Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sang kien kinh nghiem day học tich cuc thuc hanh cong nghe THCS 2016 2107

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.7 KB, 20 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SÁNG KIẾN:
"PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG BÀI
THỰC HÀNH CÔNG NGHỆ THCS"


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghị quyết TW2 khoá VIII nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào trong quá trình dạy học bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh ….”
Chiến lược phát triển giáo dục đã nêu: “Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp giáo
dục, chuyển từ việc truyền thụ kiến thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng
dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống và có tư duy phân
tích tổng hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân tăng cường tính chủ động, tính
tự chủ của học sinh ….”
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp giảng dạy đã diễn ra một
cách thường xuyên và có hiệu quả nhằm đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của giáo
dục đó là học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, đưa lý luận vào thực
tiễn lao động, nâng cao khả năng thực hành cho học sinh để học sinh hình thành
được kĩ năng cơ bản ban đầu. Sách giáo khoa môn Công nghệ mới đã viết theo
hướng mở nhằm mục đích để giáo viên chủ động phân chia thời gian, phương pháp
giảng dạy giúp cho học sinh tiếp cận kiến thức tốt hơn. Sách giáo khoa môn Công
nghệ mới cũng đưa ra rất nhiều tiết thực hành, chiếm tới 2/3 tổng số tiết, nhằm
mục đích nâng cao kĩ năng thực hành cho học sinh. Là một giáo viên trực tiếp
giảng dạy môn Công nghệ, tôi đã không ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp
nhằm đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và mục tiêu giáo dục. Qua đó đòi hỏi giáo




viên dạy bộ môn Công nghệ phải biết lựa chọn từng nội dung, phương pháp giảng
dạy nhằm mục tiêu của giáo dục.
Qua nhiều năm giảng dạy môn Công nghệ ở trường THCS đặc biệt là từ khi thực
hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là một
vấn đề bổ ích về lí luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng
cao chất lượng bộ môn bởi vì đối tượng là học sinh THCS thì về mặt thể chất cũng
như tinh thần, sự nhận thức, năng lực tư duy …của các em đã phát triển ở mức độ
cao hơn các em ở bậc tiểu học và các em ở lớp trên thì cao hơn các em ở lớp dưới.
Nếu được khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như
các hoạt động khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức
tốt nhất cho bản thân mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc THPT –
nơi mà các em sẽ phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
Từ trước tới nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tích tính cực của
học sinh trong học tập Công nghệ bậc THCS. Tuy nhiên những vấn đề mà các nhà
nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối
lớp cụ thể vi vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh
gắn liền với việc giảng dạy nhiều năm môn Công nghệ, đó là một số biện pháp sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Công nghệ với mục đích là góp một phần
nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Công nghệ ở trường THCS
nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là để trao đổi ,học tập kinh nghiệm của các
thầy giáo, các đồng nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương
pháp dạy học.
Nếu thầy giáo chỉ làm chức năng truyền thụ kiến thức thì sẽ thực hiện phương
châm “Thầy giáo là trung tâm’’ học sinh sẽ thụ động tiếp nhận kiến thức, sẽ học
thuộc lòng những gì thầy giáo giảng và cho ghi cũng như trong sách đã viết. Đó
chính là cách giảng dạy giáo điều, nhồi sọ biến giáo viên thành người thuyết trình,



giảng giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã đọc. Có nhà giáo
dục đã gọi đó là cách “Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh”.
Chúng ta đều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống
nhất gồm hai khâu có tác dụng tương hỗ nhau: giảng dạy và học tập. Cả việc giảng
dạy và học tập đều là một quá trình nhận thức, tuân theo những quy luật nhận thức.
Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo viên và học sinh
đối với việc truyền thụ và tiếp thu một nội dung khoa học được quy định trong
chương trình với những phương pháp dạy học thích hợp, những phương tiện hình
thức cần thiết để đạt được kết quả nhất định đã đề ra.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc
phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Nhà giáo dục người Đức là
Disterverg đã khẳng định đúng đắn rằng: “Người giáo viên tồi truyền đạt chân lí,
người giáo viên giỏi dạy cách tìm ra chân lí”.
Điều này có nghĩa rằng người giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở
việc đọc cho học sinh ghi chép những kiến thức có sẵn, bắt các em học thuộc lòng
rồi kiểm tra điều ghi nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay
trong sách giáo khoa. Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những
kiến thức cơ bản (bao gồm kiến thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật,
nguyên lí và các phương pháp nhận thức…) làm cơ sở định hướng cho việc tự
khám phá các kiến thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống.
Nhằm để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và chương trình giáo dục đổi mới hiện
nay, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với
hướng dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm”. Đó cũng chính là vấn đề của mỗi
người giáo viên Công nghệ đã và đang quan tâm hiện nay, với hy vọng góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Công nghệ . Vì vậy mà trong bài viết này
tôi xin trình bày: “Phương pháp dạy học tích cực ở một số bài thực hành môn


Công nghệ 6” sẽ giúp cho việc dạy học theo phương pháp mới và việc thực hiện
chương trình giáo dục mới sẽ đạt hiệu quả cao hơn như mong muốn.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Về lí luận và thực tiễn, việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh trong giờ thực hành môn Công nghệ 6 là điều cần thiết và quan trọng để nâng
cao hiệu quả giáo dục, nâng cao kĩ năng sống. Đó chính là lí do chủ yếu để nghiên
cứu vấn đề này.
3. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM
- Thời gian từ tháng 9- 12, năm học 2016- 2017.
- Địa điểm : Trường PTDT Nội trú Bình Liêu.
4. ĐÓNG GÓP VỀ MẶT THỰC TIỄN.
- Giúp tất cả học sinh có những hiểu biết và kĩ năng nhất định về kinh tế gia đình,
về những công việc cần làm, tối thiểu để đáp ứng cuộc sống.
Thông qua đó giúp các em có các kĩ năng sống cơ bản trong các công việc nhà
như thêu thùa, sắp xếp đồ đạc trong gia đình, nấu một số món ăn đơn giản. Có thể
tự đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu khi không có người lớn bên cạnh.
Qua đó các em cũng hiểu được tình yêu của cha mẹ, ông bà giành cho cả gia đình
thông qua những sản phẩm do chính mình tạo nên.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh,chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản trong quá trình
dạy và học. Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo sư Phan Ngọc Liên và tiến sĩ Vũ
Ngọc Anh để thấy rõ sự khác biệt đó:


KIỂU DẠY HỌC TRUYỀN PPDH PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA
THỐNG

HS


1. Cung cấp nhiều sự kiện, được 1. Cung cấp những kiến thức cơ bản được
xem là tiêu chí cho chất lượng chọn lựa phù hợp với yêu cầu, trình độ của
giáo dục.

HS, nhằm vào mục tiêu đào tạo.

2. GV là nguồn kiến thức duy 2. Ngoài bài giảng của GV ở trên lớp HS
nhất, phần lớn thời gian trên lớp được tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức
dành cho GV thuyết trình, giảng khác, vốn kiến thức đã học, kiến thức của
giải, HS thụ động tiếp thu kiến bạn bè, SGK, tài liệu tham khảo, thực tế cuộc
thức thông qua nghe và ghi lại sống.
lời của GV.

3. HS ngoài việc tự nghiên cứu còn trao đổi,

3. Học sinh chỉ làm việc một thảo luận với các bạn trong tổ, lớp, trao đổi
mình trên lớp, ở nhà hoặc với ngoài giờ. HS đề xuất ý kiến, thắc mắc, trao
GV khi kiểm tra.

đổi với GV.

4. Nguồn kiến thức thu nhận 4. Nguồn kiến thức của HS thu nhận rất
được của HS rất hạn hẹp, thường phong phú, đa dang
giới hạn ở các bài giảng của GV, 5. Dạy ở trên lớp, ở thực địa, ngay t¹i gia
SGK
®×nh, líp häc, các hoạt động ngoại khoá....
5. Hình thức tổ chức dạy học chủ
yếu ở trên lớp
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính
tích cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn .Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên

và học sinh phải được “Tích cực hoá’’ trong quá trình dạy- học, phải chủ động
sáng tạo. Muốn đạt được điều đó GV cần áp dung nhiều phương pháp dạy - học
trong đó có phương pháp linh hoạt. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính


nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc
cách mạng trong người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như:
Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng
ghi lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong trường
THCS hiện nay:
Trong vài năm gần đây, bộ môn Công nghệ trong trường THCS đã được chú
trọng hơn trước. Đã được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên qua nhiều năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn
Công nghệ hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là việc
phát huy tính tích cực của học sinh trong việc học thực hành, tuy đã được phổ biến,
học tập bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ nhưng kết quả đạt được không đáng
là bao. Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản
sau đây:
Thứ nhất là vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Công nghệ là những
môn phụ. Điều này được thể hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh
đạo chưa đúng mức.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư
nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay về đồ dùng dạy. Tình trạng
dạy chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn Công nghệ 6 cả
thầy và trò chưa có điều kiện tham chương trình học nấu ăn, hay tập huấn về may
vá thêu, đan… vì không có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức kiến thức của
các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng .



Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, đó là chỉ
chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ thực hành, ít chú ý đến việc phát
triển năng lực sáng tạo.
Cuối cùng điều quan trọng là ý thức trách nhiệm của mỗi giáo viên trong việc
thực hiện các phương pháp dạy học phù hợp cho tiết dạy cũng như chất lượng bộ
môn ngày một nâng cao. Mỗi một GV – HS phải hiểu rõ sự nguy hại của việc thi gì
học nấy sẽ làm cho học vấn của học sinh bị què quặt, thiếu toàn diện.....
2.CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 THỰC TRẠNG
- Do đặc thù bộ môn công nghệ 6 phần thực hành liên quan trực tiếp đến các thao
tác thực hành bằng tay và có sản phẩm cụ thể. Điều này gây khó khăn đến quá
trình vận dụng của học sinh. Mặt khác, học sinh của trường PTDT Nội trú là con
em đồng bào dân tộc thiểu số, các em ăn, ở, học tại trường xa gia đình nên gia đình
ít quan tâm tới việc học tập của các em. Mặt khác các em học sinh lớp 6 còn rất bé
các thao tác thực hành bằng tay còn rất lóng ngóng, việc thực hiện đúng đã khó,
việc tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh đẹp đẽ đảm bảo yêu cầu còn khó hơn.
- Khi dạy xong bài thực hành 5 và bài thực hành 7 tôi đã theo dõi và nhận thấy:
Kết quả :
+ 20% HS chưa biết cầm kim khâu.
+ 60% HS biết cầm kim nhưng chưa thực hiện được các mũi khâu cơ bản
+ 20% HS thực hiện được các mũi khâu cơ bản nhưng chưa đẹp
Rõ ràng Học sinh đã thiếu đi những kĩ năng cơ bản về các nhiệm vụ đươc
thao tác bằng tay.
2.2 CÁC GIẢI PHÁP


Hầu hết các giờ học thực hành Công nghệ 6 đều đòi hỏi học sinh có đồ dùng học
tập, chuẩn bị nguyên vật liệu đầy đủ và hoàn thiện sản phẩm khi kết thúc thực hành

Trong giờ thực hành các em học sinh phải tổ chức thực hành chung theo cặp, theo
nhóm:
Ví dụ: Bài 14 Thực hành : Cắm hoa trang trí
* Tổ chức thực hiện:
Tôi tiến hành dạy thực hành theo các bước như sau:
Bước 1: ( ở tiết trước tiết thực hành )
- Dặn dò tỉ mỉ học sinh chuẩn bị dụng cụ thực hành
- Phân chia nhóm thức hành để học sinh phân công nhau chuẩn bị
Bước 2: ( Trong giờ)
- GV kiểm tra dụng cụ, đồ dùng thực hành.
- Phân công nhóm trưởng các nhóm, các nhóm trưởng phải theo dõi thực hành
trong nhóm, quản lí nhóm.
Bước 3: Gv nêu yêu cầu giờ thực hành, các chú ý khi thực hành như: an toàn khi
sử dụng dao kéo, vệ sinh lớp học….
Bước 4: GV hướng dẫn thực hành
Bước 5: Tổ chức thực hành theo nhóm, giao nhiệm vụ cho từng cá nhân, nhiệm vụ
chung của nhóm.
Bước 6: Đánh giá, nhận xét
Trong các giờ thực hành đều phải có đó là đồ dùng thực hành, những đồ dùng
này thường không có sẵn, nhà trường không thể chuẩn bị trước do đó GV và học
sinh phải linh hoạt chuẩn bị cho tốt thì giờ thực hành mới thành công


Để tổ chức tốt các giờ thực hành theo tôi phải giải quyết được mấy vấn đề sau
đây:
A. Sử dụng tốt đồ dùng dạy học:
Môn Công Nghệ là một môn học ứng dụng, gắn liền với kĩ thuật, vì vậy cần có các
đồ dùng dạy học để học sinh nghiên cứu lí thuyết, làm thí nghiệm và thực hành.
Đồ dùng dạy học bao gồm các thiết bị dạy học mà nhờ đó giáo viên minh hoạ
truyền thụ kiến thức cho học sinh, là một trong những điều kiện quan trọng góp

phần nâng cao chất lượng dạy - học, là nội dung nguồn thông tin giúp giáo viên tổ
chức điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh. Đồ dùng dạy học bao gồm :
(I)

Tài liệu học tập : các tài liệu học tập như sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài

tập..
(II) Các phương tiện và tài liệu trực quan: mô hình, tranh ảnh, bản đồ, mẩu vật,
phim, phim đèn chiếu, bản trong,băng đĩa ghi âm, băng đĩa ghi hình, đĩa mềm vi
tính.
(III) Các phương tiện kỹ thuật dạy học:
- Phương tiện nghe nhìn: máy chiếu đa năng, máy đèn chiếu, máy vi tính …
- Các phương tiện trực quan khác : bảng phụ cho giáo viên và học sinh.
Trong đó thiết bị dạy học tối thiểu của môn Công Nghệ 6 gồm:
- Tranh ảnh : 8 tranh / 27 bài
- Mẩu vật : các mẩu vải cho chương 1,
- Dụng cụ : dụng cụ thực hành may áo gối, dụng cụ tỉa hoa cho chương 3
- Vật liệu tiêu hao : chỉ, phấn may, vải, hoa…
Theo tôi, nên sử dụng đồ dùng dạy học trong các trường hợp sau đây:


- Khi đối tượng thật quá to hay quá nhỏ.
Ví dụ: phối hợp các loại vải, các loại quần áo…
- Khi đối tượng hay quá trình không có trong lớp học
Ví dụ : như khi giảng về sắp xếp đồ đạc hợp lí trong nhà ở thì cần phải có mô hình.
giảng về các món ăn, các phương pháp chế biến thì cần phải có tranh minh hoạ…
- Khi đối tượng mà ta không thấy ở điều kiện thường được.
Ví dụ như các phương pháp chế biến thực phẩm
* Những tác dụng của việc sử dụng đồ dùng dạy học.
Tăng cường hoạt động nhận thức của học sinh: vì các đồ dùng dạy học góp phần

nâng cao tính trực quan của quá trình dạy học, giúp học sinh tiếp cận với các sự vật
hiện tượng; các đồ dùng dạy học còn là phương tiện chứa đựng và chuyển tải thông
tin.
Giúp HS tự chiếm lĩnh kiến thức, phát triển kỹ năng thực hành: ví dụ như đốt sợi
vải, nhúng vải trong nước cho HS quan sát từ đó nêu lên những tính chất của các
loại vải, Hs tự phối hợp các màu sắc của vải từ đó rút ra được nội dung cuả việc
phối hợp các loại trang phục. Đồng thời cũng góp phần xây dụng kỹ năng thực
hành cho HS.
Kích thích hứng thú học tập của HS: đồ dùng dạy học có tác dụng kích thích sự
hứng thú học tập của học sinh trong quá trình học tập, tạo ra động cơ học tập cho
HS, rèn luyện thái độ tích cực học tập. ví dụ như khi cho HS quan sát các mẫu áo
gối làm sẳn, quy trình may áo gối HS rất hứng thú và háo hức thực hành tự mình
hoàn thiện sản phẩm, hay khi cho Hs quan sát sản phẩm và quy trình trộn hỗn hợp
HS rất thích mong muốn thực hành và trong tiết thực hành các em làm rất tốt.


Phát triển trí tuệ,, giáo dục nhân cách của HS: Thông qua các thí nghiệm, thực
hành, sủ dụng các mẫu vật tranh ảnh giúp HS nhận thức bản chất và giải thích một
cách khoa học các hiện tượng tự nhiên xã hội, rèn luyện khả năng quan sát, tính
cần cù tác phong làm việc nghiêm túc để hoàn thành công việc một cách khoa học.
 Tóm lại : Sử dụng đồ dùng dạy học tốt giúp giáo viên và học mất ít thời gian
và công sức và tổ chức công việc phụ trong lớp học, dành nhiều thời gian cho các
hoạt động dạy và học, thực hiện có hiệu quả bài học.
B. Tổ chức thực hành đúng phương pháp, phân chia thời gian hợp lí.
Môn học Công Nghệ là môn học có tính thực tiễn cao do đó trong các giờ học giáo
viên giữ vai trò là người hướng dẫn tổ chức cho học sinh thu nhận kiến thức, hình
thành kĩ năng thông qua việc tổ chức lớp học, giờ học theo hướng tích cực, tự lực
tự giác, làm việc nhiều hơn suy nghĩ nhiều hơn... và chịu trách nhiệm nhiều hơn
trong mỗi giờ học. thông thường cho học sinh làm việc theo cặp, theo nhóm.
- Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ khoảng từ 4 đến 6 em hoặc từng cặp để

trao đổi thảo luận những vấn đề đặt ra sau đó cử đại diện trình bầy trước lớp để cả
lớp thảo luận.
- Các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ ý, ổn định cho cả tiết học hay
thay đổi cho từng phần của tiết học, các nhóm có thể giao cùng một nhiệm vụ hoặc
những hiệm vụ khác nhau.
- Mỗi thành viên trong nhóm được phân công hoàn thành một phần việc. Mọi
người phải làm việc tích cực không ỷ lại vào một vài người có hiểu biết rộng và
năng động hơn.
- Kết quả của mỗi nhóm đóng góp cho kết quả học tập chung cho cả lớp.
Bước 1: Làm việc chung cả lớp (nêu mục tiêu của bài; tổ chức các nhóm và giao
nhiệm vụ cụ thể cho từng nhóm; hướng dẫn cách làm việc theo nhóm)


Bước 2: Làm việc theo nhóm ( Trao đổi ý kiến, thảo luận nhóm; phân công trong
nhóm; từng cá nhân làm việc độc lập rồi tao đổi; cử đại diện trình bầy kết quả)
Bước 3: Thảo luận tổng kết toàn lớp (các nhóm báo cáo kết quả làm việc; thảo luận
chung cho cả lớp; giáo viên nhận xét, bổ sung và kết luận)
Tuỳ theo đặc điểm bài dạy mà thời gian dành cho các bước các giai đoạn trên có
thể khác nhau. Tuy nhiên khi sử dụng cấu trúc này cần chú ý một số vấn đề như
các nhiệm vụ của bài lên lớp không nên quá ôm đồm, đo đó phải xác định được
nhiệm vụ trọng tâm, các bài lên lớp không nên lặp lại theo một tiến trình quen
thuộc như vậy sẽ gò bó ảnh hưởng đến sự sáng tạo của giáo viên và hứng thú của
học sinh.
C . Đánh giá đúng, nhận xét kịp thời
Đây là nội dung đánh giá hết sức quan trọng, đặc biệt đối với các môn học
thực nghiệm nói chung và môn Công nghệ 6 nói riêng. Vì thông qua việc kiểm tra
- đánh giá thực hành thí nghiệm giúp cho giáo viên nắm thêm những thông tin về
kĩ năng thực hành, ý thức cẩn thận và tính tiết kiệm của mỗi học sinh. Ngoài ra qua
hình thức kiểm tra- đánh giá này còn cho giáo viên thấy được ngoài sự nổ lực học
tập cá nhân của mỗi học sinh mà còn biết nổ lực làm việc trong nhóm- thể hiện sự

hợp tác trong học tập.
Như vậy đây là hình thức đánh giá khá toàn diện về kiến thức, kĩ năng và thái độ
học tập của học sinh. Thông qua hình thức đánh giá này giúp cho giáo viên uốn
nắn kịp thời những học sinh có thái độ học tập chưa tốt, ý thức chưa cao, có tính cá
nhân… để dần dần giúp cho việc phát triển nhân cách của học sinh một cách toàn
diện. Do đó để đánh giá và nắm được những thông tin chính xác của từng nhóm,
từng học sinh trong một tiết thực hành thí nghiệm, thì người giáo viên ngoài việc tổ
chức - hướng dẫn cho học sinh thực hành thí nghiệm mà còn phải biết quan sát và


quản lí toàn lớp học. Để làm tốt điều này, theo tôi cần tiến hành bằng 2 phiếu:
Phiếu thực hành của học sinh và phiếu quản lí của giáo viên.

Cho học sinh thực

hành thí nghiệm theo nhóm, rồi ghi lại tường trình theo mẫu sau:
* Phiếu thực hành của học sinh
Bài thực hành số ……
Lớp………

Tên bài thực hành………………………………

Nhóm………………..

Họ và tên các thành viên trong nhóm:
1/…………………….. .; 2/………………………; 3/……………………............
4/……………………….;5/…………………….....; 6 /……………………........
* Phần nhận xét và đánh giá của giáo viên:
Nhận xét


Đánh giá
Ý thức thái

Thao tác

độ

thực hành

(2điểm )

(3điểm )

Kết quả
(5điểm )

Tổng điểm

- Điểm ở các mục: Ý thức - thái độ, thao tác thực hành, kết quả thí nghiệm được
giáo viên đánh giá tại lớp bằng cách ghi vào trong phiếu quản lí của giáo viên.
- Điểm cho toàn bài thực hành của học sinh bằng cách tổng điểm của 3 mục đã nêu
ở trên sau khi đã tính trung bình.
- Cuối tiết thực hành giáo viên yêu cầu mỗi nhóm học sinh tự đánh giá nhận xét để
chọn ra những cá nhân tiêu biểu đánh dấu (+) và ngược lại phê bình những cá nhân
không tham gia tích cực đánh dấu (-) vào tên những thành viên đó trong phiếu thực
hành.


Thông qua những vấn đề vừa nêu ở trên giúp cho giáo viên đánh giá chính xác về
thái độ, kĩ năng và kiến thức của từng nhóm, từng học sinh trong thực hành. Đây

cũng chính là động cơ quan trọng giúp cho học sinh tích cực chủ động sáng tạo
trong học tập.
2.3 . KẾT QUẢ CỦA SKKN:
Qua phương pháp dạy học tích cực ở một số bài thực hành môn Công nghệ 6 tôi
nhận thấy kết quả khả quan như sau:
- Các em yêu thích môn học nhiều hơn.
- Những bài thực hành sau các em tham gia nhiệt tình hơn. Có những bài thực hành
các em tham gia thành công ở tại gia đình như: cắm hoa, lựa chọn trang phục phù
hợp, ….
- Điểm kiểm tra của các em được cải thiện rõ rệt, điểm dưới trung bình rất ít.
- Các em có thể ứng dụng kiến thức học được trong môn học vào việc giữ vệ sinh
trường lớp, bản thân đặc biệt là ăn ở sinh hoạt nội trú.
- Phần lớn các em đã có ý thức học tập bộ môn và có phương pháp học tập tốt.
- Đại bộ phận các em đã hình thành được một số kỹ năng đơn giản, hoàn thiện
được sản phẩm, biết làm được một số sản phẩm đơn giản như vỏ gối hình chữ nhật,
biết cắm hoa trang trí,...
- Cơ bản là các em biết tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội các kiến, chủ động
phân công nhau chuẩn bị nguyên liệu, dụng cụ thực hành. Các em học sinh lớp 6
đã biết tổ chức làm việc theo cặp, theo nhóm, qua đó giáo dục tinh thần đoàn kết
cho các em
* Kết quả cụ thể:


Với phương pháp dạy thực hành theo cách phát huy tính chủ động sáng tạo của học
sinh, tổ chức cho học sinh thực hành theo cặp theo nhóm, cho các em chủ động
phân chia công việc, tự theo dõi, đánh giá kết quả chéo nhau trong nhóm. được
phân công dạy môn Công nghệ 6, tôi tổ chức khảo sát để đối chứng, so sánh với
đầu năm.
*Kết quả :
95 % Học sinh hoàn thành được các sản phẩm đơn giản như khâu vỏ gối, cắm

hoa, lựa chọn được trang phục phù hợp với bản thân.
70% Học sinh hoàn thành sản phẩm đẹp đẽ hoàn chỉnh
40 % Học sinh hoàn thành sản phẩm có sự sáng tạo.
Kết quả thấy rằng: các em học sinh tự tin hơn trong công việc, chủ động hơn trong
các giờ thực hành, trong lớp học sinh có ý thức hơn do bị bạn theo dõi đánh giá,
chất lượng sản phẩm tốt hơn .
2.4.Rút ra bài học kinh nghiệm.
- Bài học chung: Để đạt được thành quả cao hơn cần có sự cố gắng của cả thầy và
trò. Đặc biệt là khâu chuẩn bị của cả thầy và trò.
- Bài học riêng:
+ Phải đầu tư nghiên cứu kĩ cách thức hướng dẫn học sinh thực hiện từ các thao
tác từ đơn giản đến phức tạp
+ Phải có hướng khai thác hợp lý, phân công nhóm thực hành rõ ràng, có đầy đủ
các thành viên có kĩ năng tốt, khá, yếu kém trong cùng một nhóm.
+ Phải nhận xét đánh giá cho điểm một cách công bằng nhất các thành phẩm của
các em.
- Bài học thành công: Chuẩn bị tốt kiến thức, nội dung cần hướng dẫn cho học sinh
một cách ngắn gọn, dễ hiểu…Học sinh tiếp thu kiến thức nhanh, hoàn thành được
các yêu cầu của giáo viên.


- Bài học không thành công: Việc hướng dẫn cụ thể từng học sinh trong nhóm còn
gặp nhiều khó khăn do trong mỗi lớp số lượng học sinh nhiều, đối tượng học sinh
nhiều thành phần ( giỏi, khá, trung bình, yếu…), thời gian tiết dạy hạn chế ( chỉ 45
phút cho một tiết dạy).
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Trong thực tế giảng dạy các bài thực hành Công nghệ 6 thì tôi thấy rằng vai trò
của mỗi một người giáo viên là rất quan trọng. Muốn có một giờ học thực hành
thành công thì người giáo viên phải đầu tư thời gian, công sức soạn bài , chuẩn bị

công phu các bước lên lớp. Trong một giờ thực hành thì Gv luôn mềm dẻo các
phương pháp dạy học, không nên áp dụng cứng nhắc một phương pháp nào. Trong
một bài cũng cần có nhiều phương pháp khác nhau… Tuy nhiên người Gv cũng
chỉ đóng vai trò làm người hướng dẫn các em mọi hoạt động, để các em chủ động
sáng tạo trong các tình huống thực hành thì giờ thực hành sẽ thành công. Vậy với
cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn, người giáo viên phải luôn tác động ý thức
học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tòi, ham hiểu biết, sẵn sàng
khám phá khoa học có như thế mới đem lại hiệu quả. Trong một giờ thực hành cần
chú ý các vấn đề sau:
- Sử dụng tốt đồ dùng dạy học:
- Tổ chức thực hành đúng phương pháp, phân chia thời gian hợp lí.
- Đánh giá đúng, nhận xét kịp thời
Làm tốt các vấn đề trên giờ thực hành sẽ thành công, học sinh sẽ hứng thú học thực
hành. Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao
động làm chủ nước nhà: có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức


khoẻ, thông minh sáng tạo… đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá .
2. Đề xuất, kiến nghị.
- Để đạt được kết quả cao khi giảng dạy theo phương pháp dạy học tích cực phần
thực hành Công nghệ THCS cần phải có đầy đủ trang thiết bị phục vụ tốt cho các
tiết dạy ( mô hình, tranh ảnh, vật thật ) để học sinh có thể tiếp thu kiến thức tốt hơn
( vì thực trạng các thiết bị , đồ dùng phục vụ cho giảng dạy bộ môn còn thiếu
thốn),. Tôi mong muốn các cấp lãnh đạo, chuyên môn quan tâm cung cấp thêm các
thiết bị dạy học cho phần thực hành công nghệ 6 nói riêng và cả phần thực hành
công nghệ 7,8,9 nói chung.
Nhờ đó Học sinh sẽ lĩnh hội được kiến thức một cách tốt hơn, kết quả giảng dạy sẽ
cao hơn.
Trên đây là những kinh nghiệm giảng dạy tích cực trong phần thực hành công

nghệ THCS . Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp.
IV. TÀI LIỆU KHAM KHẢO
- Sách giáo viên công nghệ 6.
- Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng
phát triển năng lực học sinh.
- Giáo trình môn thêu và cắm hoa dành cho các trường cao đẳng, đại học.

V. NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Phần đánh giá, nhận xét, xếp loại của Hội đồng nhà trường: ………………


………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Tình Húc, ngày 20 tháng 12 năm 2016
Người viết

Phan Thị Mai




×