Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.02 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
C. Mác và Ph. Ăngghen đã có những cống hiến hết sức vĩ đại
cho nhân loại ngày nay và một trong những cống hiến đó là đã mở
rộng thế giới quan duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội. Đem lại
sự nhận thức xã hội trong chỉnh thể và phát hiện ra những quy luật
vận động, phát triển phổ biến của lịch sử xã hội bởi học thuyết hình
thái kinh tế xã hội.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, tức q trình
phát triển có quy luật của xã hội lồi người nói chung khi được
phản ánh dưới hình thức hệ thống các khái niệm, quy luật và các
quan niệm thì đem lại cho chúng ta lý luận về q trình đó. Đây là
hình ảnh lý luận là cái cụ thể trong tư duy và quá trình phát triển tất
yếu của xã hội lồi người nói chung. Các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã cho thấy mặt lý luận của học thuyết hình thái kinh tế xã hội
có nội dung rất rộng, bao gồm rất nhiều yếu tố hợp thành, nhưng có
thể quy về ba quan niệm hay ba yếu tố lớn là khái niệm hình thái
kinh tế xã hội, quan niệm về quá trình lịch sử tự nhiên, tức là sự
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, quan niệm về mối liên hệ
giữa quá trình lịch sử - tự nhiên và sự đa dạng của lịch sử. Trong
những quan niệm này, quan niệm về quá trình lịch sử - tự nhiên với
yếu tố đặc trưng nổi bật của nó là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là quan niệm cơ
bản nhất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội của một quốc gia, một đất nước đặc biệt là trong vấn đề
1


kinh tế. Nếu trong một nước mà quan hệ sản xuất khơng phù hợp với


trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển, và ngược lại. Vì vậy, người ta phải biết điều tiết mối quan
hệ biện chứng giữa hai khái niệm này để tìm ra sự phù hợp giữa
chúng.
Nghiên cứu đề tài này, tơi chỉ muốn góp một phần nhỏ vào
việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, đồng thời làm rõ tình hình phát triển kinh tế ở
Quảng Bình hiện nay.
Vì vậy, hơn lúc nào hết việc nắm vững và bảo vệ tính cách
mạng, tính khoa học của học thuyết hình thái kinh tế xã hội chủ
nghĩa Mác là một nhiệm vụ chính trị và đồng thời là địi hỏi của
thực tiễn ngày nay.
Hơn nữa, với một sinh viên ngành triết học được trang bị cho
mình một lượng kiến thức chuyên ngành Mác - Lênin, đó là hệ tư
tưởng tiến bộ, khoa học nhất thì việc lựa chọn chủ nghĩa Mác Lênin trong đó có học thuyết hình thái kinh tế xã hội là điều rất cần
thiết để tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệpvới tên đề tài: “Vận
dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở Quảng Bình hiện nay”.
Giới hạn là một khóa luận tốt nghiệp của sinh viên, bản thân
tôi chỉ tập trung giải quyết các vấn đề trong khóa luận từ năm 2000
- 2010, nhằm làm rõ sự vận dụng biện chứng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở
Quảng Bình.

2


Xuất phát từ những lý do nêu trên mà tôi đã cố gắng tìm tịi,
suy nghĩ thấu đáo và mạnh dạn lựa chọn vấn đề nêu trên để làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung và quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội đặc biệt là đối với vấn đề phát triển kinh tế.
Góp phần làm nền tảng lý luận, định hướng phát triển kinh tế, đưa
ra những con đường, những giải pháp phù hợp cho việc hồn thiện
nền kinh tế theo hướng cơng nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước.
Vì vậy mà đã có rất nhiều nhà nghiên cứu Mác xít quan tâm,
tìm hiểu, đưa ra những lý luận duy vật về hình thái kinh tế xã hội
đặc biệt là về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Họ đã có những cơng trình nghiên cứu
được đông đảo mọi người quan tâm, chúng ta không thể kể hết
những cơng trình đó mà chỉ có thể nêu một số nghiên cứu gần đây
mà chúng ta thường nhắc đến:
Với tác phẩm: “ Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội
và lý luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta” Nxb
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2005. Chủ biên: Tiến sĩ Phạm Văn
Chung đã tập trung xem xét nội dung khoa học của học thuyết Mác
về hình thái kinh tế xã hội và mối liên hệ hữu cơ của nó đối với lý
luận về con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ việc
nghiên cứu học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội, cuốn sách
xác định hai phương diện là lý luận và phương pháp luận của học
thuyết và chỉ ra một cách cụ thể vai trò phương pháp luận của học
3


thuyết này đối với việc xác định nội dung khoa học của lý luận về
con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thông qua luận giải một số
vấn đề lý luận cấp bách.

Trong tác phẩm: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã
hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”,
của Lương Xuân Quỳ, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
Đề cập đến hệ quan điểm, phương hướng, chính sách và giải pháp
xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực
hiện tiến bộ công bằng xã hội trên đất nước ta.
Trong cuốn: “ Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở
Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Quý, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà
Nội, 2000. Tác phẩm nêu những vấn đề về quan hệ sản xuất, quá
trình xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới ( từ năm 1986 đến nay), định hướng và giải pháp cơ bản
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất ở Việt Nam.
Đặc biệt trong số những cơng trình nghiên cứu đó có tác phẩm:
“Tìm hiểu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về quy luật phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất”, Trương Hữu
Hoàn, Triết học, số 3 (1994). Nội dung tác phẩm đề cập đến nhiều
vấn đề quan trọng của học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đặc biệt
là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất để thấy rõ sự tác động qua lại giữa chúng là một q trình có
quy luật của nó. Vạch rõ những tư tưởng của Mác và Ph. Ăngghen
về quan hệ sản xuất,lực lượng sản xuất để ta thấy rõ được những
đối tượng đó có đặc điểm và mối liên hệ với nhau như thế nào. Bên
cạnh đó cịn làm rõ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất ở mỗi thời
đại khác nhau như thế nào.
4


Đó mới chỉ là một số nghiên cứu gần đây của các tác giả mà
chúng ta được đọc và tham khảo. Ngồi ra cịn rất nhiều cơng trình
khác của các cấp, các ngành, cán bộ và sinh viên thuộc khoa lý luận

chính trị cần được chúng đặc biệt quan tâm. Với đề tài khóa luận
của tơi mặc dù khơng phải là đề tài mới mẻ nhưng đang là vấn đề
rất được quan tâm nên tơi xin được góp một phần nhỏ vào việc
nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đặc biệt là đối với
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về học thuyết
hình thái kinh tế xã hội đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nêu ra được
những đặc điểm cũng như thực trạng và giải pháp của tỉnh Quảng
Bình trong sự vận dụng quy luật đó.
3.2. Nhiệm vụ
Để hồn thành mục đích trên sinh viên thực hiện đề tài này có
nhiệm vụ:
* Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, làm rõ tác động qua lại giữa chúng.
* Nêu ra những nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh tế
xã hội và những quy luật trong đó. Qua đây thấy được ý nghĩa của
việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói chung, quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nói
riêng vào phát triển kinh tế Quảng Bình.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5


4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đồng thời dựa

trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về con đường phát triển đi lên CNXH.
4.2. Phương pháp
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn vận dụng các
phương pháp cụ thể như: Phân tích - tổng hợp, lơgic - lịch sử, liệt
kê, so sánh và các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội khác.
5. Đóng góp của đề tài
Trong phạm vi là một bài khóa luận tốt nghiệp, người thực
hiện đề tài chỉ mong muốn làm rõ tính đúng đắn, khoa học trong
quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh đó, đề tài có thể là một trong những nguồn tài liệu
cần thiết cung cấp một số vấn đề liên quan: Thành phần kinh tế,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và những chính sách của Đảng, Nhà
nước đối với việc phát triển kinh tế tại địa phương.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời cảm ơn, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục thì khóa luận cịn có phần nội dung gồm 2
chương và 5 tiết.
NỘI DUNG
Chương 1: Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất
1.1: Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
6


1.1.1: Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai phát minh vĩ đại
nhất của C. Mác. Là một bộ phận hợp thành của triết học Mác - Lê

nin, nó là lý luận duy vật về những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của xã hội , đồng thời là phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu mọi hiện tượng xã hội và q trình lịch sử. Khơng
những thế chủ nghĩa duy vật lịch sử còn là kim chỉ nam cho các
khoa học xã hội cụ thể và cho việc định ra chiến lược, sách lược
của Đảng Cộng Sản.
Với khái niệm lực lượng sản xuất thì Mác là người đầu tiên
đưa ra khái niệm lực lượng sản xuất nhưng ông không gọi như vậy
mà ông gọi là “ sức sản xuất”, vì ơng cho rằng “ sức sản xuất”
khơng phải là cái bản chất tinh thần nào đó mà đó là sức mạnh vật
chất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của lồi người. Đó là kết quả của năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của
cải vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người.
Vậy lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự
nhiên của con người, nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
Lênin cho rằng: Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động
và tư liệu sản xuất trong đó “ lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn
thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động”. Chính người lao
động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và
kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là
công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra
của cải vật chất. Nên chúng ta có thể tóm gọn lại một ý trong vấn
đề này: Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng
sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất chính là cơ sở vật chất của
hình thái kinh tế xã hội.
7



1.1.2: Khái niệm quan hệ sản xuất
Lý luận hình thái kinh tế xã hội của C. Mác đã chỉ ra rằng xã
hội không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên các mặt, các yếu tố với
nhau theo ý muốn chủ quan mà là một hệ thống, trong đó các mặt,
các yếu tố thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không
ngừng tác động qua lại với tự nhiên.
Và cũng như lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cũng
thuộc lĩnh vực đời sống vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan
hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ chúng tồn khách quan, độc lập
với ý thức con người. Nên Mác viết: “ Trong sự sản xuất xã hội ra
đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất
yếu khơng phụ thuộc vào ý muốn của họ tức những quan hệ sản
xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất
định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ.
Vì vậy giáo trình triết học Mác - Lênin đã đưa ra định nghĩa
ngắn gọn và khái quát nhất về quan hệ sản xuất đó là quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất
xã hội).
Hơn nữa, trong quan hệ sản xuất gồm có ba mặt: quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản
xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản
xuất thì do con người sáng tạo ra nhưng nó phải tuân theo những
quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động của đời sống xã hội.
Nên khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái kinh tế xã
hội nào thì khơng thể chỉ nhìn ở trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất mà cịn phải xét đến tính chất của quan hệ sản xuất nữa.
1.2: Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
1.2.1: Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất

Khi nhân loại đã đi được một chặng đường nhất định trên con
đường tiến hóa của mình thì một câu hỏi đặt ra buộc các nhà triết
8


học phải suy nghĩ: Cái gì quyết định sự phát triển của lịch sử? Từ
đây đã có nhiều nhà tư tưởng triết học đã đi tìm câu trả lời cho cả
nhân loại nhưng họ đã không nhận thức được con đường đúng đắn
vì họ đã lấy tư tưởng, ý thức ra giải thích mọi hiện tượng cho nên
họ vẫn chưa tìm được lối thốt cho nhân loại. Đến khi C. Mác vén
bức màn thần bí đã được các bậc thầy tư tưởng của mình là Hêghen
và các nhà triết học tiền bối khác che phủ lên lịch sử thì nhân loại
bắt đầu chuyển sang một trình độ nhận thức mới.
Ở đây ta sẽ nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất để thấy được mặt thứ nhất của quy
luật này là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cùng
với sự biến đổi và phát triển nhiều hơn của công cụ lao động thì
kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến
thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lúc này lực lượng sản
xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Vấn đề lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất được thể hiện rõ trong các
giai đoạn phát triển của xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng các quan hệ sản xuất mới cao
hơn, đưa xã hội chuyển từ phương thức sản xuất này lên phương
thức sản xuất khác, hình thành kinh tế xã hội với những kiểu quan
hệ sản xuất khác nhau.
1.2.2: Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất chính là quan hệ vật chất tồn tại khách quan

không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, đồng thời nó
hình thành và thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất nhất định. Mặc dù vậy những quan hệ sản xuất ln có tác
động trở lại rất lớn đối với lực lượng sản xuất.
Biểu hiện khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy,
9


định hướng tạo điều kện cho lực lượng sản xuất phát triển, và
ngược lại. Sở dĩ, quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại
đối vớ lực lượng sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất,
quy định hệ thống tổ chức, quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy
định phương thức phân phối mà phần của cải ít hay nhiều của
người lao động được hưởng.
Như vậy là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Quan hệ sản xuất phải luôn luôn vận động, biến đổi
đưa mình lên một trình độ cao hơn để cùng với lực lượng sản xuất
phát triển xã hội. Chính vì vậy mà quan hệ sản xuất là lực lượng
không thể thiếu được của một phương thức sản xuất, lực lượng sản
xuất không thể tồn tại, phát triển bên ngoài quan hệ sản xuất. Lực
lượng sản xuất phát triển chẳng những do yếu tố nội tại của nó mà
còn do sự tác động của quan hệ sản xuất.
Tiểu kết chương 1:
Qua sự phân tích làm rõ nội dung ở trên ta thấy Mác chính là người
đã phát hiện ra quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Đó là quy luật cơ bản chi phối tồn bộ q trình
lịch sử lồi người, nó quyết định sự thay thế các phương thức sản xuất và
cùng với sự thay đổi phương thức sản xuất là sự thay thế của các hình thái

kinh tế xã hội.
Đồng thời là nhờ việc phát hiện ra quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tình độ phát triển của lực lượng sản xuất, Mác đã xây dựng
được lý luận về hình thái kinh tế xã hội, một phạm trù cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với
một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng
tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Lênin cho rằng: “
Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và
10


đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự
phát triển của những hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên” [4, 163].
Việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất và xây dựng kinh tế - xã hội của một đất nước hay một
xã hội đang tồn tại là điều hết sức quan trọng. Bởi vì nó chi phối, tác
động đến rất nhiều lĩnh vực đặc biệt là việc vận dụng quy luật đó vào
việc phát triển nền kinh tế. Chỉ có như vậy mới làm cho quan hệ sản
xuất khơng bị lĩnh vực nào kìm hãm nó phát triển.
Từ đây, chúng ta có thể rút ra những nội dung cơ bản của mối quan
hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như sau:
- Xu hướng của sản xuất vật chất là khơng ngừng biến đổi phát
triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển
của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Lực lượng sản
xuất phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất và xuất hiện
địi hỏi khách quan phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản
xuất mới. Như vậy, từ chỗ quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển

của lực lượng sản xuất, nay quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất ( không phù hợp). Sự phù hợp
và không phù hợp là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp và không phù hợp trong mâu
thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
- Khi phù hợp cũng như không phù hợp với lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất ln có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất,
thể hiện trong tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục
đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình
thành những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
11


- Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất, bao giờ cũng thông
qua các quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản
xuất.
Thông qua sự phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất mà Việt Nam chúng ta đã phát triển kinh tế
phù hợp với xu thế của thời đại. Tiếp theo sau đây ở phần chương 2
chúng ta sẽ được nhìn thấy rõ hơn việc vận dụng phù hợp quy luật quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Quảng Bình,
nhìn thấy được tình hình phát triển kinh tế qua các năm nhờ sự vận dụng
biện chứng mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực
lượng sản xuất.

CHƯƠNG 2
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ

sản xuất vào việc phát triển kinh tế Quảng Bình giai đoạn hiện
nay.
2.1: Sơ lược điều kiện kinh tế xã hội ở tỉnh Quảng Bình
2.1.1: Điều kiện xã hội ở tỉnh Quảng Bình hiện nay
Nhìn chung tình hình xã hội ở Quảng Bình những năm gần đây
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ tạo cơ sở vững chắc cho
việc phát triển kinh tế. Đó chính là những kết quả về giáo dục đào tạo
với chất lượng giáo dục được nâng lên tầng bước rõ rệt, số lượng học
sinh bỏ học giảm, chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục có nhiều chuyển biến tiến bộ. Về y tế và các hoạt động văn hóa
xã hội cũng phát triển rất mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú, đa
dạng. Thực hiện chính sách dân tộc, tơn giáo trên địa bàn tỉnh nhìn
chung phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
2.1.2: Điều kiện kinh tế ở Quảng Bình hiện nay
12


Điều kiện kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc
phát trển kinh tế. Đó là sự phong phú của các loại tài nguyên thiên
nhiên, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên du lịch tạo động lực cho
đầu tư phát triển kinh tế. Chính những điều kiện thuận lợi cả về
kinh tế và xã hội nói trên mà năm 2006 Quảng Bình đã đóng góp
vào ngân sách nhà nước 450 tỷ đồng, chi ngân sách địa phương
823,73 tỷ đồng. GDP đầu người năm 2006 đạt 450 USD. Hiện nay
tỉnh Quảng Bình có 1.045 doanh nghiệp, tổng số vốn kinh doanh là
1.865 tỷ đồng. Lần đầu tiên có hai doanh nghiệp đoạt giải Sao
Vàng Đất Việt.
2.2: Chính sách phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng Bình giai
đoạn hiện nay.

2.2.1: Sự tác động của các ngành kinh tế đến việc phát triển
kinh tế tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Trong quan hệ sản xuất thì mối liên hệ giữa các ngành kinh tế,
các thành phần kinh tế là sự tác động mạnh mẽ đến việc phát triển
kinh tế ở tỉnh Quảng Bình hiện nay. Đối với Quảng Bình nói riêng
cũng như Việt Nam nói chung thì ngành du lịch có ảnh hưởng rất
lớn đối với việc phát triển kinh tế. Điều kiện kinh tế, xã hội và con
người nơi đây đã tạo ra những tiềm năng để phát triển du lịch, thiên
nhiên và tạo hóa đã ban cho Quảng Bình một Phong Nha - Kẻ Bàng
được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới vào tháng
7/2003. Chính nơi đây đã thu hút nhiều khách du lịch đến tham
quan, nghỉ dưỡng làm cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.
Không chỉ có ngành du lịch mà các ngành nơng - lâm- ngư
nghiệp cũng có tác động rất lớn đến việc phát triển kinh tế. Tài
nguyên đất, nước, khí hậu hết sức phong phú và đa dạng, hoạt động
thủy sản phát triển khá mạnh, con người ở đây cũng đã biết phát
huy trên các khâu như đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu
thủy sản. Nhưng ở đây do điều kiện chung của tỉnh Quảng Bình là
một tỉnh nơng nghiệp, chun sản xuất sản phẩm nơng sản là chính
13


nên chưa thể góp phần vào phát triển nền kinh tế nói chung được.
Một phần cũng do trình độ của lực lượng sản xuất đang cịn hạn
chế, khơng đồng đều giữa các vùng, tư liệu sản xuất nơi đây còn
hạn chế. Sử dụng những cơng cụ lao động mang tính thủ công,
chưa áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất. Nên sản phẩm làm ra không đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày
càng cao của người dân, làm cho nền sản xuất chậm phát triển,
không đủ khả năng cạnh tranh với những tỉnh thành khác trong

nước. Ngày nay, một số tỉnh đã áp dụng khoa học cơng nghệ vào
trong sản xuất nơng nghiệp, vừa ít tốn thời gian, vừa tiết kiệm được
nguồn lao động mà lại đưa đến năng suất cao nhưng Quảng Bình
lại chưa làm được điều này, nó mới chỉ diễn ra ở một số địa phương
có điều kiện phát triển mà thơi. Những khó khăn nói trên chính là
do trình độ người lao động chưa cao, tư liệu lao động đang còn thơ
sơ, sản xuất thì mang tính chất manh mún, nhỏ lẻ.
Các ngành cơng nghiệp cũng có tác động khơng nhỏ đến sự
phát triển của nền kinh tế Quảng Bình nói chung. Giá trị sản xuất
công nghiệp tăng dần và tăng 14,2% trong những năm gần đây. Chính
sự phát triển của các ngành công nghiệp mà đã làm cho nền kinh tế
tăng hiệu quả đáng kể, hơn nữa trong năm 2011 phấn đấu đưa tốc độ
tăng trưởng ngành công nghiệp tăng 20 - 21%, tiếp tục phát huy công
suất của các nhà máy, cơ sở sản xuất hiện có. Chính quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm, quy luật phổ biến đã thúc đẩy cho
q trình phát triển cơng nghiệp. Mặc dù vậy các ngành cơng nghiệp
vẫn đang cịn phát triển chậm, khơng đồng đều và mức độ tăng
trưởng còn thấp. Chưa thu hút được nguồn lao động có trình độ cao
về làm việc tại các cơ sở hoặc khu công nghiệp. Dù ngành cơng
nghiệp của tỉnh Quảng Bình chưa phát triển như một số vùng khác
nhưng đang có những bước tiến triển khá rõ rệt tạo đà cho sự phát
triển sau này.
14


Bên cạnh những ngành kinh tế nói trên thì vẫn cịn một số
ngành khác có tác động đến nền kinh tế như xây dựng cơ bản, hoạt
động tài chính ngân hàng, xúc tiến đầu tư...Nên Đảng, Nhà nước
cũng như những cán bộ lãnh đạo các cấp của tỉnh Quảng Bình đã

đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp để phát triển nền kinh
tế một cách bền vững.
2.2.2: Những thành tựu đạt được về kinh tế của tỉnh Quảng
Bình hiện nay
Những thành tựu và kết quả đạt được của tỉnh Quảng Bình
trong giai đoạn hiện nay chính là sự kết hợp biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện ở các mặt nông,
lâm, ngư nghệp, công nghiệp, dịch vụ, xây dựng cơ bản, tài chính,
tín dụng ngân hàng....nhưng thành tựu nổi bật nhất đó là những kết
quả của sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, và dịch vụ du lịch. Diện
tích gieo trồng cây hàng năm thực hiện 84.530 ha, tăng 1,3% so với
cùng kỳ, sản lượng lương thực cả năm 2010 đạt 254,080 tấn, bằng
96% so với cùng kỳ và đạt 96,6% kế hoạch...
Du lịch năm 2010 đã tổ chức nhều hoạt động như: khai trương
mùa du lịch Quảng Bình, tổ chức tuần văn hóa Đồng Hới, Festival
biển và hải đảo, tổ chức sự kiện quốc gia ngày môi trường thế
giới...thu hút nhiều khách du lịch và làm tăng thêm lợi nhuận cho
nền kinh tế nói chung.
Có được những kết quả trên chính là sự kết hợp chặt chẽ triết
học với kinh tế mà quan trọng là đã biết vận dụng phù hợp quy luật
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nắm vững sự tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế của tỉnh.
2.3: Thực trạng và giải pháp của nền kinh tế Quảng Bình
hiện nay
2.3.1: Thực trạng của nền kinh tế Quảng Bình

15



Nhìn chung những năm vừa qua nhờ sự vận dụng quy luật
đúng đắn nên Quảng Bình đã đạt được những thành tựu đáng khích
lệ song cũng gặp phả những khó khăn nên tốc độ phát triển kinh tế
chưa đồng đều giữa các vùng kinh tế và các ngành kinh tế.
Trước hết thì Quảng Bình có tốc độ tăng trưởng kinh tế phát
triển khá, từng bước tạo lập được các yếu tố bảo đảm cho phát triển
nhanh và bền vững. GDP bình qn năm đạt 11%, là giai đoạn có
mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay, cao hơn 2,44% so vớ
thời kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng cơng nghệp
hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nơng nghiệp từ 29,7% năm 2005 giảm
cịn 20% năm 2010, cơng nghiệp - xây dựng từ 32,1% tăng lên
40%, dịch vụ từ 38,2% tăng lên 40% đạt chỉ tiêu đại hội XIV đề ra.
Cơ cấu nội bộ từng ngành kinh tế có bước chuyển dịch tích cực.
Bên cạnh đó Quảng Bình cũng đã vấp phải những khuyết điểm
dẫn đến giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của toàn tỉnh, chưa
tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa,
ngành nghề nơng thơn, thị trường tiêu thụ nơng, lâm, thủy sản
chậm phát triển. Quy mô sản xuất công nghiệp còn nhỏ, chất lượng
hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm cịn yếu, một số dự án
cơng nghiệp chậm được đưa vào sản xuất, việc ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Tiềm năng phát triển du lịch,
dịch vụ chưa được khai thác, phát huy có hiệu quả. Kim ngạch xuất
khẩu tăng khá nhưng chưa vững chắc, nguồn hàng khơng ổn định,
hàng hóa xuất khẩu sản xuất từ nguyên lệu tại chỗ còn thấp, xuất
khẩu ngun liệu thơ sơ, sơ chế vẫn cịn nhiều. Việc tổ chức thực
hiện một số chương trình, dự án ở vùng nơng thơn, miền núi cịn
chậm và chưa tốt, làm lãng phí nguồn lực đầu tư, mơi trường đầu tư
kinh doanh mặc dù có được cải thiện nhưng chưa thực sự hấp dẫn,
số lượng dự án thu hút đầu tư còn hạn chế. Hiệu quả sản xuất kinh
doanh của một số doanh nghiệp sau sắp xếp, đổi mới còn thấp, số

lượng doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh nhưng doanh nghiệp sản
16


xuất, chế biến cịn ít. Cơng tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có
mặt cịn hạn chế. Quản lý, cấp phép, kiểm tra giám sát việc khai
thác khoáng sản cịn thiếu đồng bộ.
Chính vì thực trạng nền kinh tế Quảng Bình như vậy nên đặt ra
yêu cầu cấp bách là phải tìm ra những giải pháp phù hợp để có thể
khắc phục được những hạn chế nói trên.
2.3.2: Giải pháp của nền kinh tế Quảng Bình
Việc đưa ra những giải pháp khắc phục cũng phải tuân thủ theo
những yêu cầu, và quy luật của nó. Chỉ có dự trên nền tảng lý luận
và phương pháp luận đúng đắn của triết học Mác - Lê nin thì mới
đưa ra được những giải pháp phù hợp với đặc điểm và tình hình
kinh tế của tỉnh. Bởi vì kinh tế và triết học ln gắn bó chặt chẽ với
nhau, tác động qua lại giúp nhau tồn tại và phát triển.
Những giải pháp đó chính là tạo mơi trường đầu tư kinh doanh
thơng thống, bình đẳng, ổn định và minh bạch,nâng cao chất
lượng công tác xúc tiến thu hút đầu tư. Xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại là một trong những giải pháp
đột phá để phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung tháo gỡ khó khăn
để thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh. Nâng cao chất lượng
nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Thực
hiện tốt những giải pháp này thì tỉnh Quảng Bình sẽ khơng cịn gặp
phải những khó khăn nữa, mà tập trung phát triển mạnh mẽ hơn
nữa nền kinh tế của tỉnh.
Tiểu kết chương 2
Những thành tựu về kinh tế đã đạt được ở tỉnh Quảng Bình
hiện nay đã cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản

xuất và qua hệ sản xuất đã được vận dụng phù hợp vào sự phát
triển kinh tế xã hội ở tỉnh Quảng Bình. So vớ các tỉnh thành khác
trên cả nước thì kinh tế - xã hội Quảng Bình có mức thu nhập bình
qn GDP/ người ở mức trung bình. So với sự phát triển kinh tế
Quảng Bình từ năm 2000 đến nay, cho phép ta khẳng định kinh tế ở
17


tỉnh Quảng Bình đang có bước phát triển khá. Từng bước hoàn
thiện cơ sở hạ tầng xã hội, đẩy mạnh phát triển sản xuất, ở những
khu công nghiệp lớn như: Khu cơng nghiệp Hịn La, Khu cơng
nghiệp Tây Bắc Đồng Hới…
Sử dụng vốn ODA hợp lý, biết sử dụng và phát huy lợi thế từ
nguồn tài nguyên thiên nhiên, tà nguyên biển, tài nguyên rừng, tài
nguyên khoáng sản, tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội của
Tỉnh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện và phát triển kinh tế xã
hội của Tỉnh cũng gặp rất nhiều khó khăn. Vì Quảng Bình là một
tỉnh năm ở dải đất miền trung thường xuyên chịu những đợt thiên
tai, bão lụt đã cướp đi bao nhiêu tài sản và tính mạng của con
người. Thiên tai ở các tỉnh miền Trung trong đó có tỉnh Quảng
Bình là một trong những ngun nhân làm cho nền kinh tế của các
tỉnh miền Trung nói chung - Quảng Bình nói riêng được xếp vào
các tỉnh nghèo trong cả nước. Xong cơn mưa trời lại sáng, nhân dân
và các cấp lãnh đạo tỉnh Quảng Bình đã cố gắng vượt qua, khắc
phục khó khăn để hướng tới một ngày mai tươi sáng.
Tỉnh Quảng bình đã có những dự án, chính sách kinh tế phù
hợp, đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp, khai thác nguồn lợi du lịch
có hiệu quả, liên kết chặt chẽ giữa các ngành kinh tế nhằm đưa tỉnh
Quảng Bình thốt khỏi tỉnh nghèo, sánh vai với các tỉnh, thành phố
khác trong cả nước như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí

Minh, góp phần vào sự phát triển chung kinh tế xã hội của cả nước.

18


KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ phát triển như
vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thêm vào đó tồn
cầu hóa đang trở thành xu hướng phổ biến, do đó quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù
hợp với xu thế của thời đại để đưa đất nước tiến lên cùng nhân loại.
Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng Cộng sản khởi xướng
và lãnh đạo đã đi vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến rất lớn trong
toàn bộ kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa, xã hội khơng ngừng
tiến bộ...có được điều đó một mặt là do chủ trương cải tạo, biến đổi
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất và ngược lại lực
lượng sản xuất cũng thay đổi phù hợp với quan hệ sản xuất.
Trong quá trình đổi mới của đất nước nói chung, của Quảng
Bình nói riêng ln tn thủ quy luật biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất. Do đó, quan hệ sản xuất mới được
xây dựng và từng bước hoàn thiện trên cả ba mặt, lực lượng sản
xuất cũng thay đổi theo hướng phát triển, tiến bộ cùng với sự phát
triển của đất nước cũng như toàn thế giới. Như vậy quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất ở Quảng Bình đã trải qua 20 năm đổi
mới và đang được xây dựng hoàn thiện dần, những thành tựu mà
tỉnh đạt được trong những năm sau đổi mới đặc biệt là trong những
năm gần đây (2005 - 2010) chứng tỏ quá trình vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất đang diễn ra một
cách đúng hướng. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất mà Quảng Bình đang vận dụng
thực sự là một điều kiện, một nhân tố quan trọng trong việc thúc
đẩy sự phát triển các ngành kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp, công
nghiệp và dịch vụ du lịch. Những kết quả mà Đảng bộ và nhân dân
tỉnh Quảng Bình đã xây dựng được là rất lớn, tạo ra thế và lực mới
đưa toàn tỉnh tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa trên con đường công
19


nghiệp hóa hiện đại hóa nơng thơn, góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”.
Tuy nhiên, muốn kinh tế phát triển phải có được những chính
sách phù hợp để giải phóng người lao động nhằm giải phóng sức
sản xuất thì phải đào tạo, bồi dưỡng trình độ chun mơn, nghiệp
vụ, kỹ năng, kinh nghiệm lao động cho họ. Không những thế mà
cịn phải có được những chính sách “lên men” được sự hăng say,
tính tích cực, lịng nhiệt tình, sự cần cù, chịu khó, sự sáng tạo và
biết phát huy có hiệu quả cơng cụ lao động hiện có của người lao
động. Đồng thời phải có chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ hợp lý, để những điều này hậu thuẫn tốt cho
sự phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó cịn biết tổ chức, quản lý sản
xuất một cách hợp lý, giải quyết tốt mối quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm được sản xuất ra. Qua
đây ta mới thấy rõ được vai trò của của triết học đối với kinh tế là
hết sức quan trọng và có ý nghĩa chiến lược thật sự.

20




×