Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận Cao học Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.56 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay đất nước Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới, hội nhập
kinh tế quốc tế. Vấn đề nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con
người luôn được Đảng nhận thức rõ và khẳng định, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con người, coi đó là nguồn lực nội sinh
quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Kế thừa các Đại hội trước Đại hội X nêu rõ “Xây dựng và hoàn thiện
giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên,
đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn
hóa con người Việt Nam”, và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng
định: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển…v.v, phát huy
mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội,
tạo động lực phát triển đất nước…v.v, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao
đời sống vậy chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã
hội”.
Trong tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trên phạm vi
toàn cầu như hiện nay, vấn đề con người và việc phát huy nhân tố con người
đang là vấn đề thời sự, là vấn đề trung tâm được nhiều nước trên thế giới đã
và đang tích cực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực với nhiều mức độ
khác nhau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về con người nói riêng
mang giá trị to lớn vượt thời đại, giá trị ấy đã được thực tiễn cách mạng đấu


tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước của dân tộc Việt Nam, cũng
như thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hơn 55 năm qua khẳng


định. Vì thế việc làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người,
trong điều kiện đất nước đang trong tiến trình đổi mới hội nhập kinh tế quốc
tế, là việc làm quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi đã quyết định chọn đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
của Việt Nam” để làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung, nhân tố con
người nói riêng cũng như vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Trong những năm qua ở Việt Nam có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu như:
- Hồ Kiếm Việt, Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí
Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004.
- Vũ Thị Kim Dung, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Tạp chí
Khoa học Chính trị, số 2, năm 1998.
- Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2001.
- Nguyễn Thế Kiệt, Xây dựng và phát triển con người nâng cao chất
lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
Tạp chí Triết học số 6, năm 2008.


- Nguyễn Xuân Thắng, Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối
với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, năm 2007.
Và nhiều công trình nghiên cứu trên các sách báo tạp chí khác.
Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp cử nhân Triết học, tác

giả kế thừa những thành tựu trên của các nhà nghiên cứu, trên cơ sở đó để hệ
thống hóa thành lý luận phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, và việc
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không đề cập đến toàn bộ nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh, mà chỉ đề cập đến một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh liên
quan đến vấn đề con người trên góc độ triết học, để từ đó vận dụng vào việc
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh
tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng trên lập trường của chủ nghĩa
Mác - Lênin, lấy thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng để
xem xét những vấn đề liên quan đến đề tài.
Kết hợp giữa phương pháp logic và phương pháp lịch sử. Ngoài ra, để
đạt được kết quả nghiên cứu cao, tác giả còn sử dụng các phương pháp khác
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học…v.v.
5. Đóng góp của đề tài.
Đề tài kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu, những tác giả
đi trước, đồng thời khái quát nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn


đề con người và một số nội dung về việc phát huy nhân tố con người trong
sự nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu tham khảo cho các
bạn sinh viên các nghành Triết học, Giáo dục chính trị, Lịch sử, Văn học,
Báo chí …v.v.
6. Bố cục của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm có 2 chương 4 tiết.
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1 Nhận thức của Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
1.1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con
người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người là sản phẩm tất yếu của
cách mạnh Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những
yêu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay,
và cũng là sản phẩm của sự kết hợp giữa những điều kiện lịch sử - xã hội cụ
thể của dân tộc và thời đại với phẩm chất năng lực cá nhân của Hồ Chí
Minh. Sản phẩm đó hình thành dựa trên những cơ sở sau.
1.1.1.1 Cơ sở khách quan.
Về nguồn gốc thực tiễn.
Bối cảnh lịch sử Việt Nam.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Việt Nam vẫn là xã hội phong
kiến, với nền nông nghiệp lạc hậu, chính quyền triều Nguyễn từng bước
khuất phục trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.


Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ
phu văn thân lãnh đạo diễn ra vào cuối thế kỷ XIX cũng hoàn toàn thất bại.
Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Bối cảnh quốc tế.
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn cạnh tranh tự do sang giai đoạn
độc quyền và đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn cầu,
trong quá trình xâm lược và thống trị, chủ nghĩa thực dân tại các nước nhược
tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la tinh đã làm xã hội xuất hiện thêm
các giai cấp, tầng lớp mới, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và
tầng lớp tư sản là nổi trội.

Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thành công, đã lật đổ Nga Hoàng
để thiết lập nên chính quyền Xô Viết, mở ra một thời đại mới trong lịch sử
loài người, góp phần “thức tỉnh các dân tộc châu Á”. Sự ra đời của Quốc tế
Cộng sản (3/1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản phương Tây
và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa càng có quan hệ mật
thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của nhân loại là chủ
nghĩa đế quốc.
Quê hương và gia đình.
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, Người
kế thừa lòng yêu nước thương dân sâu sắc, cần cù lao động và ý chí kiên
cường vượt gian khổ, khó khăn của người cha và tấm lòng nhân ái thương
người và bao dung độ lượng của người mẹ. Người còn được tiếp thu những
tri thức hết sức tiến bộ và bổ ích từ các thầy học của mình. Chính gia đình là
cái nôi hình thành tư tưởng và con người Hồ Chí Minh.
Nghệ Tĩnh, là vùng đất giàu truyền thống yêu nước chống giặc ngoại
xâm, là nơi sinh ra Hồ Chí Minh. Làng Kim Liên làng quê đã hun đúc nên
con người Hồ Chí Minh, cũng đã thấm máu bao anh hung liệt sĩ, cả chị và


anh của Người cũng đều tham gia hoạt động yêu nước. Từ nhỏ Người đã
chứng kiến cuộc sống nghèo khổ bị bót lột, bị đàn áp dã man ngay trên quê
hương của mình. Những năm ở Huế, Người đã tận mắt thấy tội ác của thực
dân và thái độ ươn hèn bạc nhược của Triều đình phong kiến nhà Nguyễn.
Tất cả điều đó đã chuẩn bị cho Người về nhiều mặt và thôi thúc Người
ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
Về giá trị truyền thống dân tộc.
Trong truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân ta đã nhận thức
đúng về nhân tố con người trong sự phát triển của đất nước. Nhìn từ các
triều đại phong kiến đã cho thấy “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Thực
tiễn lịch sử đã cho thấy “Hiền tài + minh quân thì đất nước quốc gia sẽ thịnh

vượng”. Còn lúc nào mà hôn quân + bạo chúa thì đất nước sẽ lụi bại.
Một dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước đã hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức phong phú, đặc
sắc và cao quý mang đậm nét riêng của dân tộc Việt Nam. Những truyền
thống quý báu ấy đã góp phần hun đúc nên con người Hồ Chí Minh.
Về tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng và văn hóa phương Đông.
Về Nho giáo: Nho giáo có nhiều yếu tố tích cực, đã được Hồ Chí Minh
chọn lọc tiếp thu đó là: Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp
đời, lý tưởng về một xã hội bình trị, tức ước vọng về một xã hội an ninh hòa
mục, một “thế giới đại đồng”; là triết lý nhân sinh tu thân dưỡng tính, nó đề
cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Ngoài ra Hồ Chí Minh còn
biết chắc lọc những tinh túy trong các học thuyết, tư tưởng triết học của các
đại biểu, trường phái khác như: Lão Tử, Mạnh Tử, Quản Tử…
Về Phật giáo: Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn
sâu sắc trong tư duy, hành động ứng xử của con người Việt Nam đó là: Tư


tưởng vị tha, từ bi, bác ái cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương
thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông cây cỏ; là nếp sống có đạo đức
trong sạch, giản dị, chăm lo điều thiện; là tinh thần bình đẳng, tinh thần dân
chủ chất phát chống lại mọi phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động,
chống lười biếng; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với
dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc.
Đặc biệt là tư tưởng Vô Ngã, Vô Thường trong triết lý của nhà Phật đã được
Hồ Chí Minh kế thừa tiếp thu có chọn lọc những giá trị tích cực.
Sau khi đã trở thành người mácxít, Người tiếp tục tìm hiểu về chủ nghĩa
Tam Dân của Tôn Trung Sơn (nhà cách mạng tư sản Trung Quốc), Người đã
tìm thấy trong đó những điều thích hợp với điều kiện nước ta, các tiêu chí
của chủ nghĩa Tam Dân là: Dân tộc - độc lập, Dân quyền - tự do, Dân sinh hạnh phúc đã được Hồ chí Minh rút gọn trong khẩu hiệu của Việt Nam đó là

“ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”.
Về tư tưởng văn hóa phương Tây.
Trong 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống
chủ yếu ở châu Âu nên Người cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn
hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người sớm làm quen và tìm hiểu
các cuộc cách mạng ở phương Tây, đặc biệt Người đã tiếp thu các giá trị về
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người trong
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, và tiếp thu giá trị của bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của đại Cách mạng Pháp năm 1789.
Thời gian người sống và hoạt động ở Pari - Thủ đô nước Pháp, đồng thời
cũng là trung tâm văn hóa - nghệ thuật của châu Âu lúc bấy giờ, là quê
hương của lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái Người được tiếp xúc với các
tác phẩm và chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng khai sáng như: Vônte,
Rutxô, Môngtexkiơ….Ngoài ra Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và


hình thành nên phong cách dân chủ của mình từ trong thực tiễn sống và
tham gia hoạt động cách mạng của mình ở châu Âu, cùng với sự dìu dắt trực
tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như; M.Casanh,
P.V.Cutuyariê, G.Môngmutxô… Như vậy Hồ Chí Minh đã từng bước
trưởng thành, làm giàu tri thức của mình bằng vốn trí tuệ của cả phương
Đông và phương Tây, Người tiếp thu có sự chọn lọn để có thể kế thừa và
phát triển một cách sáng tạo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan điểm về con người của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói riêng, giữ vai trò về mặt thế giới quan và phương
pháp luận đối với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con
người.
Từ đây nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhân tố con người
được hình thành, bổ sung và hoàn thiện trên nền tảng cơ sở khách quan như

trên và dựa trên bối cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam, đồng thời còn
kết hợp với nhân tố chủ quan con người Hồ Chí Minh.
1.1.1.2 Nhân tố chủ quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng
với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc tìm hiểu các cuộc cách
mạng tư sản hiện đại, không để bị đánh lừa bởi hào nhoáng bên ngoài. Có sự
khổ công học tập chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh
nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công
nhân quốc tế, tiếp cận và nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin khoa
học về cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế. Có tâm hồn của một nhà yêu
nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng. Có trái tim
yêu nước thương dân, sẵn sàng chịu dựng hi sinh vì độc lập tự do của tổ
quốc, hạnh phúc của đồng bào. Có bản lĩnh luôn kiên định vững vàng, luôn


tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới. Có
phương pháp biện chứng. Có đầu óc thực tiễn.
1.1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
Theo Hồ Chí Minh muốn thành công phải có ba điều kiện: Thiên thời,
địa lợi, nhân hòa trong đó nhân hòa là quan trọng hơn hết. Tầm cao giá trị tư
tưởng của Người là sự giải phóng con người, vì con người. Nhưng không
phải là từ sự ban ơn của kẻ bề trên như «Trời» hoặc những vĩ nhân xuất
chúng ra tay cứu độ, mà phải xuất phát từ lòng tin vào khả năng của con
người, phát huy mọi tiềm năng của con người tự giải phóng cho mình, bởi
«một lẽ rất giản đơn, dễ hiểu: Tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, và
từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả» [29;241].
Với thế giới quan mácxít, tuân thủ quyết định luận duy vật, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ý thức sâu sắc về nhân tố con người.
Trong quy trình cách mạng Việt Nam và đảm bảo cho cách mạng Việt
Nam giành thắng lợi, yếu tố hàng đầu là lực lượng cách mạng, bao gồm đại

đa số quần chúng nhân dân được tổ chức với hạt nhân lãnh đạo là Đảng
Cộng sản. Như vậy nhân tố con người - Nhân dân Việt Nam đóng vai trò
quyết định.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của con người, về sức
mạnh con người được chiết xuất từ tinh túy triết lý của dân tộc Việt Nam
như “lấy dân làm gốc” và thấu triệt luận điểm mácxít về vai trò quyết định
của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Đó là cơ sở để Người khẳng định
sức mạnh giải phóng dân tộc, giai phóng giai cấp, sức mạnh đó trước hết là
đoàn kết. Hồ Chí Minh nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Triết
lý ấy Người tổng kết rằng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công,
thành công, đại thành công!”.


1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người.
1.2.1 Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng
của con người. Người còn thể hiện quan điểm con người là mục tiêu của
cách mạng trong lý luận xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa với mục tiêu là
giải phóng con người, vì một chế độ xã hội dân chủ, công bằng, văn minh
của con người.
Trong khi khẳng định con người là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí
Minh đồng thời cũng nhấn mạnh sự nghiệp cách mạng là do chính bản thân
của con người thực hiện, nghĩa là con người là động lực của cách mạng.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả
nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân.
Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh lấy công - nông - trí làm nền

tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, phải nhìn nhận và đánh
giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới đó là giai cấp công
nhân.
Với Người không phải ai cũng là động lực mà chỉ có những con người
được giác ngộ, được tổ chức, những con người có trí tuệ và bản lĩnh, văn
hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa
hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam...Mới là động lực làm nên thành công
của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh giữa con người - mục tiêu, con người - động lực có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu
tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại,


tăng cường được sức mạnh của con người - động lực thì sẽ nhanh chóng đạt
được con người - mục tiêu.
Đồng thời với việc chăm lo con người - mục tiêu, phát huy con người động lực, thì Người cũng kiên quyết ngăn chặn, khắc phục và triệt tiêu các
phản động lực trong con người, đó là chủ nghĩa cá nhân. Con người chỉ là
động lực, khi động lực ấy gắn liền với mục tiêu, góp phần thực hiện mục
tiêu.
1.2.2 Quần chúng nhân dân là chủ thể của cách mạng.
Trong lý luận chứa đựng tư tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con
người một cách toàn diện nhất, triệt để nhất, và nói lên vị trí và vai trò quan
trọng của con người mà với Hồ Chí Minh đó là vị trí và vai trò quan trọng
của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, quần chúng nhân dân
là chủ thể cách mạng.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi
nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của
quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
Hồ Chí Minh đã kế thừa quyết định luận duy vật mác xít, kết hợp với
nhân tố con người trong triết lý truyền thống dân tộc Việt Nam,đã xem con

người là chủ thể đích thực của lịch sử có nội lực và tiềm năng to lớn, làm
chủ cuộc sống của mình. Với quyết định luận duy vật đó, mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chủ trương “Lấy dân làm gốc”.
Trong các yếu tố quy định tiến trình của cách mạng Việt Nam và đảm
bảo cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, thì yếu tố hàng đầu là lực
lượng cách mạng bao gồm đại đa số quần chúng nhân dân được tổ chức với
hạt nhân lãnh đạo là Đảng cộng sản.
Nhân tố con người và nhân dân Việt Nam đóng vai trò trong quyết định
cách mạng Việt Nam. Nhân dân ta phải vì mình và phát huy sức mạnh của


chính mình làm cuộc cách mạng trường kỳ, thực hiện mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong nhận thức và hành động của Người. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Dân là gốc nước”, nhân dân là chủ thể lịch sử, là người
làm nên lịch sử, Người tin tưởng mãnh liệt vào trí tuệ và sức mạnh vô tận
của nhân dân, lực lượng nhân dân là nhân tố quyết định nhất để thực hiện
mọi công việc của cách mạng, lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn
hết.
1.2.3 Con người là thực thể thống nhất giữa cá nhân và xã hội.
Hồ Chí Minh luôn nhìn nhận con người như một thực thể thống nhất
giữa cá nhân và xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh xem con người trên
bình diện cộng đồng trong đó bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, công
dân, nông dân, trí thức, bao gồm các tổ chức, các đoàn thể, các dân tộc, tôn
giáo đồng bào trong nước và kiều bào nước ngoài...
Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta là sự nghiệp cách mạng của toàn
thể nhân dân, chứ không phải của riêng giai cấp nào, nhưng để cho sự
nghiệp cách mạng được thành công thì phải chú ý quan tâm tới từng bộ
phận, từng cá nhân người.
Để giải phóng đúng đắn mỗi quan hệ giữa cá nhân và xã hội thì cần

phải, chống chủ nghĩa cá nhân. Người xác định “tư tưởng xã hội chủ nghĩa
là chống tư tưởng cá nhân chủ nghĩa” [24;280] tuy nhiên, đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”.
1.2.4 Chiến lược “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm bồi dưỡng đào tạo con người. Tư
tưởng đó còn gọi là “chiến lược trồng người”. Nó là yêu cầu khách quan vừa
có tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài.


Tư tưởng “trồng người” của Hồ Chí Minh thể hiện nét đặc biệt trong
quan điểm về xây dựng con người mới - con người chủ nghĩa xã hội. Theo
Người con người mới xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó với nhau, một là,
kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt nam và
phương Đông), hai là, hình thành những phẩm chất mới như: Có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, có đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ, bản lĩnh để làm chủ
(bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…) có tác phong xã hội chủ nghĩa, có
lòng nhân ái, vị tha độ lượng. Trên quan điểm đó người chủ trương xây dựng
mẫu người cán bộ Đảng viên, là những người cần phải có đầy đủ các đức
sau: Cần, kiệm, liêm, chính, hội đủ 4 đức ấy ắt là có chí công vô tư.
Trồng người là công việc ‘trăm năm” không thể nóng vội “một sớm
một chiều”, không phải một lúc là xong, cũng không phải tuỳ tiện, đến đâu
hay đến đó. Nhận thức và giải quyết những vấn đề này có ý nghĩa thường
trực trong bản thân. Hồ Chí Minh cho rằng “Việc học không bao giờ cùng,
còn sống còn phải học”.
Chương 2
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ HIỆN NAY
2.1 Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập kinh tế
quốc tế.

2.1.1 Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế thời đại.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế là xu thế tất yếu của thời đại ngày
nay, nó hình thành bởi các nguyên nhân như sau:
Nhân tố thứ nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhân tố thứ hai đó là sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc.


Nhân tố thứ ba là sự phát triển của khoa học công nghệ.
Nhân tố thứ tư là sự ra đời và phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
Nhân tố thứ năm là hệ thống kinh tế chủ nghĩa xã hội tan rã, các nước
còn lại là Trung Quốc, Việt Nam, Lào…Đều chủ trương chuyển sang kinh tế
thị trường, chủ trương mở cửa hội nhập kinh tế thế giới.
Nước ta để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa cần thiết phải mở cửa hội nhập kinh tế. “Như thế hội nhập
kinh tế giúp chúng ta tiếp cận gần hơn tới những yêu cầu cơ bản và cốt lõi
của xã hội chủ nghĩa hiện đại thay thế chủ nghĩa tư bản theo qui luật phủ
định của phủ định” [1;315].
Trên phương diện đó mở cửa hội nhập không đối lập với chủ nghĩa xã
hội, không mâu thuẫn với định hướng xã hội chủ nghĩa mà tạo điều kiện
hình thành nền tảng cho chủ nghĩa xã hội. Con đường đó là phù hợp quy luật
khách quan của tiến trình phát triển của lịch sử loài người, và cũng là con
đường hợp theo xu thế thời đại ngày nay.
2.1.2 Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan.
Nhận thức rõ yêu cầu khách quan của nội lực, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chủ động đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối của Đảng
ta về mặt đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong mấy chục năm qua đã
khẳng định nhận thức ấy.
Nhiệm vụ trọng tâm của đất nước lúc này là đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế trí thức nhằm thúc đẩy phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế là để:
Thứ nhất, tạo điều kiện cho nước ta thu hút một cách có hiệu quả nguồn
vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, những tri thức hiện đại và tiến bộ khoa học -


công nghệ, kỹ năng , kinh nghiệm quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước.
Thứ hai, ngày càng mở rộng ra cho nước ta những thị trường mới để
tăng nhanh xuất khẩu, chuẩn xác hóa phạm vi, mục tiêu thay thế nhập khẩu
một cách có hiệu quả.
Thứ ba, giúp chúng ta xác định những đối tác mới cần thu hút, nhằm
thực hiện tốt hơn chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa, chống lại sự cửa
quyền trong quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Hiện nay tiềm năng của nền kinh tế nước ta còn rất lớn, phong phú và
đa dạng, gồm nhiều lĩnh vực, trải rộng khắp các vùng lãnh thổ. Nhưng để
khai thác có hiệu quả những tiềm năng đó, trong nhiều trường hợp cần sự tác
động tích cực của các nguồn lực từ bên ngoài, cần có sự kết hợp giữa nội lực
với tranh thủ ngoại lực nhằm tạo thành sức mạnh tổng hợp để tiến mạnh mẽ
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức tạo điều
kiện thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập kinh tế quốc ở nước ta còn bắt nguồn từ yêu cầu của nền kinh
tế nước ta, xuất phát từ nhu cầu nội lực của đất nước.
Thứ nhất, Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là để phát triển đất
nước, hội nhập là động lực chủ yếu đối với sự phát triển, góp phần tăng
trưởng kinh tế cao và phát triển bền vững.
Thứ hai, tham gia chủ động vào tiến trình Toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế là con đường phát triển nền kinh tế thị trường hiện tại. Chỉ có đẩy
mạnh hội nhập kinh tế, phát triển kinh tế thị trường phù hợp với chuẩn mực
quốc tế thì mới có thêm cơ hội để giữ vững độc lập, an ninh.
2.1.3 Hội nhập kinh tế quốc tế gắn với chiến lược kinh tế - xã hội,

để đảm bảo an ninh quốc gia và sự phát triển bền vững của đất nước.


Dưới tác động của Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thế giới
ngày nay trở thành một thế giới “thống nhất trong đa dạng”, các nền văn hóa
giao thoa và cho những giá trị phổ biến, giúp cho thế giới không chỉ tăng
trưởng, phát triển kinh tế mà còn ngày càng hướng tới sự phát triển toàn diện
của con người. Đây cũng chính là tiền đề cho sự phát triển bền vững mà mọi
nước cần tính đến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của họ.
Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội còn xuất phát từ những lý do sau:
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động đến phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam theo các hướng: Nước ta có điều kiện thuận lợi trong
thúc đẩy phân công lại lao động xã hội nhằm phát triển kinh tế thị trường,
đẩy nhanh quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước; Làm cho yếu tố thị trường dần
dần được hình thành, phát triển ngày càng đầy đủ và đồng bộ hơn.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy cạnh tranh trên nguyên tắc
bình đẳng, không phân biệt đối xử, do đó làm cho nguồn lực được phân bổ
một cách hợp lý và hiệu quả trên thị trường trong nước và quốc tế.
Dưới tác động chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện có sự
thúc đẩy mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ và sự phát triển của
kinh tế tri thức, đòi hỏi nước ta, dân tộc ta phải phát huy tinh thần tự lực, tự
cường và tự tôn dân tộc để vươn lên bằng sức mạnh của mình, sớm thích
ứng với một giai đoạn phát triển cao của kinh tế thị trường trong điều kiện
thời đại mới; hội nhập kinh tế quốc tế tác động trực tiếp và gián tiếp làm
thay đổi vai trò nhà nước, làm cho nhà nước được thực sự trong sạch và trở
nên năng động hơn, bởi vì chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nhà
nước phải thực hiện những cải cách thể chế kinh tế theo hướng minh bạch,
xóa bỏ độc quyền, bao cấp và sự phân biệt đối xử…Tạo điều kiện thuận lợi



thúc đẩy nước ta thực hiện nhanh, mạnh quá trình dân chủ hóa, nâng cao vai
trò của nhân dân và của cá nhân. Đây là điều kiện cơ bản để hình thành thiết
chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân nhằm
đảm bảo quyền tự do các nhân trong cộng đồng và sự bình đẳng xã hội; tác
động lớn trong việc giúp chúng ta nghiên cứu, chuẩn bị lực lượng, nắm bắt
thời cơ, khai thác những tác động tích cực của toàn cầu hóa, phòng tránh
nguy cơ và những tác động tiêu cực nhằm giữ vững sự ổn định chính trị, xã
hội, bản sắc văn hóa dân tộc và sự bền vững về môi trường.
2.2 Thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi
mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.2.1 Vai trò của phát huy nhân tố con người trong hội nhập kinh tế
quốc tế.
Công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta luôn đặt trong
mối quan hệ với việc giải quyết con người. Tính chất và hiệu quả của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế phụ thuộc vào tính chất và hiệu
quả của việc giải quyết vấn đề con người, phát triển con người và nguồn
nhân lực, giải quyết các vấn đề xã hội.
Vai trò nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội nước ta hiện nay thể hiện như sau:
Thứ nhất, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo,
là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực là nguồn
lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng
cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững.



Thứ tư, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế.
2.2.2 Thực trạng việc phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện
nay.
Trước đổi mới, với lối suy nghĩ chủ quan, phiến diện, chúng ta đã coi
nhẹ vai trò con người và khi nói đến con người, chúng ta chỉ nhấn mạnh về
mặt dân số, nguồn lao động, thành phần giai cấp...Mà chưa chú ý đầy đủ đến
cá nhân, nhân cách con người. Với những quan niệm như vậy, trong hoạt
động sản xuất, chúng ta chỉ quan tâm tâm đến phát triển cơ sở vật chất kỹ
thuật của sản xuất, còn con người chỉ được xem như là yếu tố lao động
đương nhiên, có sẵn trong quá trình sản xuất, đòi hỏi phải “khai thác” triệt
để và có hiệu quả mà không chú ý đến việc chăm sóc, bồi dưỡng, không chú
ý đến nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Kết quả là sản xuất không
được tiến lên và con người cũng không phát triển được.
Hiện nay việc phát huy tính sáng tạo con người Việt Nam đang đứng
trước một số rào cản như: Trình độ phát triển kinh tế và mức sống của chúng
ta còn thấp: Các căn bệnh ỷ lại, bảo thủ, độc đoán, trì trệ chưa được trừ khử;
giáo dục và đào tạo còn tồn tại những bất cập, còn mang bệnh thành tích...
cũng như trong việc giải quyết vấn đề lợi ích, thực hiện công bằng dân chủ
cho nhân dân còn yếu và hạn chế. Những rào cản đó cho thấy thực trạng việc
phát huy năng lực sáng tạo con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế.
Sau hơn 25 năm tiến hành đổi mới và từng bước hội nhập quốc tế, cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực Việt
Nam đã có sự phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng.
Về số lượng, Như chúng ta đã biết Việt Nam là quốc gia có dân số đông
trong khu vực. Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với



nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đến hết năm 2007, cả nước có
trên 44 triệu lao động trên tổng số 85 triệu dân, đứng thứ 2 trong khu vực và
thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số.
Về chất lượng, Xét về mặt chất lượng ngoài phẩm chất như cần cù,
khéo léo... nguồn nhân lực nói chung và lực lượng lao động nói riêng của
nước ta còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản
như thể chất, trí lực, trình độ chuyên môn kĩ thuật, kĩ năng... Hiện nay mặt
bằng dân trí ở nước ta được cải thiện và nâng cao một bước; cụ thể là năm
2005 cả nước có trên 30 tỉnh, thành phố hoàn thành chương trình phổ cập
trung học cơ sở. Nhưng chất lượng của nhân tố con người không thể hiện ở
trình độ học vấn, mà quan trọng là ở trình độ chuyên môn kĩ thuật được phản
ánh thông qua các chỉ số về số lượng và chất lượng lao động đã qua đào tạo.
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song cơ bản là
cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
Một nguyên nhân khác là thực trạng quy hoạch và phát triển nguồn
nhân lực nước ta những năm qua còn quá nhiều bất cập.
Nguyên nhân thường được nhắc đến là sự lạc hậu về nội dung và
phương pháp trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
2.2.3 Một số giải pháp để phát huy nhân tố con người trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Đi đôi với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cần phải có một chiến
lược phát triển con người Việt Nam đủ tầm đáp ứng yêu cầu của công cuộc
đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay và cả trong tương lai. Đối với
nước ta, để phát huy nguồn lực con người một cách hợp lý, hiệu quả cần
phải có một hệ thống đồng bộ các biện pháp cơ bản sau:


Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức.

Hai là, nâng cao chất lượng, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ba là, cần xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ hóa mọi mặt đời
sống xã hội.
Bốn là, cần quan tâm giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích theo phương
châm đảm bảo công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển.
Năm là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ
máy Đảng và Nhà nước.

KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người là một di sản vô giá mà
Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam trước lúc đi xa.
Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, đất
nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội thuận lợi và cũng có nhiều khó khăn
thử thách. Việt Nam có thể làm chủ được vận mệnh của Tổ quốc trong xu
thế toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức hiện nay hay không, có làm cho non
sông Việt Nam trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam bước tới đài
vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Hồ Chí Minh mong
mỏi hay không, là do lúc này chúng ta có đủ tầm nhìn và quyết tâm xây
dựng, hiện thực hóa được chiến lược con người Việt Nam mới đón đầu các
bước phát triển trong tương lai của đất nước hay không! Vô luận trong bất
cứ hoàn cảnh nào chiến lược đó đều phải đặt mục tiêu - giải pháp trên nền


tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Đó là việc phải coi con người là
trung tâm của quá trình phát triển.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người, bao gồm nhiều
yếu tố tạo thành: Cụ thể, chúng ta có thể thấy ở các quan hệ của con người
về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, đạo đức; Vấn đề giải phóng con người
trong mối quan hệ giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,

giáo dục và đào tạo con người; Phát huy nhân tố con người trong cách mạng,
về xây dựng con người mới, về tính người và đạo người, về quan điểm quần
chúng; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng đó còn thể hiện trong lối sống, phong cách, phương pháp của Hồ Chí
Minh. Với tư cách là tấm gương tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp của con
người Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay,
Đảng ta đã vận dụng những quan điểm nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh
về con người, phát huy nhân tố con người vào quá trình phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Những chuyển biến to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội cùng với
việc đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, Đảng ta với những đường
lối, chính sách đúng đắn, đã và đang khẳng định giá trị to lớn và tính trường
tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, khẳng định việc phát
huy nhân tố con người là vấn đề quyết định cho việc thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới đất nước hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.



×