Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ĐỀ CƯƠNG LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHẦN 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.84 KB, 23 trang )

VẤN ĐỀ 1:
Kiểu Nhà nước Chủ nô
Về cơ sở kinh tế: Hình thức sở hữu trong kiểu nhà nước chủ nô là tư
hữu. Tư hữu ở đây chính là sự tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản
xuất và đối với người nô lệ.
Về cơ sở xã hội : Trong xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại nhiều giai cấp như
chủ nô, nông dân, nô lệ và ngoài ra còn có tầng lớp thợ thủ công. Trong
đó hai giai cấp đối kháng chính là chủ nô và nô lệ. Chủ nô là giai cấp
thống trị xã hội còn nô lệ là giai cấp bị trị.
Về cơ sở tư tưởng : Cơ sở tư tưởng của nhà nước trong thời kỳ này là
đa thần giáo. Giai cấp thống trị đã sử dụng tôn giáo làm sức mạnh tinh
thần và trấn áp giai cấp bị trị.
Kiểu Nhà nước Phong kiến
Về cơ sở kinh tế: Cơ sở kinh tế của kiểu nhà nước phong kiến vẫn là
chế độ tư hữu nhưng đối tượng sở hữu của địa chủ phong kiến là đất
đai. Tính chất bóc lột giờ đây đã có sự thay đổi, tức là từ bóc lột kinh tế
trực tiếp của chủ nô với nô lệ chuyển sang bóc lột của quý tộc phong
kiến với nông dân thông qua địa tô phong kiến..
Về cơ sở xã hội : Thành phần giai cấp được mở rộng, ngoài hai giai cấp
chính là địa chủ và nông dân còn có các tầng lớp thị dân, thương gia…
Mâu thuẫn giai cấp chủ yếu diễn ra giữa chủ nô và nô lệ.
Về cơ sở tư tưởng : Trong thời gian này với việc hình thành các tôn giáo
lớn và chúng trở thành cơ sở tư tư tưởng cho các nhà nước phong kiến.
Kiểu Nhà nước Tư sản
Về cơ sở kinh tế : Cơ sở kinh tế trong kiểu Nhà nước tư sản vẫn là tư
hữu nhưng sự tư hữu ở đây khác với tư hữu phong kiến. Đối tượng tư
hữu không chỉ là đất đai mà là tư bản vốn (tiền). Chính sự thay đổi đối
tượng này dẫn đến sự thay đối về phương thức bóc lột - bóc lột thông
qua giá trị thặng dư.
Về cơ sở xã hội : Trong Nhà nước tư sản, kết cấu dân cư phức tạp vì
tồn tại nhiều giai cấp. Trong thời kỳ đầu của Nhà nước tư sản, xã hội tồn


tại ba giai cấp chính đó là phong kiến, nông dân, tư sản. Sau đó giai cấp
phong kiến bị đánh đổ, xã hội tồn tại hai giai cấp chính là vô sản và tư
sản. Ngoài ra còn có các tầng lớp khác như trí thức, tiểu thương, thợ
thủ công…Giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị.


Về cơ sở tư tưởng : Nhà nước tư sản được tổ chức và hoạt động dựa
trên hệ tư tưởng tư sản vốn được hình thành trong quá trình đấu tranh
với quý tộc phong kiến.
Kiểu Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
Về cơ sở kinh tế: Cơ sở kinh tế trong nhà nước xã hội chủ nghĩa là chế
độ công hữu. Mục đích của kinh tế là thỏa mãn những điều kiện vật chất
và tinh thần của người dân. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, lao động
phải trở thành một nhu cầu sống chứ không phải chỉ là hình thức kiếm
sống của mỗi người.
Về cơ sở xã hội : Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, vì cơ sở kinh tế là
chế độ công hữu nên quan hệ bóc lột giai cấp sẽ không có điều kiện
phát triển. Trong xã hội sẽ chỉ còn tồn tại các nhóm xã hội, các tầng lớp
tồn tại trên cơ sở quan hệ hợp tác và dần dần đi đến xóa bỏ giai cấp.
Về cơ sở tư tưởng : Cơ sở tư tưởng trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
chủ nghĩa Mác Lê Nin
VẤN ĐỀ 2: BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC XHCN VN
Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Bản chất bao trùm nhất, chi phối mọi lĩnh vực đời sống nhà nước Việt
Nam hiện nay từ tổ chức đến hoạt động thực tiễn là tính nhân dân của
nhà nước. Điều 2- Hiến pháp 1992 quy định:" nhà nước CHXHCN Việt
Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức".
Như vậy, quyền lực nhà nước không thuộc một đẳng cấp, một tổ chức

xã hội hoặc một nhóm người nào. Quyền lực nhà nước phải hoàn toàn
thuộc về nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác mà nòng cốt là liên
minh công nhân- nông dân- trí thức. Nông dân là người chủ sở hữu duy
nhất toàn bộ tài sản vật chất và tinh thần của nhà nước, có quyền quản
lý toàn bộ công việc của nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả công việc
có liên quan đến vận mệnh đất nước, đến đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, tư tưởng của toàn thể dân tộc.
Bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam được thể hiện rõ thông qua đặc
điểm của nó.
Đặc điểm của nhà nước CHXHCN Việt Nam.


Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực
hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức
cơ bản nhất là thông qua bầu cử, lập ra các cơ quan đại diện quyền lực
của mình. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực của mình dưới
hình thức trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã
hội, tham gia thảo luận Hiến pháp và pháp luật, trực tiếp thể hiện ý chí
của mình khi có trưng cầu dân ý. Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu
của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước Trung ương và địa
phương và có quyền bãi nhiệm các đại biểu đó khi họ tỏ ra không xứng
đáng, không làm tròn trách nhiệm. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân phải báo cáo công việc của mình trước cử tri.
Nhà nước CHXHCN VN là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ
Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh
em.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ
giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị chia rẽ dân tộc, thực

hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhà nước CHXHCN VN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên
tắc bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mối quan hệ giữa bộ máy nhà
nước và công dân đã thay đổi, công dân có đầy đủ các quyền tự do,
dân chủ trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời công dân
cũng tự giác thực hiện mọi nghĩa vụ trước nhà nước. Về phần mình,
nhà nước XHCN cũng tôn trọng các quyền tự do dân chủ của công dân,
ghi nhận đảm bảo cho các quyền tự do được thực hiện đầy đủ.
Mối quan hệ nhà nước và công dân được xác lập trên cơ sở tôn trọng
lợi ích giữa các bên. Luật pháp không chỉ quy định địa vị pháp lý của
công dân mà còn buộc các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và đưa ra
các đảm bảo thực tế cho các quyền ấy, tránh mọi nguy cơ xâm hại từ
phía các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách.
Tính chất dân chủ rộng rãi của nhà nước CHXHCN VN, đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế- xã hội.


Dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết của
thời đại mà còn là đòi hỏi có tính nguyên tắc xuất phát từ bản chất dân
chủ của nhà nước CHXHCN VN trong điều kiện hiện nay.
Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nhà
nước khuyến khích"... phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tê: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế, cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế tư bản nhà nước nhiều dưới hình thức..." (Điều 16).
Các thành phần kinh tế được tự do, tự chủ trong kinh doanh, được liên
doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, bình
đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và cạnh tranh với

nhau một cách lành mạnh.
Nền kinh tế thị trường trong các điều kiện của CNXH không thể không
làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, đòi hỏi sự quan tâm giải quyết của
nhà nước và toàn xã hội.
Nhà nước CHXHCN VN một mặt tạo mọi điều kiện thuận lợi về mặt
chính trị, pháp lý, kinh tế để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế, mặt khác
quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị
trường chính trên lĩnh vực này bản chất nhân đạo của nhà nước được
thể hiện rõ nét nhất.
Sức mạnh bạo lực của nhà nước XHCN không nhằm bảo vệ sự thống
trị chính trị của một cá nhân nào, một nhóm người nào mà nhằm bảo vệ
quyền lực của nhân dân, bảo vệ chế độ chính trị, chế độ kinh tế đã được
quy định trong Hiến pháp 1992.
Chính sách đối ngoại của nhà nước CHXHCN VN thể hiện tính cởi mở,
hòa bình, hợp tác hữu nghị với tất cả các quốc gia, không phân biệt chế
độ chính trị.
Điều 14 Hiến pháp 1992 khẳng định "Nước CHXHCN VN thực hiện
chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác
nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi, tăng cường đoàn kết hữu nghị và
quan hệ hợp tác với các nước XHCN và các nước láng giềng, tích cực
ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.


-

CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY:


Đối với chức năng chính trị: Chức năng chính trị là một trong những
chức năng quan trọng của Nhà nước Việt Nam. Mặc dù không còn tồn
tại những gc đối kháng, song các thế lực phản cách mạng vẫn không
ngừng chống phá cách mạng Việt Nam đi ngược lại lợi ích của nhân
dân. Do vậy nhà nước luôn phải đề cao cảnh giác sẵn sang đập tan mọi
âm mưu phá hoại an ninh chính trị của các lực lượng chống đối sự
nghiệp xd và pt đất nước.
Đối với chức năng kinh tế: Việt Nam là nước đi lên CNXH có xuất phát
điểm thấp, kt chậm pt, vì vậy nhà nước chủ trương xd nền kinh tế độc
lập tự chủ, phát huy nội lực, chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế , thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước pt kinh tế thị
trường định hướng XHCN , nhiều tp kinh tế, nền kt nhà nước giữ vai trò
chủ đạo.
Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế để điều
tiết nền kinh tế, đầu tư khuyến khích khoa học kĩ thuật, công nghệ, tạo
lập sự ổn định và pt xã hội, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kĩ
thuật để đẩy nhanh quá trình pt kt-xh của đất nước, mở rộng nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại
Đối với chức năng xã hội: Để không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện
của mỗi con người, nhà nước Việt Nam tiến hành quản lý cả kinh tế và
xã hội bao gồm các mặt văn hóa, xã hội, bv môi trường và thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội.
+ Về văn hóa, Nhà nước xd, pt nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, pt văn học, nghệ thuật đáp ứng nhu
cầu tinh thần lanh mạnh cua nhân dân, pt các phương tiện thông tin đại
chúng. Bên cạnh đó nhà nước còn kế thừa, phát huy những giá trị của
nền văn hiến lâu đời, phát huy tài năng sáng tạo của nhân dân, chống
những tư tưởng, văn hóa lạc hậu và thù địch.
+ Về giáo dục, đào tạo: chủ trương ot gd là quốc sách hàng đầu nhằm

nâng cao dân trí, pt nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước coi
trọng chất lượng và hiệu quả, mở rộng quy mô, đa dạng hóa các loại
hình đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội.
+ Về khoa học, công nghệ: thực hiện chính sách pt khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp pt ktxh, chủ trương xd nền khoa học tiên tiến , pt đồng bộ các ngành khoa


học và có những chính sách phù hợp để pt và quản lý cả khoa học xã
hội và khoa học tự nhiên và công nghệ. Gắn nghiên cứu khoa học với
thực tiễn, đầu tư cơ sở vật chất, khuyến khích đầu tư, tạo lập thị trường
cho các hoạt động khoa học công nghệ…
+ Về bảo vệ môi trường: Nhà nước Vn quan tâm đến việc xd chính sách
bv môi trường; thực hiện quản lý sử dụng hiệu quả, bền vững các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học,
phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, nhà
nước còn xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường,
làm suy kiệt tài nguyên và suy giảm đa dạng nh học, yêu cầu chủ thể có
trách nghiệm bồi thường, khắc phục thiệt hại.
+ Về các vấn đề xã hội khác: Nhà nước luôn quan tâm đến việc quản lý
sự nghiệp bao vệ sức khỏe của nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn
dân, chính sách ưu tiên chăm sóc cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền
núi, hải đảo, thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Ngoài ra nhà nước còn
khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho
người lao động, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động tạo điều
kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa, ổn định.
Đối với chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, bảo về quyền, lợi ích
con người, công dân: Hoạt động bảo về trật tự pháp luật trên các lĩnh
vực khác nhau luôn được nhà nước VN quan tâm, nhà nước k chỉ ban
hành hệ thống pháp luật mà còn sử dụng để đảm bảo cho nó được thực
hiện nghiêm minh. Các quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh

vực được tôn trọng, bảo vệ.
Đối với chức năng bảo vệ đất nước: Tổ quốc Việt Nam luôn bị các thế
lực ngoại bang tìm cách xâm lược, phá hoại. Bảo về tổ quốc là sự
nghiệp của toàn dân, trước nguy cơ xâm lược luôn rinh rập, nhà nước
luôn chú trọng củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân.
Đối với chức năng hợp tác với cá nước, các dân tộc khác và các tổ
chức quốc tế: Chủ trương của nhà nước là thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa binh, hữu nghị, hợp tác và pt, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động tích cực hội nhập, hợp tác
quốc tế trên cở sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì
trật tự thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hòa
bình và tiến bộ xã hội trên tòan thế giới.


Ngày nay nước ta là thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế
như Liên hợp quốc, phong trào không liên kết và rất nhiều tổ chức trực
thuộc Liên hợp quốc. Trong diễn đàn quốc tế và khu vực, nước ta luôn
tỏ rõ thiện chí và nỗ lực hợp tác để góp phần giải quyết hòa bình nhiều
vấn đề quốc tế. ảnh hưởng và uy tín của nước ta trên trường quốc tế
ngày càng được củng cố và tăng cường.
VẤN ĐỀ 3: BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC QUA CÁC KIỂU
NHÀ NƯỚC:
Bộ máy Nhà nước chủ nô: tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
chủ nô mang nặng tính quân sự và tập trung quan liêu.
+Nhiệm vụ: Trấn áp nô lệ trong nước, xâm lược các nước khác, giữ gìn
trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của chủ nô, cưỡng bức nô lệ làm giâu cho
chủ nô.

+ Cơ cấu tổ chức: đơn giản, gồm rất ít cơ quan.
+ Sự phân định chức năng: Ban đầu, chủ nô là người lãnh đạo quân đội
vừa là người đại diện chính quyền thực hiện quản lý xã hội, vừa là quan
tòa,… Sau này, cùng với sự pt của xã hội đòi hỏi bộ máy nhà nước chủ
nô pt, phức tạp và hoàn thiện hơn.
Bộ máy Nhà nước phong kiến: so với nhà nước chủ nô, bộ máy nhà
nước phong kiến có sự kế thừa và hoàn thiện dần.
+ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động: khá tùy tiện và rất đa dạng, tùy
thuộc vào ý chí chủ quan của vua ở mỗi thời nhất định.
+ Cơ cấu tổ chức: ở trung ương có triều đình đứng đầu là vua – người
thâu tóm toàn bộ quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
+ Sự phân định chức năng: Các cơ quan lại trên triều đình do vua bổ
nhiệm, cắt cử, các cơ quan nhà nước đều phải báo cáo và chịu trách
nhiệm trước vua.
Bộ máy Nhà nước tư sản: bộ máy nhà nước tư sản phổ biến được tổ
chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước.
+ Cách thức thành lập: sau khi lập đổ chế độ phong kiến, gc tư sản kế
thừa bộ máy nhà nước cũ, hoàn thiện , pt nó ở trình độ khá cao phù hợp
với xã hội tư sản.


+ Cơ cấu tổ chức: có bộ máy khá hoàn thiện và phức tạp…
+ Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động: khá khoa học, dân chủ.
Nguyên tắc hiến định, đề cao hiến pháp. Bộ máy nhà nước phải được tổ
chức và hoạt động đung Hiến pháp đã quy định.
Nguyên tắc đề cao nghị viện. Nghị viện là cơ quan dân cử được xem là
cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước, đóng vai trò chính trong
hoạt động của nhà nước.
Nguyên tắc phân chia quyền lực. quyền lực nhà nước được chia thành

quyền lập pháp (nghị viện), quyền hành pháp (chính phủ), quyền tư
pháp (tòa án) để chống lại sự độc đoan chuyên quyền…
Nguyên tắc chủ quyền tối cao của nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Sự phân định chức năng: Cơ quan chuyên là nhiệm vụ cưỡng chế
(quân đội, tòa án, nhà tù,…)
-

BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XHCN VN:

Bộ máy nhà nước là hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất tạo thành
một cơ chế đồng bộ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Bộ
máy nhà nước CHXHCN VN là hệ thống cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương, có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức,
được thành lập và có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, nhân
danh nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước bằng hình
thức, phương pháp đặc thù. Bộ máy nhà nước Việt Nam gồm: Quốc hội,
Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa
phương
Quốc hội: là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nhà nước CHXHCN VN. Quốc hội có quyền
lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản quan trọng của đất nước,
quyền giám sát tối cao.
Quốc hội là cơ quan nhà nước do nhân dân cả nước bầu ra, có nhiệm
kỳ là 5 năm.
UBTVQH:Là cơ quan thường trực của Quốc hội, do Quốc hội thành lập
và chịu trách nhiệm trước Quốc hội.


Nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức, chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp

Quốc hội.
Công bố và chủ trì đại biểu Quốc hội, Điều hành và phối hợp hoạt động
của các Hội đồng và ủy ban. Hướng dẫn và tạo điều kiện đại biểu Quốc
Hội hoạt động.
Thay mặt Quốc hội trong hoạt động đối ngoại. Giám sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động cơ quan nhà nước. Ban hành pháp luật, Nghị
quyết trong phạm vi vấn đề được giao. Thay mặt Quốc hội, thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn Quốc hội trong thời gian giữa 2 kỳ họp.
Hội đồng dân tộc: Do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội, UBTVQH.
Cơ cấu: Chủ tịch, phó chủ tịch, ủy viên.
Nhiệm vụ, quyền hạn: Nghiên cứu, kiến nghị với Quốc hội những vấn đề
dân tộc. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chinh
sách phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi và vùng có đồng bào dân tộc
thiểu số.
Các Uỷ ban (7 ủy ban).
Do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn: Thẩm tra dự án luật, báo cáo được Quốc hội,
UBTVQH giao. Trình dự án luật, pháp lệnh. Thực hiện quyền giám sát
trong phạm vi luật định. Kiến nghị những vấn đề thuộc thẩm quyền của
UB.
Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước là nguyên thủ Quốc gia, được bầu ra trong số đại biểu
Quốc hội theo giới thiệu của UBTVQH, chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn: Nhóm quyền hạn liên quan đến hoạt động đối nội,
đối ngoại. Nhóm quyền hạn liên quan đến sự phối hợp các thiết chế nhà
nước trong việc thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp. Bổ
nhiệm thẩm phán, đề nghị Quốc hội bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tham gia thành lập

Chính phủ. Ban hành luật, Quyết định thực hiện quyền hạn của mình.
UB quốc phòng và an ninh là cơ quan thuộc chủ tịch nước, do chủ tịch
nước làm chủ tịch, phó chủ tịch và các thành viên do Quốc hội phê


chuẩn trên cơ sở đề nghị của chủ tịch nước. UB có quyền huy động
toàn bộ lực lượng và khả năng nước nhà để bảo vệ tổ quốc.
Chính phủ: là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước CHXHCN VN.
Chính phủ do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm trước Quốc hôi, báo
cáo công tác với Quốc hội, UBTVQH, chủ tịch nước.
Chính quyền địa phương.
Hội đông nhân dân: là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyền làm
chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương.
UBND: Là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương. Chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ
quan hành chính cấp trên.
Tòa án: Là cơ quan xét xử đảm bảo tính pháp chế, công bằng, duy trì
trật tự pháp luật và ổn định xã hội.
Viện kiểm sát: Là cơ quan thực hiện chức năng công tố, kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động cơ quan nhà nước
VẤN ĐỀ 4: HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC
-

HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC VN HIỆN NAY

Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực, là phương thức
chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước.

Hình thức nhà nước gồm 2 yếu tố: Hình thức chính thể và hình thức cấu
trúc.
Hình thức chính thể nhà nước CHXHCN VN:
Hình thức chính thể là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực tối cao,
cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như
mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này.
Chính thể nhà nước CHXHCN VN, thông qua nguyên tắc bầu cử bình
đẳng, phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín nhân dân đã bỏ phiếu bầu ra
cơ quan đại diện của mình (Quốc hội, HĐND các cấp).
Quyền lực nhà nước tối cao thuộc về Quốc hội. Quốc hội được bầu theo
nhiệm kỳ 5 năm, có quyền lập pháp, quyền giám sát tối cao đối với hoạt


động của các cơ quan nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng
của đất nước.Chính thể cộng hòa dân chủ của nhà nước CHXHCN VN
có nhiều đặc điểm riêng khác với cộng hòa dân chủ tư sản.
Chính thể CHXHCN VN qua Hiến pháp khẳng định việc tổ chức quyền
lực nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị có vai trò lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, định
hướng cho sự phát triển của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực trong
từng thời kỳ. Đảng vạch ra phương hướng và nguyên tắc nhằm xây
dựng nhà nước Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân. Đảng phát
hiện bồi dưỡng đảng viên ưu tú và người ngoài đảng, giới thiệu giữ
chức vụ quan trọng trong cơ quan nhà nước thông qua bầu cử, bổ
nhiệm. Đảng kiểm tra tổ chức của đảng trong tổ chức và thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết Đảng. Đảng kiểm tra cơ
quan nhà nước phát hiện sai lầm, hạn chế từ đó có biện pháp khắc
phục, tổng kết, rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung đường lối của
mình.

Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền
XHCN nhưng có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan.
Theo nguyên tắc này quyền lực nhà nước tập trung trong tay Quốc Hộicơ quan duy nhất do nhân dân cả nước bầu ra nhưng có sự phân công,
phối hợp giữa Quốc hội và những cơ quan nhà nước khác trong thực
hiện quyền lực nhà nước tạo thành cơ chế đồng bộ góp phần thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất, trong phạm vi quyền hạn của mình thực hiện tốt
chức năng lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ,
phù hợp. Chính phủ là cơ quan quản lý mọi mặt của đời sống xã hội.
Tòa án tuân theo pháp luật, phụ thuộc vào pháp luật để thực hiện chức
năng xét xử. Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp.
Chính thể nhà nước CHXHCN VN được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện ở sự thống nhất giữa
chế độ tập trung lợi ích nhà nước với sự trực thuộc, phục tùng của cơ
quan nhà nước cấp dưới trước cơ quan nhà nước cấp trên, chế độ dân
chủ tạo điều kiện cho sự sáng tạo, chủ động trong giải quyết công việc
thuộc thẩm quyền của mình.


Nội dung: Các cơ quan nhà nước được thành lập bằng con đường bầu
cử, bổ nhiệm. Làm việc theo chế độ tập thể, cá nhân chịu trách nhiệm
với phần việc được giao theo chế độ thủ trưởng. Trong phạm vi quyền
hạn của mình cơ quan nhà nước được chủ động và phát huy sáng tạo
trong giải quyêt mọi công việc, cơ quan nhà nước cấp trên không được
can thiệp.
Chính thể CHXHCN VN mang bản chât giai cấp công nhân, mục tiêu
xây dựng CNXH.
Trong chính thể nhà nước CHXHCN VN, Mặt trận tổ quốc và các tổ

chức xã hội có vai trò quan trọng.
Mặt trận tổ quốc đóng vai trò quan trọng trong thiết lập cơ quan nhà
nước, quản lý nhà nước, xây dựng pháp luật. Trong phạm vi quyền hạn
của mình có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ
chức theo quy định của pháp luật, có quyền đề nghị bãi miễn đại biểu
không xứng đáng và tham gia vào tổ chức thực hiện quyền bãi miễn đó.
Các tổ chức xã hội là phương tiện để nhân dân tham gia quản lý nhà
nước, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tạo ra sức mạnh tổng
hợp để xây dựng cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc, nhà nước của dân ,
do dân và vì dân.
Hình thức cấu trúc nhà nước:
Nhà nước CHXHCN VN là nhà nước đơn nhất, có độc lập, chủ quyền,
có một hệ thống pháp luật thống nhất, có hiệu lực trên phạm vi toàn
quốc.
Nhà nước Việt Nam có lãnh thổ thống nhất, không phân chia thành các
tiểu bang hoặc cộng hòa tự trị mà chia thành các đơn vị hành chính trực
thuộc. Tương ứng mỗi đơn vị hành chính là cơ quan hành chính nhà
nước. Các đơn vị hành chính không có chủ quyền quốc gia và đặc điểm
như nhà nước.
Nhà nước Việt Nam là tổ chức duy nhất trong hệ thống chính trị có chủ
quyền quốc gia, là chủ thể quan hệ quốc tế toàn quyền đối nội, đối
ngoại, quyết định mọi vấn đề của đất nước.
Một hệ thống pháp luật thống nhất với một Hiến pháp, hiệu lực Hiến
pháp và pháp luật trải rộng trên phạm vi toàn quốc. Các cơ quan nhà
nước trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình có quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp,
pháp luật, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.


Nhà nước Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc trên lãnh

thổ Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, giữ
gìn và phát huy phong tục, tập quán của dân tộc.
VẤN ĐỀ 8: BẢN CHẤT, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
-

BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY:

Bản chất, đặc điểm cơ bản của pháp luật Việt Nam:
- Bản chất của pháp luật XHCN thể hiện trong tính giai cấp, những thuộc
tính, giá trị xã hội, các chức năng của pháp luật nói chung, cũng như
trong mối liên hệ pháp luật với kinh tế, chính trị, nhà nước và các quy
phạm xã hội khác.
- Bản chất pháp luật XHCN với tính cách là kiểu pháp luật kiểu mới còn
được thể hiện trong các đặc điểm sau:
Pháp luật XHCN mang tính nhân dân sâu sắc.
- Nội dung của nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nông dân,
tầng lớp trí thức và những người lao động khác chiếm tuyệt đại đa số
trong bộ phận dân cư trong xã hội. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với
kiểu pháp luật bóc lột- kiểu pháp luật chỉ phản ánh ý chí của giai cấp
thống trị chiếm thiểu số dân cư.
- Pháp luật XHCN đưa người dân lao động từ thân phận tôi đòi, làm
thuê, lệ thuộc trong xã hội cũ trở thành những chủ nhân chân chính của
xã hội mới, ghi nhận chủ quyền nhân dân, quy định một cách rộng rãi
các quyền tự do dân chủ cho công dân, tạo ra sự đảm bảo cho sự thực
hiện quyền đó.
Pháp luật XHCN khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền
tảng, khuyến khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào
trong nước.

Pháp luật XHCN tuy mang tính cưỡng chế nhưng tính cưỡng chế
đó đã chứa đựng những nội dung mới, khác với các kiểu pháp luật
bóc lột.
- Trong pháp luật XHCN cũng có những quy định bắt buộc, cấm đoán,
dự liệu những biện pháp cưỡng chế song do nội dung của pháp luật
XHCN phù hợp với lợi ích, nhu cầu của đại đa số nhân dân nên nhìn
chung nó được thực hiện một cách tự giác.


- Về căn bản cưỡng chế được đặt ra đối với người vi phạm pháp luật và
nó được tiến hành trong sự kết hợp chặt chẽ với giáo dục, thuyết phục,
trên cơ sở giáo dục thuyết phục.
Pháp luật XHCN có phạm vi điều chỉnh rộng. Không những nó quy
định những vấn đề như tổ chức quyền lực nhà nước, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân... mà còn điều chỉnh cả lĩnh vực trực
tiếp tổ chức, quản lý lao động như: định mức lao động, thống kê,
kiểm tra...
Pháp luật XHCN liên hệ mật thiết với các quy phạm xã hội khác,
đặc biệt là các quy tắc đạo đức, tập quán và các quy phạm của các
tổ chức xã hội.
- Các tư tưởng và các quy tắc đạo đức tiến bộ luôn là cơ sở cho pháp
luật XHCN . Đến lượt mình, pháp luật lại củng cố và truyền bá các giá trị
đạo đức đó. Giữa pháp luật XHCN và các tư tưởng, quy tắc đạo đức có
điều gì mâu thuẫn thì điều đó phải được giải quyết trên cơ sở đạo đức.
- Pháp luật XHCN bảo vệ những tập quán truyền thống tiến bộ. Mặt
khác, nó cũng ngăn cản, hạn chế và loại trừ những tập tục lạc hậu ( như
tảo hôn, đa thê...)
- Pháp luật có quan hệ mật thiết với các quy phạm của các tổ chức xã
hội nhất là Nghị quyết, điều lệ của Đảng cộng sản. Đường lối chính sách
của Đảng là một trong những cơ sở của pháp luật. Mặt khác, pháp luật

cũng là một trong những cơ sở để Đảng hoạch định đường lối, chính
sách (Điều 4 Hiến pháp 1992).
Pháp luật XHCN là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân, tầng lớp trí thức và những người lao động khác, được
quy định bởi cơ sở kinh tế của CNXH trong thời kỳ mới, là yếu tố điều
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm mục đích xây dựng một xã hội dân chủ
và phồn vinh.
VẤN ĐỀ 9: HÌNH THỨC VÀ NGUỒN CỦA VĂN BẢN PHÁP LUẬT
-

NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY:

1. Một số nguồn nội dung của pháp luật Việt Nam
Đường lối, chính sách của Đảng
Đường lối, chính sách của Đảng được coi là nguồn nội dung của pháp
luật bởi vì chúng định ra mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế – xã


hội của đất nước trong một giai đoạn nhất định cũng như những
phương pháp, cách thức cơ bản để thực hiện những mục tiêu, phương
hướng này. Và những mục tiêu, phương hướng, phương pháp và cách
thức đó sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và tổ chức thực
hiện trong thực tế. Nội dung các quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật (VBQPPL), từ Hiến pháp, luật cho đến các văn bản dưới luật
đều phải phù hợp, không được trái với đường lối, chính sách của Đảng.
Về mặt lý luận, đường lối, chính sách của Đảng chỉ có thể là nguồn nội
dung mà không thể là nguồn hình thức của pháp luật; song, trong thực
tế có lúc nó cũng được coi là nguồn hình thức của pháp luật như việc áp
dụng thẳng Nghị quyết 10 và Chỉ thị 100 của Đảng về khoán sản phẩm

trong nông nghiệp ở một số địa phương trước đây. Nói chung, việc áp
dụng thẳng đường lối, chính sách của Đảng vào các lĩnh vực của xã hội
là một hạn chế cần khắc phục, vì về mặt nguyên tắc, đường lối, chính
sách của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện
nghiêm chỉnh đối với các đảng viên và các tổ chức đảng. Và dĩ nhiên,
đường lối, chính sách đó chỉ có thể có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và
thực hiện đối với toàn xã hội khi nó được Nhà nước thể chế hoá thành
pháp luật.
Nhu cầu quản lý kinh tế – xã hội của đất nước
Đây cũng là một trong những nguồn nội dung quan trọng của pháp luật,
một trong những cơ sở để xây dựng, ban hành pháp luật. Để tổ chức,
quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật cụ thể nhằm xây
dựng đồng bộ các loại thị trường (thị trường lao động, thị trường hàng
hoá, thị trường bất động sản, thị trường tài chính…); cụ thể hoá các
chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập…; sắp xếp,
cơ cấu lại các ngành kinh tế, điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo chiều
hướng mà Nhà nước mong muốn, chiều hướng vừa thúc đẩy sự tăng
trưởng, vừa bảo đảm sự cân đối và ổn định của nền kinh tế – xã hội.
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý
Các tư tưởng, học thuyết pháp lý cũng có thể trở thành nguồn nội dung
của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 2 của Hiến pháp hiện hành của
nước ta thì, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.


Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp”.
Quy định này của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sự kế thừa tư
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; tư tưởng chủ quyền nhân dân; tư tưởng nhà nước pháp
quyền và tiếp nhận các yếu tố hợp lý của học thuyết phân chia quyền
lực nhà nước.
2. Các loại nguồn hỗn hợp
Bên cạnh các nguồn nội dung kể trên, còn có các nguồn vừa là nguồn
nội dung, vừa là nguồn hình thức của pháp luật. Đó là các nguồn cơ bản
sau:
Các nguyên tắc chung của pháp luật
Đây là những nguyên lý, những tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ
quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong thực tế. Có những
nguyên tắc chỉ là nguồn nội dung của pháp luật. Chẳng hạn, theo Điều 8
của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì, “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự …”. Quy định này xuất phát
từ một nguyên tắc chung của pháp luật là không ai bị coi là có tội nếu tội
đó không được quy định trong luật hình. Hoặc quy định của Điều 130
của Hiến pháp năm 1992 rằng, “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” là xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm tính
độc lập của toà án.
Song, có những nguyên tắc vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình
thức của pháp luật. Ví dụ, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc này được coi là nguồn nội dung của pháp luật vì các quy
định của pháp luật trong nhiều lĩnh vực được ban hành ra nhằm thực
hiện các chính sách xã hội của Nhà nước phục vụ cho sự phát triển tự
do, toàn diện của mỗi cá nhân, bảo đảm công bằng xã hội, xoá đói,
giảm nghèo… Với tư cách là nguồn hình thức của pháp luật, nguyên tắc
này đòi hỏi khi xác định mức bồi thường thiệt hại xảy ra trong thực tế
phải tuỳ từng trường hợp cụ thể của nạn nhân và của người gây thiệt

hại, có trường hợp chỉ yêu cầu bồi thường những thiệt hại trực tiếp;
song, có trường hợp lại phải yêu cầu bồi thường cả những thiệt hại trực
tiếp lẫn những thiệt hại gián tiếp.
Văn bản quy phạm pháp luật


Đây là loại nguồn hình thức chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của
pháp luật, bởi lẽ, các cơ quan nhà nước ở Việt Nam khi giải quyết các
vụ việc pháp lý thực tế thuộc thẩm quyền của mình đều chủ yếu dựa
vào các VBQPPL. VBQPPL là văn bản do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc
xử sự chung được Nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
VBQPPL ở nước ta bao gồm nhiều loại với giá trị pháp lý cao, thấp khác
nhau. Đứng đầu thang bậc giá trị pháp lý trong hệ thống VBQPPL là
Hiến pháp, đạo luật gốc, luật cơ bản của Nhà nước. Tiếp đó là các đạo
luật và các nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội,…
VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động xây dựng pháp
luật, thể hiện trí tuệ của tập thể nên tính khoa học tương đối cao. Các
quy định của nó được trình bày thành văn nên thường rõ ràng, cụ thể,
bảo đảm có thể được hiểu và được thực hiện thống nhất ở phạm vi
rộng; nhờ vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc đáp ứng các yêu cầu
cơ bản của nguyên tắc pháp chế. Hơn nữa, VBQPPL cũng có thể đáp
ứng được kịp thời các yêu của cuộc sống nên nó được coi là loại nguồn
hình thức cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật nước ta
hiện nay. Tuy nhiên, VBQPPL không phải là loại nguồn hình thức duy
nhất của pháp luật bởi VBQPPL vẫn có những điểm hạn chế nhất định
cần được khắc phục như: các quy định của nó thường mang tính khái
quát cao nên nhiều khi không dự kiến được hết các tình huống, điều

kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống để điều chỉnh, vì thế có
thể dẫn đến tình trạng thiếu pháp luật hoặc tạo ra những lỗ hổng,
khoảng trống trong pháp luật. VBQPPL có tính ổn định tương đối cao
nên nhiều khi kém linh hoạt hơn các nguồn khác. Quy trình xây dựng và
ban hành VBQPPL cũng lâu dài và tốn kém hơn một số nguồn khác.
VBQPPL không chỉ là nguồn hình thức mà còn có thể là nguồn nội dung
của pháp luật, bởi, nếu xét về nội dung thì các quy định trong các văn
bản có giá trị pháp lý cao hơn lại có thể trở thành nguồn nội dung cho
các văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn. Chẳng hạn, các quy định của
Hiến pháp là nguồn nội dung của tất cả các VBQPPL khác vì các quy
định trong các văn bản ấy được xây dựng, ban hành dựa trên cơ sở các
quy định của Hiến pháp, trong nhiều trường hợp là sự cụ thể hoá, chi
tiết hoá nhằm thực hiện Hiến pháp trong thực tế… Hoặc một đạo luật
nào đó có thể trở thành nguồn nội dung cho các nghị định hướng dẫn thi
hành nó.


Các điều ước quốc tế
“Theo cách tiếp cận của Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước quốc tế
ký kết giữa các quốc gia và các quy định của luật quốc tế hiện hành thì
điều ước quốc tế được xác định là thoả thuận quốc tế được ký kết bằng
văn bản giữa các quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc
tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả thuận đó được ghi nhận
trong một văn kiện duy nhất hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với
nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi cụ thể của những văn kiện
đó”[4]. Nói chung, các điều ước quốc tế do Việt Nam ký kết, phê chuẩn
hoặc gia nhập thực tế vừa là nguồn nội dung, vừa là nguồn hình thức
của pháp luật nước ta. Nó là nguồn nội dung trong trường hợp các quy
định của nó được chuyển hóa thành các quy định trong các VBQPPL. Ví
dụ, việc chúng ta gia nhập Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt

đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã dẫn đến việc ban hành Luật Bình đẳng
giới trong đó có nhiều nội dung là sự cụ thể hóa các quy định của Công
ước này. Nhiều quy định của các điều ước quốc tế khác đã được
chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là
khi chúng ta đã gia nhập WTO.
Điều ước quốc tế trở thành nguồn hình thức của pháp luật trong trường
hợp nó được áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần vào việc giải
quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế. Việc áp dụng này đã được thừa
nhận trong Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 của nước ta.
Nói chung, trong lĩnh vực luật quốc tế thì điều ước quốc tế là nguồn cơ
bản, chủ yếu và quan trọng nhất. Còn đối với pháp luật quốc gia, vai trò
của điều ước quốc tế ngày càng quan trọng và có vị thế ngày càng cao
hơn, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Điều đó được thể hiện
rõ trong các quy định được nêu trong nhiều VBQPPL hiện hành của
nước ta là: “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam
ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với quy định của văn bản này thì
tuân theo các quy định của điều ước quốc tế đó”.
Phong tục tập quán
Có nhiều quan niệm khác nhau về phong tục tập quán, song dưới góc
độ coi nó là một dạng quy phạm xã hội thì có thể hiểu phong tục tập
quán là những cách ứng xử hay những thói quen ứng xử hoặc những
quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng
đồng dân cư nhất định, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng


sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể bằng cả một
số biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Theo Từ điển Black’s Law thì tập quán (custom) là “thực tế mà bằng sự
thừa nhận chung và lâu dài đối với nó, thói quen không thay đổi đã trở

thành có hiệu lực như pháp luật”[5]. Sau đó, Từ điển này đề cập đến
một số loại tập quán như: tập quán thông thường là một tập quán chỉ
được thực hiện trực tiếp thông qua sự môi giới của các sự thoả thuận
để nó được chấp nhận và được làm theo trong trường hợp cá biệt của
cá nhân như là pháp luật thông thường giữa các bên trong những thoả
thuận này – cũng còn được gọi là phong tục; tập quán chung có hai
nghĩa, một là một tập quán thịnh hành khắp đất nước và tạo nên một
trong các nguồn của pháp luật của đất nước, hai là một tập quán mà
được công nhận và tuân theo trong thương mại; tập quán pháp luật là
tập quán được thực hiện như là một quy định bắt buộc của pháp luật,
không phụ thuộc vào một thoả thuận nào của các chủ thể liên quan đến
nó – thường là sự thu hẹp của tập quán; tập quán địa phương là tập
quán chỉ thịnh hành ở một số địa phương nhất định như là một thành
phố hoặc một tỉnh và tạo thành nguồn của pháp luật chỉ trong địa
phương đó – cũng còn được gọi là tập quán đặc biệt, tập quán riêng
biệt. Từ điển này còn đề cập đến cụm từ tập quán và phong tục (custom
and usage) và giải thích đó là những quy định, những thực tiễn chung
đã được công chúng công nhận thông qua thói quen không thay đổi và
thói quen chung.
Theo quan niệm trên thì tất cả các loại tập quán như tập quán thông
thường, tập quán chung, tập quán pháp luật và tập quán địa phương
đều có thể trở thành nguồn của pháp luật.
Phong tục tập quán vừa có thể là nguồn nội dung, vừa có thể là nguồn
hình thức của pháp luật. Những phong tục tập quán tiến bộ, tốt đẹp, phù
hợp với ý chí của Nhà nước, được Nhà nước thừa nhận sẽ trở thành
nguồn nội dung của pháp luật. Ví dụ, việc Nhà nước thừa nhận phong
tục ăn Tết Nguyên đán, phong tục Giỗ tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3
âm lịch đã dẫn đến quy định cho phép người lao động, cán bộ, công
chức, học sinh, sinh viên… được nghỉ làm việc, học tập trong những
ngày này.

Ngoài ra, trong một số lĩnh vực, các quy tắc và quan niệm đạo đức
chính thống, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng có thể trở thành
nguồn nội dung của pháp luật. Các quy định về quyền, nghĩa vụ của cha
mẹ và con cái, của ông bà và các cháu, của vợ và chồng, của các thành


viên khác trong gia đình với nhau trong pháp luật hôn nhân và gia đình
là sự thể chế hóa các quan niệm đạo đức truyền thống, là sự thừa nhận
các quy tắc đạo đức thịnh hành trong xã hội;…
Ngược lại, có những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu, phản tiến bộ
khiến Nhà nước ban hành VBQPPL nhằm xóa bỏ, loại trừ dần chúng
khỏi đời sống xã hội. Ví dụ, sự tồn tại của phong tục đốt pháo gây lãng
phí tiền bạc, tai nạn thương tâm dẫn đến việc Nhà nước ban hành quy
định cấm sản xuất và đốt pháo để loại trừ phong tục này.
Phong tục tập quán là nguồn hình thức của pháp luật trong những
trường hợp nó được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra
trong thực tế. Việc thừa nhận phong tục tập quán là nguồn hình thức
của pháp luật đã được thể hiện cụ thể trong một số đạo luật của nước
ta. Ví dụ, Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp
pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp
dụng tập quán;… Tập quán… không được trái với những nguyên tắc
quy định trong Bộ luật này”; hoặc theo Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 thì, “trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục,
tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những
nguyên tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy”.
Trong loại nguồn này còn bao gồm cả các tập quán quốc tế đã được
thừa nhận và áp dụng tại Việt Nam như các tập quán thương mại quốc
tế.
Nói chung, phong tục tập quán chỉ được coi là nguồn thứ yếu của pháp
luật Việt Nam bởi các quy định của nó chủ yếu tồn tại dưới dạng bất

thành văn nên thường chỉ được hiểu một cách ước lệ, thiếu rõ ràng, cụ
thể, khó bảo đảm cho việc hiểu và áp dụng thống nhất trong phạm vi
rộng. Song, ưu điểm của phong tục tập quán là hình thành từ thực tiễn
cuộc sống, từ những thói quen ứng xử hàng ngày nên rất gần gũi với
nhân dân và thường được nhân dân tự giác thực hiện. Vì vậy, phong tục
tập quán có thể góp phần bổ sung cho chỗ thiếu của pháp luật, khắc
phục những lỗ hổng của pháp luật nên cần được tiếp tục sử dụng cùng
với các VBQPPL. Điều cần thiết hiện nay là phải có hình thức xác định
cụ thể những tập quán được Nhà nước thừa nhận để bảo đảm cho việc
áp dụng pháp luật được thống nhất và bảo đảm công bằng xã hội.
Trên đây là các loại nguồn đã được chính thức thừa nhận trong pháp
luật và trong thực tế ở nước ta. Ngoài ra, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 còn


nêu “nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ,… và quy tắc của
các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”.
Theo tinh thần của Nghị quyết này, thì trong tương lai, pháp luật Việt
Nam có thể có thêm hai nguồn sau:
Án lệ hay các quyết định, bản án của tòa án
Theo Từ điển Black’s Law thì, án lệ (precedent) có hai nghĩa:
“Một là sự làm luật bởi toà án trong việc nhận thức và áp dụng những
quy định mới trong khi thi hành công lý. Hai là một vụ việc đã được
quyết định mà cung cấp cơ sở để quyết định cho những vụ việc sau liên
quan đến các sự kiện hoặc vấn đề tương tự.
Trong pháp luật, án lệ là một vụ việc đã được xét xử hoặc quyết định
của toà án được xem như sự cung cấp quy định hoặc quyền lực cho
quyết định của một vụ việc giống hoặc tương tự xảy ra về sau, hoặc cho
một vấn đề tương tự của pháp luật, hoặc khi nếu các sự kiện là khác

nhau thì nguyên tắc chi phối vụ việc đầu tiên có thể áp dụng được cho
các sự kiện khác nhau chút ít.
Một án lệ là một quyết định của toà án chứa đựng trong nó một nguyên
tắc. Nguyên lý cơ bản giống như mẫu mà phần có căn cứ đích xác của
nó thường được gọi là nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết trong một
trường hợp cụ thể. Một quyết định cụ thể là bắt buộc đối với các bên,
nhưng nó là bản tóm tắt của nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết
trong một trường hợp cụ thể mà chỉ có nó có hiệu lực pháp luật.
Cũng có thể nói một cách khái quát là, một vụ việc trở thành án lệ vì quy
định chung như vậy là cần thiết đối với quyết định thực tế có thể được
đưa ra là sự biến dạng trong những trường hợp phụ.
Thường cũng có thể chấp nhận, tôn trọng một án lệ không phải bởi nó
bao quát một logic ổn định mà bởi từ các phần của nó có thể nảy sinh ra
ý tưởng về mẫu mới của quyết định”[6].
Từ điển này còn giải thích: án lệ bắt buộc là án lệ mà toà án bắt buộc
phải tuân theo, ví dụ, toà án cấp thấp hơn bị giới hạn bởi một cách áp
dụng của một toà án cấp cao hơn trong một vụ xét xử tương tự. Án lệ
để giải thích là án lệ chỉ có thể được áp dụng cho một quy định pháp
luật hiện đã có rồi. Án lệ gốc là án lệ tạo ra và áp dụng một quy định mới
của pháp luật. Án lệ có sức thuyết phục là một án lệ mà toà án có thể
hoặc là tuân theo hoặc là từ chối, nhưng điều khoản của nó phải được
tôn trọng và cân nhắc cẩn thận.


Từ quan niệm trên, có thể hiểu án lệ là quyết định hoặc lập luận, nguyên
tắc hoặc sự giải thích pháp luật do toà án đưa ra khi giải quyết một vụ
việc cụ thể được nhà nước thừa nhận làm mẫu hoặc làm cơ sở để toà
án dựa vào đó đưa ra quyết định hoặc lập luận để giải quyết vụ việc
khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình tiết tương tự. Án lệ được coi là
nguồn của pháp luật cũng bao gồm nhiều loại như: án lệ bắt buộc, án lệ

để giải thích, án lệ gốc.
Án lệ là loại nguồn rất quan trọng của pháp luật ở các nước thuộc hệ
thống thông luật. Nó có một số ưu điểm sau: đề cập đến các vụ việc đã
xảy ra trong thực tế mà không phải là những giả thuyết có tính lý luận về
những tình huống có thể xảy ra trong tương lai, vì vậy, nó thường phong
phú và đa dạng hơn pháp luật thành văn; góp phần bổ sung cho những
thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật thành văn và khắc phục được
tình trạng thiếu pháp luật; tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được
dễ dàng, thuân lợi hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, án lệ vẫn chưa
được thừa nhận một cách chính thức; song, nếu theo tinh thần của Nghị
quyết số 48 thì trong tương lai gần, án lệ có thể được coi là một trong
các nguồn hình thức của pháp luật nước ta. Vấn đề cần phải nghiên cứu
ở nước ta hiện nay là những bản án loại nào và của toà nào có thể trở
thành án lệ? Chủ thể, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thừa nhận nó ra sao?
Nếu một bản án được thừa nhận là án lệ thì phần nào trong bản án sẽ
bị bắt buộc phải tuân theo hoặc phải tôn trọng? Đây là những câu hỏi
mà các nhà chuyên môn, các nhà hoạt động thực tiễn phải trả lời. Theo
chúng tôi, đó nên là các bản án của Toà án nhân dân tối cao.
Quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp
Loại nguồn dự kiến này mới chỉ được đề cập đến trong Nghị quyết số 48
nói trên mà dường như chưa có tiền lệ ở Việt Nam và cũng chưa được
thừa nhận chính thức về mặt Nhà nước. Chỉ mới có quy định của các tổ
chức chính trị – xã hội là đã được thừa nhận một cách gián tiếp trong
một số văn bản. Ví dụ, Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2003) đã thừa nhận một cách gián tiếp rằng quy
định của các tổ chức chính trị – xã hội cũng có thể được thừa nhận là
một trong các nguồn hình thức của pháp luật thông qua việc thừa nhận
những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ,
người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội cấp xã… cũng là cán bộ, công

chức. Theo đó, những cán bộ, công chức thuộc loại này nếu vi phạm kỷ
luật của các tổ chức đó thì khi xử lý họ, quy định của các tổ chức đó
cũng sẽ được viện dẫn và áp dụng.


Đối với các quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp thì vấn đề cần làm
sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là quy tắc của các hiệp hội nghề
nghiệp nào có thể được thừa nhận là một trong các loại nguồn của pháp
luật? Đó là những quy tắc điều chỉnh những quan hệ xã hội nào, về
những vấn đề gì? Nói chung, đây là vấn đề khá mới mẻ, cần phải được
cân nhắc cẩn thận trước khi quyết định thừa nhận nó là một trong các
loại nguồn của pháp luật nước ta.



×