau này trở thành thủ lĩnh. Lúc đầu, ông xác định hệ tư tưởng này là một cái cây có ba
“rễ”: rễ Bô-li-va với tư tưởng đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Tây Ban Nha
giành độc lập tự do, quyền bình đẳng và thống nhất các quốc gia Mỹ La-tinh trong một
đại liên bang; rễ Xa-mô-ra với tư tưởng bảo vệ chủ quyền dân tộc đoàn kết quân đội với
nhân dân; và rễ Rô-bin-sơn - người chủ trương đấu tranh mang lại hạnh phúc, tự do, bình
đẳng cho mọi người dân” (4). Cố Tổng thống H.Cha-vết khẳng định: “Chúng tôi gọi đây
là cuộc cách mạng Bô-li-va bởi vì mục tiêu mà chúng tôi theo đuổi là tiến hành làm một
cuộc cách mạng, thực hiện một cuộc cải cách chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa… dựa
trên nền tảng tư tưởng S. Bô-li-va” (5)
Ý tưởng xây dựng “một Tổ quốc châu Mỹ vĩ đại”, “một châu Mỹ không biên giới

hiện hữu và mở cửa với thế giới” của Si-môn Bô-li-va được một số nhà lãnh đạo cánh tả
ở khu vực Mỹ La-tinh, nhất là cố Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H.Cha-vết quan tâm và tiếp
nối để tạo nên “sự cân bằng theo quy luật của vũ trụ” trước các cường quốc.


6

Chủ nghĩa nhân đạo Thiên chúa giáo trong mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI”
Trong lý luận về CNXH thế kỷ XXI, Tổng thống Vê-nê-xu-ê-la H.Cha-vết đã kế thừa
các tư tưởng công bằng, bình đẳng, bác ái, vị tha của đạo Thiên chúa, đặc biệt những tư
tưởng về giải phóng tầng lớp dân nghèo. Ngoài ra, ông còn tham khảo thêm trong Kinh
thánh và các trước tác nguyên bản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khi giải thích nội
hàm khái niệm “CNXH ở thế kỷ XXI”. Tại cuộc gặp gỡ các giáo chủ thiên chúa giáo tại
thủ đô Ca-ra-cát (tháng 01-2007) cố Tổng thống H.Cha-vết nói “Tôi khuyên các vị giám
mục hãy đọc C. Mác, đọc V.I.Lê-nin và tìm lại trong Kinh thánh để thấy rằng, CNXH đã
có trong các tác phẩm đó rồi”. Theo cố Tổng thống H.Cha-vết, Chúa Giê-su là “người
theo CNXH vĩ đại nhất trong lịch sử”. Vì vậy, ông khuyến khích nhân dân Vê-nê-xu-ê-la
chủ động quan tâm đến người khác một cách tự do, tự nguyện, xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Cố Tổng thống H.Cha-vết cũng không ngần ngại lấy các tác phẩm của chúa Giê-su
và Kinh Phúc âm làm ví dụ, nhấn mạnh việc xây dựng thiên đường ở dưới trần gian.
Ngày 08-01-2007, tại lễ ra mắt nội các mới của Vê-nê-xu-ê-la, khi giải thích tư tưởng của
đạo Cơ đốc, cố Tổng thống H.Cha-vết đã nói rằng: về tài sản công cộng thì tư tưởng Cơ
đốc giáo có sự tương đồng với tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hơn bất kỳ học thuyết xã
hội chủ nghĩa nào khác. Chúa Giê-su là người theo CNXH đích thực, người chống
CNĐQ. Trong kế hoạch của Chính phủ Vê-nê-xu-ê-la nhằm cải thiện chất lượng cuộc
sống cho nhân dân có “Kế hoạch Cơ đốc” với mục tiêu cụ thể xóa bỏ tình trạng nghèo
đói trước năm 2011.
Dưới góc độ tập hợp quần chúng, các tư tưởng nhân đạo, bác ái của Thiên chúa
giáo là một góc độ tiếp cận thuận lợi vì Mỹ La-tinh là khu vực có tới 85% số dân theo
đạo Cơ đốc. Vì thế, việc quan tâm tới người nghèo cũng mang sắc thái kế thừa tinh thần

của “Thần học giải phóng” và là điểm dễ tương dung giữa nguyện vọng của quần chúng
và mục tiêu của cải cách.
Nhìn chung, điểm qua cấu trúc lý luận của mô hình “CNXH ở thế kỷ XXI” chúng
ta nhận thấy tính chất tích hợp của nó là khá rõ nét. Có thể xem “mảnh đất hiện thực” Mỹ


7

La-tinh như là “cái sàng” để lựa chọn các nhân tố hợp lý của các lý thuyết về giải phóng
và phát triển. Thực tiễn và lý luận xây dựng CNXH đều chấp nhận việc vận dụng sáng
tạo lý luận mác-xít.
“CNXH ở thế kỷ XXI” do cố Tổng thống H.Cha-vết khởi xướng thực hiện ở Vê-nêxu-ê-la và sau đó là nhiều nước khác noi theo, tuy đang ở giai đoạn hoàn chỉnh về cơ sở
lý luận, nhưng một số đặc trưng của mô hình này và hiện thực của nó đã thể hiện khá rõ
nhiều tính chất xã hội chủ nghĩa. Không ai có thể phủ nhận rằng, xu thế này đang mở ra
một triển vọng mới cho cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, công bằng và CNXH trong
thời đại ngày nay. Việc lựa chọn mô hình "CNXH ở thế kỷ XXI" của các đảng cánh tả và
sự hình thành những liên minh khu vực cũng là phản ứng tự nhiên của các nước đang
phát triển trước một toàn cầu hóa hiện còn mang đậm tính chất tư bản chủ nghĩa.
Những gì mà Vê-nê-xu-ê-la và các nước Mỹ La-tinh đang làm, đã thể hiện sức sống
mới của phong trào cánh tả ở khu vực và sự bất diệt của mô hình CNXH - một mô hình
xã hội tươi đẹp mà nhân loại đang hướng tới. Có thể mô hình ấy chưa hoàn toàn tiếp hợp
với những nguyên lý của CNXH khoa học, song những nỗ lực tìm tòi là đáng trân trọng.
Điều đáng quý là, thông qua hiện thực ở khu vực Mỹ La-tinh, chúng ta lại thấy sự phát
triển mạnh mẽ của xu thế xã hội chủ nghĩa ở Tây bán cầu.
“CNXH ở thế kỷ XXI” và những thành tựu chính trị, xã hội bước đầu đã khẳng
định, việc phát huy dân chủ là một trong những động lực quan trọng của cải cách, ngay
cả khi nó còn bị giới hạn khuôn khổ dân chủ tư sản. Dân chủ hóa đời sống kinh tế, xã hội
đã trở thành những chương trình lớn. Sau khi nắm được quyền điều hành đất nước, các
chính phủ cánh tả ở khu vực Mỹ La-tinh đều xúc tiến các chương trình cải cách chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội sâu rộng với quyết tâm từng bước xóa bỏ tàn dư của chủ nghĩa

thực dân, đế quốc, khắc phục những hậu quả của quá trình thực hiện mô hình chủ nghĩa
tự do mới, đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển lành mạnh. Khát vọng dân chủ và dân
sinh của người dân Mỹ La-tinh là tình huống chính trị - xã hội, theo đó, lực lượng chính
trị nào nắm bắt và có khả năng giải quyết được những nhu cầu trên thì sẽ được dân chúng
ủng hộ và trở thành lực lượng trung tâm, nắm vai trò lãnh đạo đất nước.


8

Hiện tượng nhiều nước Mỹ La-tinh cùng xây dựng xã hội theo mô hình “CNXH ở
thế kỷ XXI” có sức động viên, cổ vũ rất lớn với quá trình xây dựng CNXH hiện thực trên
toàn thế giới. Sự phát triển của phong trào cánh tả Mỹ La-tinh không chỉ có ý nghĩa to
lớn và tích cực đối với phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, với khu vực Mỹ La-tinh
mà còn có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam./.
-------------------Phong trào cộng sản quốc tế trong giai đoạn hiện nay
Trải qua nhiều biến động lịch sử, trong gần hai thập niên qua, phong trào cộng
sản quốc tế từng bước phục hồi cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời ngày
càng có thêm những chuyển động tích cực, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của một
phong trào hiện thực được định hướng bằng lý tưởng - niềm tin khoa học và dựa
trên một cơ sở giai cấp - xã hội sâu rộng.
Sự khai phá con đường lên CNXH của các Đảng Cộng sản cầm quyền
Trong những năm qua, công cuộc cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của
các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) như Trung Quốc, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng. Do đó, vai trò và ảnh hưởng của CNXH (CNXH) trên thế giới cũng được
củng cố nhất định. Các nước XHCN do nâng cao được vị thế quốc tế nên ngày càng trở
thành những chủ thể quan trọng của quan hệ quốc tế hiện đại, chủ động đổi mới chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập với khu
vực và thế giới.
Đánh giá tình hình kinh tế của 5 nước XHCN, Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng:

tỷ trọng GDP của các nước này từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay đã tăng hơn 2
lần, từ mức 1,7% lên 4,1% và có chiều hướng tiếp tục tăng lên.
Mặt khác, các Đảng Cộng sản cầm quyền đã chủ động tổng kết rút ra những bài học
kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong xây dựng CNXH ở Liên Xô, Đông Âu
và những kinh nghiệm của chính bản thân mình; tích cực nghiên cứu, tìm tòi về lý luận,
thực tiễn mô hình xây dựng CNXH phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước và những
biến đổi của thế giới đương đại. Điều này được thể hiện nổi bật nhất trong việc sử dụng


9

kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Trung Quốc xác định mô hình kinh tế thị trường
XHCN; Việt Nam - nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Lào - nền sản xuất hàng
hóa đi lên CNXH. Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên từ năm 2002 cũng bắt đầu cải
cách theo hướng kinh tế thị trường, lựa chọn bước đột phá vào lĩnh vực giá, tiền và phân
phối. Năm 2003, nước này thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2003 2008), chủ trương khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ bao cấp, sửa đổi luật đầu tư để thu
hút vốn nước ngoài, phát triển một số khu công nghiệp và đặc khu kinh tế...
Nhiều Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mô hình
phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc và Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản
Nhật Bản thông qua tại Đại hội XXIII (năm 2004) khẳng định: Quá trình tìm tòi tiến lên
CNXH thông qua kinh tế thị trường của Việt Nam và Trung Quốc đang trở thành một
hướng đi quan trọng của thế giới trong thế kỷ XXI; tiến lên CNXH thông qua kinh tế thị
trường là hướng đi có tính quy luật của CNXH. Hội thảo quốc tế "Triển vọng của
CNXH" của 39 Đảng Cộng sản và công nhân được tổ chức tại Pra-ha (Cộng hòa Séc)
năm 2005 cũng đánh giá cao sự phát triển nền kinh tế thị trường dưới CNXH và việc gắn
những ưu việt của chính quyền nhân dân với những thành tựu mới nhất của khoa học - kỹ
thuật, với sự tham gia tích cực vào thị trường quốc tế của Trung Quốc và Việt Nam, coi
đây là sự bổ sung lý luận độc đáo về CNXH.
Những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước XHCN là một thực tế sinh động

minh chứng cho sức sống và khả năng tự đổi mới để đi lên của CNXH. Các Đảng Cộng
sản và công nhân quốc tế coi đây là nguồn cổ vũ lớn lao, giúp họ củng cố niềm tin vào lý
tưởng XHCN. Sự tìm tòi, khai phá con đường đi lên CNXH của các Đảng Cộng sản cầm
quyền đã có đóng góp quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong việc phát triển CNXH,
chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi thúc
đẩy quá trình phục hồi của phong trào cộng sản quốc tế, góp phần thiết thực vào việc tìm
kiếm những phương thức hoạt động hiệu quả của phong trào trong giai đoạn hiện nay.
Sự củng cố vị thế của các Đảng Cộng sản ở các khu vực trên thế giới


10

Tại khu vực Liên Xô (cũ) và Đông Âu, vốn là nơi phong trào chịu tổn thất nặng nề
nhất sau sự biến chính trị cuối thập niên 80 - đầu 90 của thế kỷ XX, các Đảng Cộng sản
và công nhân đã nhanh chóng hồi phục, đổi mới hoạt động, củng cố cơ sở xã hội, lấy lại
uy tín trong xã hội. Tại các cuộc bầu cử quốc hội và hội đồng địa phương, nhiều đảng
giành thắng lợi lớn, trở thành lực lượng đối lập mạnh như Đảng Cộng sản Liên bang Nga,
Đảng Cộng sản Séc và Mô-ra-va, một số đảng ở vùng Trung Á, thậm chí có đảng liên
tiếp giành được quyền đứng ra thành lập chính phủ như Đảng Cộng sản Môn-đô-va sau
thắng lợi tại các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống gần đây.
Cũng cần thấy rằng, bên cạnh những bước củng cố và phát triển nhất định, các Đảng
Cộng sản và công nhân ở khu vực Liên Xô (cũ) và Đông Âu vẫn còn đứng trước không ít
khó khăn, hạn chế. Đường lối, cương lĩnh của nhiều đảng đổi mới còn chậm, chưa
chuyển kịp so với yêu cầu của thời kỳ mới. Cơ sở xã hội của một số đảng bị thu hẹp
mạnh. Tổ chức cơ sở đảng chỉ có ở địa bàn cư trú, trong khi tại các khu vực sản xuất lại
chưa được thành lập. Vấn đề đoàn kết, hợp tác, phối hợp hoạt động giữa các đảng còn
nhiều bất cập, thậm chí tình trạng bất đồng, tranh giành ảnh hưởng đã làm giảm sức
mạnh chung của các lực lượng cộng sản và cánh tả.
Tại khu vực các nước tư bản phát triển, những năm gần đây, các Đảng Cộng sản
và công nhân càng có những dấu hiệu phục hồi rõ nét. Trong hoàn cảnh còn nhiều khó

khăn nội bộ, lại thường xuyên bị các thế lực thù địch công kích gay gắt, nhưng nhiều
đảng như Đảng Cộng sản Hy Lạp, Đảng Cộng sản Tây Ban Nha, Đảng Cộng sản Bồ Đào
Nha, Đảng Cộng sản Tái lập I-ta-li-a, Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp, Đảng
Cộng sản Nhật Bản... vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin, điều chỉnh chiến lược, sách
lược đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, bảo vệ lợi ích của các tầng lớp lao động. Trong
hoạt động của các đảng này, về đối nội, điều chỉnh quan trọng nhất là chống chính sách
kinh tế - xã hội theo chủ nghĩa tự do mới, chống đại tư bản độc quyền, vạch trần các thủ
đoạn bóc lột tinh vi của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại và toàn cầu hóa. Nhằm tập hợp lực lượng xã hội rộng rãi, các Đảng Cộng
sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển chú trọng mục tiêu đấu tranh vì dân sinh,
dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội. Nhờ vậy, ảnh hưởng và uy tín của nhiều đảng mấy


11

năm gần đây có xu hướng được củng cố, nâng cao. Về lĩnh vực đối ngoại, hiện nay tuyệt
đại đa số các đảng Đảng Cộng sản và công nhân ở đây đều nhấn mạnh ưu tiên cho cuộc
đấu tranh chống cường quyền đế quốc trong quan hệ quốc tế; phản đối nền ngoại giao
"dân chủ, nhân quyền" mà Mỹ và phương Tây sử dụng nhằm áp đặt và can thiệp vào
công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền.
Các Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước tư bản phát triển bày tỏ quan điểm khá
rõ ràng đối với quá trình toàn cầu hóa và những tác động của nó. Điều này được thể hiện
trong các cương lĩnh, tuyên bố chính trị, chương trình hành động cũng như văn kiện đại
hội gần đây của nhiều đảng. Thừa nhận toàn cầu hóa là xu thế khách quan, song về cơ
bản, các đảng như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Đức, Đảng Cộng sản Anh, Đảng
Cộng sản Hy Lạp, Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp... đều vạch rõ tính chất tư
bản chủ nghĩa, tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa đối với người lao động, đặc
biệt ở các nước nghèo, chậm phát triển. Do đó, các đảng này đều xác định phải tích cực
tham gia đấu tranh chống mặt tiêu cực của toàn cầu hóa.
Tại khu vực các nước đang phát triển Á, Phi và Mỹ La-tinh, phong trào cộng

sản tuy chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng của CNXH, song tuyệt đại đa số
các Đảng Cộng sản vẫn kiên cường đứng trụ, cố gắng tìm kiếm hình thức hoạt động thích
hợp. Một số đảng hoạt động tích cực, có cơ sở xã hội và ảnh hưởng khá mạnh trong xã
hội như các Đảng Cộng sản Ấn Độ, Đảng Cộng sản mác-xít lê-nin-nít Thống nhất Nêpan, Đảng Cộng sản Xi-ry, Đảng Cộng sản I-xra-en, Đảng Cộng sản Nam Phi, Đảng
Cộng sản En Xan-va-đo, Đảng Cộng sản Guy-a-na, Đảng Cộng sản Bô-li-vi-a, Đảng
Cộng sản U-ru-goay... Trong đó, đáng chú ý là thắng lợi trong bầu cử của Đảng Nhân
dân Cách mạng Mông Cổ, Đảng Lao động Bra-xin, đưa hai đảng này lên vị trí nắm
quyền từ nhiều năm nay.
Tăng cường phối hợp hành động, tập hợp lực lượng
Nét mới đáng chú ý trong phong trào cộng sản quốc tế thời gian gần đây là nỗ lực
tìm kiếm cơ chế phối hợp hoạt động chung, tập hợp lực lượng, tăng cường đoàn kết, trao
đổi kinh nghiệm, nhằm nâng cao sức mạnh của phong trào. Quan hệ giữa các Đảng Cộng
sản và công nhân trên thế giới từng bước được khôi phục và củng cố. Các mối quan hệ


12

này, về cơ bản, được chỉ đạo theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
trong bối cảnh lịch sử mới. Trong đó, nguyên tắc quan trọng nhất trong quan hệ giữa các
Đảng Cộng sản và công nhân hiện nay là độc lập, tự chủ, bình đẳng, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, đoàn kết hợp tác vì lợi ích chung. Quan hệ giữa các Đảng
Cộng sản và công nhân hiện nay chủ yếu là quan hệ song phương. Từ chỗ trao đổi thông
tin, tài liệu, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, gần đây giữa các đảng đã có những trao đổi về
mặt lý luận. Nhiều đảng đã hình thành cơ chế trao đổi lý luận thường kỳ như giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam với Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Cu Ba, Đảng Nhân
dân cách mạng Lào; giữa các Đảng Cộng sản trong EU, SNG và ở khu vực Ban-căng...
Đảng Cộng sản Nhật Bản cũng đã thiết lập được cơ chế hợp tác, trao đổi lý luận với
Đảng Cộng sản Trung Quốc và một loạt Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước châu
Âu.
Bên cạnh quan hệ song phương, các quan hệ đa phương cũng được thúc đẩy mạnh.

Hàng loạt hội nghị của các Đảng Cộng sản và công nhân ở từng khu vực, châu lục và
giữa các châu lục được tổ chức. Các cuộc hội thảo, trao đổi lý luận và thực tiễn được
nhiều đảng quan tâm.
Ở khu vực châu Âu, các Đảng Cộng sản và công nhân ở Tây Bắc Âu, Ban-căng,
Đông Âu liên tiếp tổ chức các cuộc gặp gỡ, bày tỏ quan điểm về nhiều vấn đề quan trọng
của khu vực và thế giới. Đáng chú ý nhất là "Cuộc gặp quốc tế các Đảng Cộng sản và
công nhân quốc tế" do Đảng Cộng sản Hy Lạp đăng cai tổ chức hằng năm tại Thủ đô Aten từ năm 1998 đến nay. Gặp mặt quốc tế A-ten đã thu hút ngày càng đông đảo đại biểu
các Đảng Cộng sản và công nhân từ khắp mọi khu vực, châu lục của thế giới.
Nhận rõ tính đa dạng trong lập trường, quan điểm và điều kiện hoạt động khác nhau
giữa các Đảng Cộng sản và công nhân, diễn đàn A-ten luôn tìm kiếm và thể hiện tính
sáng tạo, linh hoạt đối với việc xử lý những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ giữa các
Đảng Cộng sản và công nhân nhằm thúc đẩy tình đoàn kết, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
đảng tham gia diễn đàn. Nét mới đáng chú ý của Diễn đàn A-ten là không theo một
khuôn mẫu cứng nhắc, sự tham dự của các đảng là hoàn toàn tự nguyện. Hình thức hoạt
động trong các kỳ gặp mặt ngày càng trở lên đa dạng, gồm: hội nghị, hội thảo, gặp gỡ


13

theo khu vực và song phương, mít tinh, diễu hành biểu dương lực lượng... Nội dung hoạt
động cũng ngày càng được mở rộng, bám sát yêu cầu đang đặt ra đối với phong trào cộng
sản quốc tế và thực tiễn vận động của thế giới đương đại. Những vấn đề chính được tập
trung thảo luận, trao đổi cũng rất phong phú như: giá trị khoa học và thực tiễn của học
thuyết Mác - Lê-nin trong giai đoạn hiện nay; nguyên nhân sụp đổ chế độ XHCN ở Liên
Xô, Đông Âu và tác động của sự biến này; chiến lược, sách lược xây dựng liên minh của
giai cấp công nhân; toàn cầu hóa, khu vực hóa và tác động của các xu thế này đối với các
lực lượng cộng sản, công nhân thế giới; về phương án thay thế đối với hình thái toàn cầu
hóa tư bản chủ nghĩa; về những sự kiện quốc tế lớn, về hoạt động khủng bố và cuộc chiến
chống khủng bố v.v... Hình thức và nội dung hoạt động của các cuộc gặp A-ten không
chỉ cho thấy tính phù hợp của phương thức tập hợp lực lượng mới giữa các Đảng Cộng

sản và công nhân, mà còn chứng tỏ các đảng này mặc dù đứng trước vô vàn khó khăn,
thử thách lớn nhưng vẫn tỉnh táo, nhạy cảm về chính trị, quan tâm và nắm bắt trúng nhiều
vấn đề bức xúc đang phải đối mặt.
Có thể nói, gặp mặt A-ten đã trở thành một hình thức hoạt động quốc tế rất sáng tạo
của các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng cánh tả tiến bộ trên thế giới gần một
thập kỷ qua.
Tại khu vực Mỹ La-tinh, các Đảng Cộng sản và công nhân và cánh tả từ đầu thập
niên 90 đến nay đã có sáng kiến định kỳ hằng năm tổ chức gặp gỡ trong khuôn khổ Diễn
đàn Sao Pao-lô (Bra-xin) nhằm đánh giá sự vận động, phát triển của phong trào cộng sản,
cánh tả quốc tế nói chung và ở khu vực nói riêng, từ đó tìm kiếm các biện pháp phối hợp
hành động chung. Diễn đàn Sao Pao-lô sau 15 năm hoạt động và 13 kỳ hội nghị (với sự
tham gia của hơn 140 Đảng Cộng sản và công nhân và cánh tả từ 46 nước Mỹ La-tinh,
Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Đại Dương) đã góp phần năng động hóa hoạt
động của cánh tả Mỹ La-tinh, thúc đẩy trào lưu cánh tả tại đây lên bước phát triển mới.
Tuy ở mức độ còn chưa đồng đều ở từng nước, nhưng các Đảng Cộng sản và công nhân
Mỹ La-tinh đã thể hiện ngày càng rõ nét vai trò hạt nhân trong phong trào đấu tranh của
quần chúng lao động, bước đầu tập hợp được những lực lượng tiến bộ, chứng minh cho
sự bắt đầu hồi phục và có bước phát triển mới của phong trào cộng sản và cánh tả ở đây.


14

Chỉ trong thời gian ngắn, tại Mỹ La-tinh đã có 9 chính phủ cánh tả tiến bộ cầm quyền
(Vê-nê-xu-ê-la, Chi-lê, Bra-xin, ác-hen-ti-na, Pa-na-ma, U-ru-goay, Bô-li-vi-a, Ni-ca-ragoa, Ê-cu-a-đo), chiếm gần 1/3 số nước trên lục địa châu Mỹ. Sự kiện này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng cánh tả và cách mạng tiến bộ
trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh phong trào cộng sản quốc tế tuy đã từng bước hồi
phục nhưng chưa thực sự vượt ra khỏi cuộc khủng hoảng sâu sắc từ cuối thập niên 80 của
thế kỷ XX.
Tính linh hoạt và cơ chế mở trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của Diễn đàn tạo điều
kiện cho các chính đảng, phong trào và lực lượng chính trị theo nhiều khuynh hướng đa

dạng: từ các đảng cộng sản cầm quyền hoặc chưa cầm quyền, các đảng dân chủ - xã hội
đến các tổ chức, phong trào dân tộc cấp tiến đều có cơ hội tham gia, bày tỏ quan điểm,
chính kiến một cách dân chủ trước những chủ đề được lựa chọn trong mỗi kỳ hội nghị.
Đây là một nét mới trong cơ chế phối hợp hoạt động và tập hợp lực lượng của các Đảng
Cộng sản và công nhân và cánh tả, phù hợp với sự thay đổi tương quan lực lượng ở khu
vực và trên thế giới từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX trở lại đây. Do đó, tham gia Diễn đàn
lúc cao nhất như Hội nghị lần thứ XI (Goa-tê-ma-la-2002) có tới 142 Đảng Cộng sản và
công nhân và cánh tả từ 46 nước Mỹ La-tinh, Bắc Mỹ, châu Âu, châu Á, châu Phi, châu
Đại Dương. Sự ra đời và hoạt động của Diễn đàn này đưa Mỹ La-tinh thực sự trở thành
một điểm sáng hội tụ những nỗ lực trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc và
lựa chọn con đường phát triển, chống nghèo đói bất công, chống áp đặt nô dịch và cường
quyền đế quốc. Diễn đàn là một biểu tượng sinh động về tình đoàn kết, sự sẻ chia mối
quan tâm giữa các lực lượng cộng sản, cánh tả trước những vấn đề bức xúc đang đặt ra
đối với phong trào cộng sản, cánh tả trong giai đoạn hiện nay.
Diễn đàn Sao Pao-lô qua các kỳ hội nghị đã quan tâm đến hàng loạt vấn đề của đời
sống chính trị, kinh tế - xã hội Mỹ La-tinh và thế giới, song vấn đề nổi bật nhất và xuyên
suốt hoạt động của Diễn đàn là sự phê phán gay gắt đối với việc áp đặt mô hình chủ
nghĩa tự do mới, chỉ rõ tính không tương thích và những hậu quả nặng nề của nó đối với
các nước trong khu vực, đồng thời nỗ lực tìm giải pháp thay thế. Trên cơ sở phân tích
thực tế tình hình khu vực Mỹ La-tinh, trong những hội nghị gần đây, từ quan điểm lý


15

luận đến việc xác định phương hướng hoạt động và tìm tòi mô hình phát triển cho các
nước khu vực, Diễn đàn ngày càng tiến gần đến lập trường có tính chất XHCN. Điều
này được thể hiện nổi bật khi Diễn đàn khẳng định: giải pháp thay thế chủ nghĩa tự do
mới phải gắn với thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từng bước quá độ
lên CNXH. Diễn đàn từng xác định 10 phương hướng hoạt động của cánh tả khu vực là:
bảo vệ cuộc sống con người; thực hiện tự do, công bằng trong bầu cử; nhà nước thực sự

chăm lo đời sống cho quần chúng nhân dân lao động; bảo vệ sự phát triển của toàn hành
tinh; bình đẳng giới; có chương trình phát triển cho các cộng đồng cư dân bản địa (đặc
biệt là người da đỏ); có kế hoạch phát triển cân đối kinh tế - xã hội của mỗi nước; thực
hiện khu vực hóa và toàn cầu hóa; bảo vệ quyền lợi của các nhóm dân di cư, bảo vệ môi
trường. Những phương hướng này rõ ràng chứa đựng những quan điểm phát triển con
người phù hợp với mục tiêu của CNXH.
Tóm lại, sau một thời gian khủng hoảng, thoái trào sâu sắc, hiện nay phong trào
cộng sản quốc tế đã có bước phục hồi nhất định, tuy phía trước vẫn còn nhiều khó khăn,
thử thách lớn. Mặc dù vậy, với những chuyển động tích cực như đã nêu trên, hoàn toàn
có cơ sở để tin rằng phong trào cộng sản quốc tế sẽ dần lấy lại vị thế của một lực lượng
cách mạng thời đại. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội nhất
định sẽ thôi thúc giai cấp công nhân và nhân dân lao động hướng theo con đường đi lên
CNXH. Đó vừa là mục tiêu phấn đấu chung của phong trào cộng sản quốc tế, vừa là xu
thế phát triển hợp quy luật lịch sử.
Những nội dung cơ bản và mới trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển) về nhận
định bối cảnh quốc tế
Bối cảnh quốc tế là điểm bổ sung, phát triển nhiều nhất so với Cương lĩnh năm
1991, bởi bối cảnh hiện nay và dự báo trong vài thập kỷ tới khác rất nhiều so với thời
điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Các đại hội Đảng gần đây, nhất là Đại hội
X đã dự báo sâu sắc về bối cảnh thế giới và thực tế đã khẳng định tính đúng đắn các dự
báo đó. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết gọn hơn theo hướng không đi sâu
vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta hiện nay, nhất là những


16

vấn đề còn có ý khác nhau, như về nguyên nhân sự sụp đổ của chế độ xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu. Với tinh thần đó, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa ra
những nhận định trên 6 vấn đề sau:
Một là, về đặc điểm, xu thế chung.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nhận định:
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá
diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
- Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ
khác nhau vẫn tồn tại và phát triển.
- Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc,
tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ
biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động, nhưng
cũng tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định.
Từ đó, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nhận định: Tình hình đó tạo thời
cơ phát triển, đồng thời đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang
và kém phát triển.
Hai là, nhận định, đánh giá về CNXH.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đưa ra ba nhận định rất cơ bản:
(1) Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và
cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
(2) Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối
với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
trong đó có Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới,
giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế có những bước hồi phục.
Ở đây có một vấn đề cần khẳng định: Sự sụp đổ của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu thực sự là một tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới,
vì thực tế Liên Xô đã từng là chỗ dựa quan trọng cho phong trào cách mạng thế giới,



17

trong đó có nước ta; khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chỗ dựa
đó không còn.
(3) Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn
gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ CNXH.
Ba là, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa tư bản.
Cương lĩnh năm 1991 nhận định “Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát
triển kinh tế”. Thực tế 2 thập kỷ qua và dự báo tới đây chủ nghĩa tư bản không chỉ còn
tiềm năng phát triển kinh tế, mà thực tế chủ nghĩa tư bản đang phát triển và phát triển
không chỉ về kinh tế, mà còn phát triển các lĩnh vực khác, như giáo dục đào tạo, khoa
học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và có những điều chỉnh cả về xã hội, nhưng bản
chất chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Do đó Cương lĩnh đã nhận định, đánh giá đúng
mức hơn về chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) bổ sung nhận định “khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra”.
Bốn là, nhận định về các nước đang phát triển, kém phát triển.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết theo hướng chặt chẽ hơn, chính xác
hơn với tình hình thực tế: “Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc
đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp
đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc”.
Năm là, nhận định về những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài
người.
Cương lĩnh năm 1991 nêu những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh
loài người. Đó là gìn giữ hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống,
hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo. Kế
thừa những nhận định của các đại hội gần đây và thực tiễn đang và sẽ diễn ra, Cương lĩnh
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung hai vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến
vận mệnh loài người:

- Chống khủng bố;
- Ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Sáu là, nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại.


18

Vào thời điểm ban hành Cương lĩnh năm 1991, đặc điểm nổi bật là cuộc đấu tranh
giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập, dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Thực tế hai thập kỷ qua cho thấy các nước đều tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá, cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt với
nhau vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác
định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã
hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách,
nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới CNXH”./.



×