Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.38 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN : TƯ

TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ
BẢN CHẤT ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

Giảng viên hướng dẫn : Thạc sĩ Nguyễn Thị Phượng
Nhóm thực hiện : Nhóm 16
Nguyễn Hoài Bảo

15145189

Trương Thị Minh Hòa

15145235

Lê Thị Diệu Hiền

15145228

Nguyễn Hoàng Mỹ

15145294



Nguyễn Thị Mỹ Hồng

15145241


Thành phố Hồ Chí Minh , ngày 19 tháng 5 năm 2016


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1 . Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam...........3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH.............5
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH.........7
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BƯỚC ĐI VÀ CÁC BIỆN PHÁP XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Về bước đi................................................................................................9
2. Các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............................10
CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG
III. NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC...............................................12
IV. NHỮNG KHÓ KHĂN , THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH
HIỆN TẠI VÀ CÁC GIẢP PHÁP KHẮC PHỤC
1. Những khó khăn và thách thức................................................................18
2. Các giải pháp khắc phục..........................................................................19
V. CÁC PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CƠ BẢN TRONG THỜI GIAN
TỚI...................................................................................................................20

PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................25

1


PHẦN MỞ ĐẦU

T

ư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam, được

hình thành từ lâu đời trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Hồ Chí Minh đã từng biết đến tư tưởng CNXH sơ khai ở phương Đông,
qua “thuyết đại đồng của” Nho giáo, chế độ công điền ở phương Đông là cơ sở
kinh tế tạo nên sự cố kết cộng đồng bền chặt của người Việt Nam.
Khi ra nước ngoài khảo sát cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy
trong học thuyết Mác về lý tưởng một xã hội nhân đạo, về con đường thực hiện
ước mơ giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ. Đến năm 1923, Nguyễn
Ái Quốc đến Liên-xô, lần đầu tiên biết đến “chính sách kinh tế mới” của Lênin,
được nhìn thấy thành tựu của nhân dân xô-viết trên con đường xây dựng xã hội
mới .
Hồ Chí Minh đã tiếp thu , vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin về sự phát
triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế xã hội .Quan điểm
của Hồ Chí Minh là : Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt
Nam sau khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản .
Mục tiêu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản mà Hồ Chí Minh
đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam là nhà nước được độc lập , nhân dân được
hưởng cuộc sống ấm no , tự do , hạnh phúc , tức là sau khi giành được độc lập

dân tộc , nhân dân ta sẽ xây dựng một xã hội mới , xã hội xã hội chủ nghĩa .

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH ở Việt Nam
-Hồ Chí Minh tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận
dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến giải mới phù hợp với Việt Nam. Người
khẳng định vai trò quyết định của sức sản xuất đối với sự phát triển của xã hội
cũng như đối với sự chuyển biến từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trên cơ sở nền
tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các giá trị đặc thù
mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Bác cũng khẳng định,
trong lịch sử loài người có 5 hình thức quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh “
không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển tuần tự
như vậy”. Bác sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
-Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hoá, đưa văn hoá thâm
nhập vào chính trị, kinh tế tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, kinh
tế và chính trị.
-Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Chủ
nghĩa xã hội là đối lập với chủ nghĩa cá nhân.
-Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc
+Từ đặc điểm lịch sử dân tộc: Nước ta không trải qua thời kỳ chiếm hữu
nô lệ, mang đậm dấu ấn phong kiến phương Đông, mâu thuẫn giai cấp không

gay gắt, quyết liệt, kéo dài, như ở phương Tây, do đó hình thành Quốc gia dân
tộc từ sớm; Ngay từ buổi đầu dựng nước, chúng ta liên tục phải đấu tranh chống
ngoại xâm, hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống; Là nước nông nghiệp,
lấy đất và nước làm nền tảng với chế độ công điền hình thành cộng đồng thêm
3


bền chặt. Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh thần và tư tưởng XHCN ở
Việt Nam: Tinh thần yêu nước, yêu thương đùm bọc trong hoạn nạn đấu tranh,
cố kết cộng đồng Quốc gia dân tộc.
+Từ truyền thống văn hoá lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hoá lấy
nhân nghĩa làm gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý; nền văn hoá mang tính dân
chủ; có tính chất khoan dung; một dân tộc trọng hiền tài; hiếu học...Hồ Chí Minh
quan niệm, chủ nghĩa xã hội là thống nhất với văn hoá, “chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải phóng
con người”.
+Từ tư duy triết học phương Đông: coi trọng hoà đồng, đạo đức nhân
nghĩa. Về phương diện đạo đức, Người cho rằng: chủ nghĩa xã hội đối lập với
chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh nhận thức về chủ nghĩa xã hội là kết quả tác động tổng hợp của các
nhân tố: truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo đức,
văn hoá. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội,
đóng góp vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
-Hồ Chí Minh tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt
Nam và xu hướng phát triển của thời đại
+Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu khách quan là tìm
một ý thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. (Bậc cách mạng tiền bối hoặc là
có ý thức giành độc lập dân tộc lại không có ý thức canh tân đất nước; hoặc là có
ý thức canh tân đất nước lại kém ý thức chống Pháp). Cách mạng Việt Nam đòi

hỏi có một giai cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất mới, có hệ tư
tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành giai cấp tự giác đứng lên làm cách
mạng. Hồ Chí Minh sớm nhìn thấy phong trào yêu nước Việt Nam đang rơi vào
khủng hoảng về đường lối, vì vậy cách mạng chưa đem lại giải phóng dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
4


+Cách mạng tháng mười Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện
thực cho giải phóng dân tộc ở phương Đông: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
và Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu truyền bá tư tưởng CNXH trong dân.
-Hồ Chí Minh đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ
Đặc điểm của định hướng tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ
sở thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học và
tình cảm cách mạng. Tư duy của Hồ Chí Minh là tư duy rộng mở và văn hoá.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của CNXH
2.1 Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về CNXH.
Mác, Ăngghen dự kiến phác thảo về xã hội mới với những đặc trưng cơ bản.
Lênin phát triển quan điểm của Mác và nêu hai giai đoạn phát triển của phương
thức sản xuất mới: giai đoạn thấp và giai đoạn cao.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất của CNXH là thống nhất với các nhà
kinh điển. Bằng thực tiễn chỉ đạo xây dựng CNXH ở nước ta, vào thời điểm khác
nhau Bác nêu bản chất của CNXH thông qua các cách định nghĩa khác nhau là:
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội như là một chế độ hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt
khác nhau của đời sống: Làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, mọi
người đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Mục
tiêu là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
- Định nghĩa chủ nghĩa xã hội là một mặt nào đó (kinh tế, chính trị…). Nhiệm vụ
quan trọng nhất là phát triển sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta.

Người viết:… “lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng làm của chung. Ai làm nhiều thì
ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những người
già cả, đau yếu và trẻ em…”.
- Hồ Chí Minh tiếp cận bằng cách xác định mục tiêu của CNXH: không có người
bóc lột người, ai cũng phải lao động, có quyền lao động; thực hiện công bằng,
bình đẳng… “là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng tự do”, “là đoàn kết,
vui khoẻ”…

5


- Hồ Chí Minh tiếp cận với CNXH bằng cách xác định động lực xây dựng nó là
phải gắn với phát triển khoa học kỹ thuật “nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hoá của nhân dân”. do quần chúng nhân dân tự xây dựng nên dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
2.2 Bản chất và đặc trưng tổng quát của CNXH
* Bản chất của CNXH được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin
luận giải qua một một số đặc trưng cơ bản sau:
+Xoá bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở
hữu công cộng để giải phóng cho sức sản xuất xã hội phát triển.
+Có một nền đại công nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ
hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn
CNTB.
+Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xoá bỏ sản xuất hàng hoá trao
đổi tiền tệ.
+Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hịên sự công bằng
và bình đẳng về lao động và hưởng thụ.
+Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành
thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần
nhất về giai cấp.

+Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ
tư tưởng văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người tận lực phát triển
mọi khả năng sẵn có của mình.
+Sau khi đã đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì
chức năng chính trị của nhà nước sẽ dần dần tiêu vong.
6


* Tiếp thu sáng tạo tư tưởng của các bậc thầy của giai câp vô sản thế giới, HCM
trong những thời điểm khác nhau, đã nêu lên quan niệm của mình về đặc trung
bản chất của CNXH:
+CNXH là một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải huy
động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng
CNXH.
+CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong
phú, được tạo điều kiện để phát triển hết khả năng của mình.
+CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý.
+CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây
dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH
3.1 Mục tiêu cơ bản
+Mục tiêu chung,đó là độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
“Tôi chỉ có một ham muốn…”. Chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Hoặc
“không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Đây là mục tiêu cao nhất của
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí
Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các chế độ đã tồn

tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải phóng con người một cách toàn diện.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là lâu dài, Hồ Chí Minh cho rằng: “chúng ta
phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân
tộc ta….”, Đề cập đến các mục tiêu cụ thể:
7


+Mục tiêu chính trị:là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là
của dân, do dân và vì dân.
+Mục tiêu kinh tế:Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp
hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống.
Kết hợp các lợi ích.
+Mục tiêu văn hoá- xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, xoá mù chữ, phát
triển nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí…
+Mục tiêu con người: Theo Hồ Chí Minh, CNXH là công trình tập thể của
nhân dân. Do đó, nếu không có con người thì sẽ không có CNXH.
Trước hết, để xây dựng CNXH thì phải có con người XHCN. Đó là con người có
lý tưởng XHCN, đấu tranh cho lý tưởng của CNXH.
Thứ hai, con người XHCN phải luôn gắn tài năng với đạo đức. Người quan
niệm: Có tài mà không có đức là hỏng. Có đức mà không có tài thì không thể
làm việc được.
3.2 Về động lực của CNXH
+Phát huy các nguồn động lực về vật chất và tư tưởng cho việc xây dựng
CNXH: vốn, khoa học công nghệ, con người (năng lực của con người); trong đó
lấy con người làm động lực quan trọng và quyết định. “CNXH chỉ có thể xây
dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu
người” (tr. 495 T-8). Nòng cốt là công – nông – trí thức.
Phát huy động lực con người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân.
Phát huy động lực của cộng đồng là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Phát huy sức mạnh của cá nhân trên cơ
sở kích thích hành động gắn liền với lợi ích vật chất chính đáng của người lao

động; “phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở, việc làm của nhân dân”. “Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Hồ Chí Minh coi trọng động lực về kinh tế, phát triển sản xuất, kinh doanh, giải
phóng mọi năng lực sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích
quốc lợi dân, gắn liền với phát triển kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Tác động
8


cả về chính trị và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động và ý thức làm chủ, Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến văn hoa, khoa học,
giáo dục. Đó là những động lực bên trong, tiềm tàng của sự phát triển. Sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng nhất là trong vấn đề thực hiện công bằng xã hội phải
theo nguyên tắc: “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”. Tránh bình quân,
Bác nêu khẩu hiệu 3 khoán và 1 thưởng. Thưởng phạt công minh. “Khoán là một
điều kiện của chủ nghĩa xã hội…”. Sử dụng vai trò điều chỉnh các nhân tố tinh
thần khác như: văn hoá, đạo đức, pháp luật đối với hoạt động của con người. Đó
là những động lực bên trong quan trọng.
Ngoài ra Hồ Chí Minh còn nêu các động lực bên ngoài như kết hợp với sức
mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả khoa học
kỹ thuật thế giới.
+Nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là chỉ ra yếu tố kìm
hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội. Đó là các lực cản:
Căn bệnh thoái hoá, biến chất của cán bộ;
Chống chủ nghĩa cá nhân; Bác coi đó là kẻ thù hung ác của CNXH.
Chống tham ô lãng phí; Bác coi đó là bạn đồng minh của thực dân phong kiến.
Chống bè phái mất đoàn kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống
lười biếng... Theo Bác các căn bệnh trên sẽ phá hoại đạo đức cách mạng, làm suy
giảm uy tín và ngăn trở sự nghiệp cách mạng của Đảng, Bác gọi đó là giặc nội
xâm.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BƯỚC ĐI VÀ CÁC BIỆN PHÁP XÂY

DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Về bước đi
Hồ Chí Minh nêu 2 nguyên tắc có tính phương pháp luận:
-Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính quốc tế, cần nắm vững nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ mới. Phải học tập kinh
nghiệm của các nước anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có đặc
điểm riêng của ta. “Ta không thể giống Liên-xô,...”
9


“Tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn
giống nhau”.
-Xác định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc điểm dân tộc,
nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
-Phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh,... chớ
ham làm mau, ham rầm rộ... Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”.
Bác sớm ngăn ngừa xu hướng chủ quan, nóng vội. “Chớ thấy Liên Xô, Trung
Quốc đã có nông trường quốc doanh, tổ chức hợp tác xã thì ta cũng vội tổ chức
ngay hợp tác xã”.
Bước đi nông nghiệp: từ cải cách ruộng đất sau tiến lên tổ đổi công cho tốt cho
khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng,...
Về bước đi công nghiệp, “...Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến
tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”, “làm
trái với Liên-xô cũng là mác-xít”.
2. Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành:
Người nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn
phải tìm tòi cách riêng cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. “Muốn đỡ bớt
mò mẫm, đỡ phạm sai lầm thì phải học kinh nghiệm của các nước anh em”
nhưng “áp dụng kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo”, “ta không thể giống Liênxô vì Liên-xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử khác…”. Ví dụ: miền Bắc
phải kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam;

miền Bắc “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây
dựng CNXH”; “CNXH là của dân, do dân và vì dân”. Quan hệ giữa công nghiệp
và nông nghiệp “Là 2 bộ phận chính, 2 ngành cơ bản của nền kinh tế, có quan hệ
khăng khít, không thể thiếu bộ phận nào, phát triển vững chắc cả hai”.
Phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội là “làm cho người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm”, như vậy chủ nghĩa xã hội
không đồng nhất với đói nghèo, không bình quân, mà từng bước tiến lên cuộc
sống sung túc, dồi dào.
10


Cách làm, là đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân. Chính phủ chỉ giúp đỡ kế
hoạch, cổ động. Chủ nghĩa xã hội là do dân và vì dân. Người đề ra 4 chính sách:
Công - tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, công-nông giúp nhau, lưu thông trong ngoài.
Chỉ tiêu 1, biện pháp 10, chính sách 20... có như thế mới hoàn thành kế hoạch.
Người đã sử dụng một số cách làm cụ thể sau:
-Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng, xây dựng làm chính.
-Kết hợp xây dựng với bảo vệ, tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược khác
nhau trong phạm vi một quốc gia.
-Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm thực
hiện thắng lợi kế hoạch.
Hồ Chí Minh cho rằng phải huy động hết các nguồn lực vốn có trong dân để làm
lợi cho dân.

11


CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG
I. NHỮNG THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

Từ giữa thế kỷ XIX, đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị,
nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh nô lệ lầm than, “một cổ hai tròng”, bị bọn đế
quốc và phong kiến áp bức, bóc lột. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong
phong trào Cần Vương do các sĩ phu yêu nuớc lãnh đạo đã nổ ra (khởi nghĩa
Hương Sơn của Phan Đình Phùng, khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám
v.v..), nhưng tất cả đều bị đàn áp đẫm máu. Tiếp đến là các phong trào yêu nước,
như phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng, phong trào Duy Tân
của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục
do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo v.v.., đều bị thất bại. Cách mạng
Việt Nam rơi vào bế tắc về đường lối.
Trong bối cảnh đó, với khát vọng và “ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước,
giải phóng dân tộc. Trên hành trình qua khắp năm châu, bốn biển, Người đã có
điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng về các cuộc cách mạng tư sản Âu - Mỹ và các thể
chế chính trị - xã hội đương thời. Người rút ra kết luận, các cuộc cách mạng tư
sản là các cuộc ''cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”1, “nó chỉ mang
lại quyền lợi cho một số ít người”. Theo quan điểm của Người: "Chúng ta đã hy
sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong
lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Bằng trí tuệ thiên tài, phẩm chất, nhân cách và năng lực hoạt động thực tiễn của
mình, từ chủ nghĩa yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến với chủ nghĩa
12



Mác-Lênin. Khi đọc bản Sơ thảo luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lênin, Người đã vui mừng đến phát khóc lên, ngồi trong phòng mà Người
nói to như truớc đồng bào đang đau khổ: Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta. Từ sự phân tích, nhìn nhận một cách khách
quan, khoa học, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa
Lênin”. Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lựa chọn đưa cách mạng Việt Nam đi
theo con đường của cách mạng tháng Mười, theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Đây
là bước chuyển vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, bởi nó chấm
dứt sự khủng hoảng về đuờng lối, mở ra hướng đi mới cho lịch sử dân tộc.
Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời xuất phát từ
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử thực tiễn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây
dựng sáng tạo học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước
của Việt Nam. Trong đó, vấn đề cơ bản nhất, xuyên suốt nhất là: “Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội''. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, khách
quan, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng khát vọng thiêng liêng
của toàn thể nhân dân Việt Nam, giải quyết triệt để những mâu thuẫn nội tại của
cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng
lợi hoàn toàn”. Bởi chỉ có gắn bó mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,
đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại thì mới huy động được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để giành độc lập, tự do cho
Tổ quốc và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, mới
đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân (trong quan niệm của Người khi nước

13



giành được độc lập nhưng nhân dân còn chưa được tự do, hạnh phúc thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đã được chính thức
khẳng định trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930 của Đảng ta: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Tư tưởng của
Người đã đặt nền móng cho việc hình thành đường lối, tạo nên thắng lợi vĩ đại
của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng,
nhất tề đứng dậy, tiến hành thắng lợi Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám
(1945), phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân, phong kiến lập ra Nhà nước Dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
nước ta - kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được khẳng định bởi tính ưu việt
của một chế độ xã hội tốt đẹp, với mục tiêu cao cả đó là giải phóng xã hội, giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, tạo điều kiện để phát triển toàn diện
con người. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh lịch sử Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là vấn
đề rất mới, nhất là trong điều kiện nước ta kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên chống phá, xuyên tạc, cho
nên nhiều người còn nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về tính hiện
thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội không phải là những gì cao
siêu, huyền bí. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội hết
sức cụ thể, giản dị, dễ hiểu: ''Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu, nước
mạnh”, “mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của
nhân dân”, “chủ nghĩa xã hội là mọi người cùng ra sức lao động sản xuất để
được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Nguời khẳng định xã hội xã hội chủ

nghĩa là “một thế giới không có người bóc lột người, mọi người sung sướng,vẻ
14


vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài người”. Đối với điều kiện,
đặc điểm của Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp,
chưa kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, thì mục tiêu ban đầu của
chủ nghĩa xã hội phải đặt ra một cách thiết thực: “Làm cho người nghèo thì đủ
ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết
chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã
hội xã hội chủ nghĩa luôn là sự thống nhất biện chứng của các yếu tố kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội. Người nói: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội''. Cụ thể hơn, Bác cho rằng
chủ nghĩa xã hội phải “có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và
khoa học tiên tiến”. Còn về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm
chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành
và lực lượng đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều là công
bộc của dân.
Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội không hoàn toàn bằng phẳng, mà có vô vàn khó khăn, phức tạp cần
phải vượt qua. Người nhận định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài''15, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ
thất bại”16 bởi “biến đổi một xã hội cũ thành một xã hội mới, không phải là một
chuyện dễ'', “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng, lạc
hậu còn khó khăn hơn nhiều”. Người lưu ý, tuy chủ nghĩa xã hội có mục tiêu,
nguyên lý chung, nhưng cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch
sử cụ thể của mỗi nước khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người viết:
“Tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước đi
thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi
tiến lên chủ nghĩa xã hội''. Theo Người, thời kỳ quá độ ở Việt Nam sẽ phải trải

qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh'', nhưng: “chớ ham
làm mau, ham rầm rộ. Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới
dần dần". Người căn dặn, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống
15


giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài. Người nói: “Ta không thể giống
Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác...Ta có
thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội".
Nghiên cứu về những điều kiện đảm bảo cách mạng thành công, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, điều quan trọng nhất, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, truớc hết phải có Đảng. Cách mạng có Đảng lãnh đạo như tầu có
lái mới vượt qua được phong ba bão táp; phải xây dựng và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng, của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng phải lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản
lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn
nước ta; phải thường xuyên xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức chính trị, tư
tưởng và đạo đức; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ gìn đoàn kết
thống nhất trong Đảng "như giữ gìn con ngươi của mắt mình”; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên phải “xứng đáng là nguời lãnh đạo,
là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”21.
Cùng với xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú trọng xây
dựng, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo
cho thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bác
nói: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có
Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”. Xây dựng nhà nước, theo Bác thì
điều quan trọng hàng đầu là nhà nước đó phải là nhà nước của nhân dân, chăm lo

lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân. Cơ sở xã hội của nhà nước là khối đoàn
kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công, nông, trí do Đảng lãnh đạo. Đồng
thời, phải xây dựng được bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả; phải nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách trên các lĩnh vực. Theo Bác, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự
16


nghiệp của toàn dân, do đó cần phát huy tính tích cực, chủ động của toàn dân,
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong
công cuộc xây dựng đất nuớc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa". Con người là yếu tố quyết định. Do đó, Bác đặc
biệt quan tâm tới việc tuyên truyền, vận động, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con
người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bác đòi hỏi phải giáo dục, đào tạo con người một
cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ; đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo đức, vì
“sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang'', “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...khi gặp thuận lợi và thành công vẫn khiêm tốn, lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công
thần, không quan liêu, không hủ hóa”. Theo Bác, đạo đức cách mạng, nói một
cách tóm tắt, “là tuyệt đối trung thành với đảng, với nhân dân. Đặt lợi ích của
Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân
mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên
mình, gương mẫu trong mọi việc”, là "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Để trở thành con người xã hội chủ nghĩa, theo Bác, mỗi người phải “học tập, học
tập nữa, học tập nữa. Học chính trị, thời sự, kỹ thuật”, “muốn rèn luyện đạo đức

cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ
nữa...không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học tập, tu dưỡng, rèn
luyện và tự cải tạo đuợc. Trong mọi hoạt động cách mạng chúng ta đều có thể và
đều phải học tập, tự cải tạo”. Bác đặc biệt nhấn mạnh để rèn luyện đạo đức cách
mạng, để trở thành con người xã hội chủ nghĩa thì phải chống chủ nghĩa cá nhân,
vì do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra nhiều tính xấu, “do chủ nghĩa cá nhân mà
sinh ra công thần, do công thần sinh ra kiêu ngạo, kèn cựa, địa vị... cũng do chủ
17


nghĩa cá nhân mà lo lắng tiền đồ bản thân, chỉ biết vun vén cho bản thân mình”;
“vì chưa gột sạch chủ nghĩa cá nhân cho nên có đảng viên còn kể công với Đảng.
Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, họ đòi
danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thoả mãn yêu cầu của họ thì họ
oán trách Đảng, cho rằng “họ không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ
xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”. Vì vậy, Bác yêu
cầu mọi người, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu, lý
tưởng chủ nghĩa xã hội, con đuờng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lựa chọn, lãnh đạo nhân dân ta giành đuợc những thắng lợi hết sức to
lớn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt
trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
II. NHỮNG KHÓ KHĂN , THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH
HIỆN TẠI VÀ CÁC GIẢP PHÁP KHẮC PHỤC
1. Những khó khăn và thách thức
Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa
bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp
lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo...vẫn diễn ra ở nhiều nơi.

Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát
triển, nhưng cạnh tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng
lượng, nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế
diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát trển trước
những thách thức gay gắt.
Ở trong nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong sự nghiệp đổi
mới làm tăng thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng đang đứng
trước những khó khăn, thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
18


của nền kinh tế thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Các cân đối kinh tế lớn,
ổn định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có những
mặt yếu kém như giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, quản lý các hoạt động văn hóa, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an toàn giao
thông; tệ tham nhũng, lãng phí chậm được khắc phục, gây bức xúc trong nhân
dân. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta hết sức quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc: tuyên
truyền vu cáo, xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, âm mưu gây
bạo loạn, bất ổn chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị truờng tác động
làm suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên... làm
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
2. Các giải pháp khắc phục
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, nhân dân ta khẳng định kiên định và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, mục tiêu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
lựa chọn và được lịch sử phát triển của dân tộc ta gần một thế kỷ qua chứng
minh rằng: chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho dân tộc ta có
nền độc lập thật sự, đất nước ta phát triển ổn định, phồn vinh, nhân dân ta có

cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường đúng đắn, phù hợp với quy luật
phát triển của thời đại.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn
cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội
của Đảng, là xã hội dân giàu, nuớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con nguời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
19


đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân, do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá
trình cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái
cũ và cái mới để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội; vì vậy, nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều bước
phát triển, không thể đơn giản, chủ quan, nóng vội.
III. CÁC PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CƠ BẢN TRONG THỜI
GIAN TỚI
Để thực hiện thành công mục tiêu xã hội xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát
triển các quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra các phương
hướng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng
buớc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng

cao năng suất lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của
nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành,
các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển
công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi thế so
sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao
tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào dây
chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông - lâm – ngư nghiệp một
cách toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của
nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài
chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập
trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện, nuớc, các công trình
xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Phát
20


triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng bằng, trung du và miền núi, ven
biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu
quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa
đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại
thị trường, định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực

của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh
tế.
Ba là, chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành
nền tảng, giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp
thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hoá hóa
phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, an ninh; xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự
vệ hùng hậu, có sức chiến đấu cao; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an
21


ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được trang bị ngày càng hiện đại; để
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa
bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn
chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch
đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát
triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, nâng cao vị thế của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc
về nhân dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công
bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp,
tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Xây dựng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân
dân trang việc tập hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là
của nhân dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội,
thực hiện các cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nuớc và nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
22


quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
có tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh; có đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế kiểm soát, ngăn ngừa, trừng
trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ
của nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; kiên định chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng; thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích

của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc; có năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu cao, thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường
xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ
hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, có sức chiến đấu cao.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, liên hệ mật thiết với
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Những phương hướng và nhiệm vụ trên là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo của
Đảng ta những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện
nay. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta hiện nay và trong tương lai.

23


×