Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CÔNG tác tôn GIÁO của ĐẢNG TRONG THỜI kỳ đổi mới (1990 2007)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.51 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo đang là một trong những vấn đề quan trọng mà từ trước đến
nay, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn dành một sự quan tâm đặc biệt.
Nước ta với đặc điểm là một nước có nhiều dân tộc sinh sống, chính vì
đặc điểm này, vấn đề tôn giáo cũng trở nên phức tạp và nhạy cảm hơn. Hơn
nữa, vấn đề tôn giáo lại mang tính quốc tế. Bởi vậy mà đòi hỏi Đảng và Nhà
nước phải thực hiện vấn đề một cách khéo léo.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vấn đề tôn giáo.
Người đã coi đoàn kết tôn giáo là một trong những vấn đề quan trọng nằm
trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc. Người đã từng nói: "Toàn thể đồng bào
ta, không chia Lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến để giữ
gìn non sông, Tổ quốc, và cũng để giữ gìn tín ngưỡng tự do" [1, tr. 216].
Trong thời đại ngày nay, việc chủ nghĩa đế quốc đang đẩy nhanh, đẩy
mạnh "Diễn biến hòa bình" thì việc quan tâm, giải quyết vấn đề tôn giáo trở
nên vô cùng cần thiết. Để đánh đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,
trước đây, trong âm mưu của mình, chủ nghĩa đế quốc đã sử dụng rất hiệu quả
vũ khí tôn giáo để chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa rồi tiến đến làm sụp đổ
cả hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Chính vì vậy, để giữ vững chủ nghĩa
xã hội, chúng ta không được lơ là mất cảnh giác đối với thủ đoạn này của chủ
nghĩa đế quốc.
Ngày nay, xung đột sắc tộc và xung đột tôn giáo đang là những điểm
nóng của thế giới hiện đại. Nhiều quốc gia đã lâm vào khủng hoảng chính trịxã hội triền miên dẫn đến không thể phát triển được đất nước mà vẫn chưa thể
thoát khỏi tình trạng đó vì đã không làm tốt công tác tôn giáo. Đó là bài học
để Đảng và Nhà nước ta quan tâm và làm thật tốt công tác tôn giáo.
Là một sinh viên chuyên ngành Lịch sử Đảng, việc tìm hiểu công tác
tôn giáo của Đảng trong thời kỳ đổi mới (1990- 2007) có ý nghĩa lớn về mặt

1



lý luận và nhất là về mặt thực tiễn. Em hy vọng sau tiểu luận này, em sẽ nâng
cao hiểu biết của mình hơn về các chính sách, chủ trương của Đảng nói chung
và các chính sách, chủ trương của Đảng về vấn đề tôn giáo nói riêng. Đồng
thời nhận ra rõ hơn chân tướng của chủ nghĩa đế quốc và những âm mưu thâm
độc của chúng để đề phòng.
2. Cơ sở lý luận, tài liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác- Lênin.
2.2. Nguồn tư liệu
Trong quá trình triển khai đề tài, tiểu luận khai thác tư liệu ở các
nguồn: Lênin: Tác phẩm Mác- Ăngghen- Chủ nghĩa Mác, Nxb Sự thật- Hà
Nội, 1958; Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Văn kiện Đảng toàn tập (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hiến pháp
Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận thuộc chuyên ngành lịch sử nên sinh viên sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp của hai phương pháp đó. Ngoài
ra còn sử dụng phương pháp phân tích- tổng hợp, cụ thể- khái quát, thống kê,
so sánh, đối chiếu để làm rõ nội dung đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của tiểu luận
Với phạm vi tìm hiểu công tác tôn giáo của Đảng trong giai đoạn
1990- 2007, tiểu luận có nhiệm vụ tìm hiểu những chủ trương, chính sách về
tôn giáo của Đảng trong giai đoạn này. Đồng thời có những nhận xét, đánh
giá những chủ trương, chính sách đó đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Góp phần khẳng định tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong
việc đưa ra những chủ trương, chính sách về tôn giáo và thực thi những chủ

2



trương, chính sách đó. Đồng thời giúp sinh viên nâng cao hiểu biết của mình
hơn về các chính sách, chủ trương của Đảng nói chung và các chính sách, chủ
trương của Đảng về vấn đề tôn giáo nói riêng và nhận ra rõ hơn chân tướng
của chủ nghĩa đế quốc và những âm mưu thâm độc của chúng để đề phòng.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
tiểu luận gồm 2 chương, 6 tiết.

3


Chương 1
NGUỒN GỐC- TÍNH CHẤT- CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO
1.1. NGUỒN GỐC

Trong buổi bình minh của nhân loại, con người tiến hành sản xuất chủ
yếu là hái lượm những sản vật sẵn có trong tự nhiên. Tự nhiên đã đưa đến cho
họ những tai họa ngẫu nhiên, bất ngờ và đe dọa cuộc sống của họ hàng ngày
hàng giờ. Lúc này con người chưa đủ điều kiện để giải thích và chế ngự tự
nhiên. Ngược lại cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải vượt qua khó khăn do
tự nhiên gây ra. Trong điều kiện đó, con người đã tìm đến tôn giáo, niềm tin
tôn giáo là động lực thúc đẩy con người vượt qua khó khăn và hướng tới một
cuộc sống mới.
Giai đoạn đầu, tôn giáo hoàn toàn sơ khai, chưa có tổ chức và giáo lý.
Họ thờ những vị thần đại diện cho sức mạnh của tự nhiên (sấm, sét, mưa,
gió…).Những sức mạnh của tự nhiên được nhân cách hóa và được con người
thờ phụng, cầu nguyện những sức mạnh siêu nhiên đó đem lại hạnh phúc cho
họ. Ngày nay các công trình nghiên cứu lịch sử tôn giáo cho thấy một số vùng

vẫn còn tồn tại một số hình thức tôn giáo cổ xưa. "Tôtem" của người da đỏ ở
châu Mỹ là một trong những hình thức tôn giáo cổ xưa còn được giữ lại đến
ngày nay.
Từ khi xã hội phân chia giai cấp, nhân loại chuyển sang giai đoạn lịch
sử mới. Bên cạnh sự tiến bộ về công cú sản xuất và năng suất lao động, xã hội
có giai cấp đưa đến cho nhân dân lao động sự áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị. Ngoài tai họa của tự nhiên, những tai họa do giai cấp bóc lột mang
lại cũng khiến cho nhân dân không thể lường trước. Áp bức bóc lột của giai
cấp thống trị đã đưa con người đến tận cùng của đau khổ và mất hết niềm tin
vào cuộc sống, chính lúc đó, tôn giáo xuất hiện, tôn giáo nhanh chóng đem lại
cho họ niềm tin vào cuộc sống, niềm tin hư ảo, hy vọng vào cuộc sống ở thế
giới bên kia.

4


Sự ra đời của Kitô giáo gắn với xã hội phân chia giai cấp. Thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, đế chế La Mã hùng mạnh đã xâm lược và thống trị một vùng
rộng lớn từ châu Âu xuống châu Phi. Chính sách thống trị tàn bạo của chế độ
nô lệ làm cho nhân dân lao động ở những khu vực bị đế quốc La Mã cai trị
phải chịu đựng một cuộc sống vô cùng đau khổ. Trước sự đày đoạ của đế
quốc La Mã, đã có những cuộc khởi nghĩa của nô lệ chống lại ách áp bức.
Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa này đều thất bại, bị dìm trong biển máu.
Con người hoàn toàn bất lực trước sức mạnh tàn bạo của đế chế La Mã, Trong
điều kiện xã hội đó, Kitô giáo đã ra đời. Kitô giáo ra đời đã đáp ứng đúng
nguyện vọng của nhân dân lao động, nó trở thành nguồn động viên tinh thần,
là hạnh phúc hư ảo của nhân dân, giúp con người tin vào cuộc sống, cam chịu
cuộc sống cùng cực để chờ đợi cuộc sống trên thiên đàng.
Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản, tôn giáo lại càng có điều kiện phát
triển. Với phương thức sản xuất của chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đã bóc

lột tận xương tủy giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chủ nghĩa tư bản
"là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ,
cũng đe dọa đem lại cho họ sự phá sản đột ngột, bất ngờ, ngẫu nhiên, làm cho
họ phải diệt vong, biến họ thành người ăn xin, kẻ bần cùng, người mãi dâm, và
dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là gốc rễ sâu xa của tôn giáo hiện đại" [2, tr.
287]. Ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, chúng đã biết kết hợp thế quyền
với thần quyền, biến tôn giáo và các tổ chức tôn giáo thành công cụ của áp
bức, bóc lột. Giai cấp tư sản đã không tiếc tiền đầu tư vào việc truyền đạo và
xây dựng các thế lực tôn giáo hùng mạnh, nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp
thống trị.
Trong từng giai đoạn phát triển của loài người, nhận thức của con
người cũng được phát triển theo, nhưng chỉ đến một giai đoạn nào đó, con
người có nhận thức tối thiểu, thì họ mới sáng tạo ra tôn giáo. Nhưng nhận
thức của con người là hữu hạn so với tự nhiên, nên chính sự hữu hạn của nhận
thức đã dẫn con người nhận thức và giải thích tự nhiên bằng tín ngưỡng, tôn

5


giáo. Lý do là vì họ chưa đủ điều kiện khám phá bản chất các quy luật tự
nhiên và xã hội.
Tình cảm của con người cũng đóng góp to lớn cho việc ra đời của tôn
giáo. Đặc biệt là tình cảm tiêu cực (sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng, cô đơn…)
cũng tạo ra những khả năng thuận lợi cho sự xuất hiện ý niệm tôn giáo, tín
ngưỡng tôn giáo. Việc hình thành các quan niệm tôn giáo xảy ra phần lớn do
ảnh hưởng của sự cố gắng nhân cách hóa thế giới xung quanh, biến các hiện
tượng tự nhiên giống như hành động của con người, biết suy nghĩ, giúp đỡ và
trừng phạt.
Nguồn gốc nhận thức và tâm lý của tôn giáo là những tiền đề, là
những khả năng và điều kiện để hình thành ý thức tôn giáo. Tôn giáo không

thể xuất hiện được nếu không có những tiền đề và khả năng đó. Tuy nhiên,
nguồn gốc nhận thức và tâm lý của tôn giáo chỉ trở thành hiện thực khi có
những điều kiện xã hội nhất định. Như vậy, nhân tố xã hội đóng vai trò quyết
định cho việc xuất hiện tôn giáo. Khi nghiên cứu và giải quyết vấn đề tôn giáo
trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải hiểu được điều đó.
1.2. NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA TÔN GIÁO

1.2.1. Tính lịch sử
Khi nghiên cứu lịch sử ra đời của tôn giáo, chúng ta đã thấy, tôn giáo
ra đời trong điều kiện xã hội nhất định. Hay nói cách khác, lúc đCut tôn giáo
chưa có sẵn trong xã hội loài người. Trong quá trình xã hội (lao động, sản
xuất, chiến tranh…) tôn giáo được con người tạo ra để thỏa mãn những nhu
cầu cấp thiết của xã hội lúc đó. Quá trình phát triển của xã hội loài người,
song song với nó là sự phát triển của tôn giáo. Tôn giáo ra đời ở điều kiện xã
hội, nhận thức và tâm lý của con người cho phép, đến khi điều kiện xã hội,
nhận thức và tâm lý con người không cần đến nó, tôn giáo sẽ dần mất đi.
1.2.2. Tính quần chúng

6


Lúc đầu, tôn giáo ra đời đáp ứng nguyện vọng của quần chúng lao
động, nó đem lại cho họ niềm hy vọng (mặc dù là hư ảo) vào con đường giải
phóng khỏi sự đe dọa của tự nhiên và ách áp bức, bóc lột của giai cấp thống
trị. Tôn giáo đem đến cho họ niềm tin vào cuộc sống, và trở thành cuộc sống
tinh thần không thể thiếu được. Vì lẽ đó, tôn giáo phát triển nhanh chóng,
rộng khắp và ăn sâu vào tình cảm của quần chúng lao động. Nó trở thành
nguồn sống, nếp sống và lẽ sống của con người. Nó góp phần hình thành nhân
cách, thế giới quan duy tâm của con người. Nó trở thành chân lý của đạo đức
xã hội và tôn giáo từng bước là một bộ phận tác động đến việc hình thành nền

văn hóa của dân tộc.
Trên thế giới hiện nay, tôn giáo vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến đông đảo
quần chúng lao động. Đạo Thiên chúa, Đạo Hồi, Đạo Phật… vẫn phát triển và
trở thành đức tin không thể thiếu được trong một bộ phận đông đảo quần
chúng. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến chính sách tự do tín
ngưỡng. Đảng cũng giáo dục và đào tạo cán bộ trên cơ sở lập trường Mác-xít
và thế giới quan duy vật, nhất là thế hệ trẻ, được giáo dục và đào tạo trong
nhà trường hết sức chu đáo. Tuy vậy, ảnh hưởng của tôn giáo không những
không giảm đi mà đến nay nó có chiều hướng phát triển thêm.
Qua đó, ta thấy tôn giáo có tính chất quần chúng sâu sắc và bám chặt
trong đời sống tinh thần của nhân dân lao động. Trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo, chúng ta cần hiểu rõ và quán triệt sâu sắc tính chất này của tôn giáo.
Nếu không có sự quan tâm cần thiết, chúng ta sẽ dễ mắc sai lầm chủ quan duy
ý chí, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
1.2.3. Tính chính trị
Buổi đầu, khi ra đời tôn giáo có giá trị tích cực thực sự và đem đến
cho con người niềm tin vào cuộc sống. Từ khi xã hội phân chia giai cấp, giai
cấp thống trị lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị, biến tôn giáo thành
công cụ áp bức tinh thần đối với quần chúng lao động. Giai cấp bóc lột kết
hợp chặt chẽ thần quyền với thế quyền để củng cố và duy trì địa vị thống trị
của chúng.

7


Khi chủ nghĩa tư bản ra đời, việc sử dụng tôn giáo vào mục đích chính
trị ngày càng mạnh mẽ, với những âm mưu và thủ đoạn nguy hiểm. "… chủ
nghĩa tư bản bao giờ cũng coi tôn giáo và giáo hội hiện đại, tất cả các tổ chức
tôn giáo, đều là những cơ quan của thế lực phản động tư sản, dùng để bảo vệ
chế độ bóc lột và đầu độc giai cấp công nhân" [2, tr. 283].

Giai cấp bóc lột luôn dùng tôn giáo vào mục đích chính trị. Giải quyết
vấn đề tôn giáo bao giờ cũng phải nhớ tính chính trị của nó. Nếu mất cảnh
giác, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế cùng bọn tay sai sẽ
sử dụng tôn giáo chống phá thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Bài học ở Ba Lan là một điển hình, một bài học thất bại đau đớn, mở đCut
cho sự tan vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Một trong những
nguyên nhân là chủ nghĩa đế quốc kết hợp chặt chẽ với tòa thánh Vaticăng
dùng vũ khí tôn giáo đánh tan mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, muốn giải quyết vấn
đề tôn giáo, bắt buộc phải nghiên cứu nguồn gốc, tính chất của tôn giáo. Trên
cơ sở đó, chúng ta mới tìm ra các biện pháp tốt nhất, thích hợp nhất để giải
quyết vấn đề tôn giáo.
1.3. CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA TÔN GIÁO

1.3.1. Chức năng đền bù hư ảo
Xã hội loài người từ khi xuất hiện đến nay, lúc nào cũng mơ có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng trong sự phát triển, con người luôn luôn chưa
vươn tới niềm mơ ước đó.
Xã hội nguyên thủy, con người luôn bị tự nhiên đe dọa, cuộc sống hoàn
toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Xã hội phân chia giai cấp, con người luôn bị giai
cấp thống trị áp bức, bóc lột, cuộc sống cực khổ. Thực tế xã hội không đem lại
cho họ cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Vì vậy, họ đã tìm đến với một thế giới
khác bằng niềm tin tôn giáo. Con người gửi gắm niềm tin và hi vọng vào
phật, chúa thánh và hy vọng tìm được một cuộc sống hạnh phúc ở thế giới bên
kia.

8


Con người tồn tại bằng vật chất, vật chất nuôi sống cơ thể con người.

Nhưng ngoài cuộc sống vật chất, con người còn có cuộc sống tinh thần, đó là
niềm tin vào cuộc sống. Khi không có niềm tin, con người sẽ không sống
được. Trong điều kiện xã hội có giai cấp, khi mà áp bức bóc lột trở thành mối
đe dọa thường trực đối với nhân dân lao động thì con người đã tìm đến niềm
tin tôn giáo và tôn giáo trở thành niềm tin động viên cho họ vượt qua những
khó khăn, đau khổ nhất của cuộc sống. Tuy chỉ là hư ảo nhưng tôn giáo có vai
trò thúc đẩy con người vương lên.
Trong điều kiện kinh tế- xã hội hiện nay ở nước ta, tuy công cuộc đổi
mới đã đem đến cho người dân lao động sự cải thiện trong cuộc sống, nhưng
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội vẫn kìm hãm con người và dẫn họ đến
với niềm tin hư ảo. Trong cuộc sống, họ luôn cầu nguyện có sự may mắn do
thế lực siêu nhiên đem đến. Có khi họ đi tìm hạnh phúc và giàu có không phải
bằng lao động sản xuất ma` bằng cầu cúng thánh, phật.
1.3.2. Chức năng thế giới quan
Đây là chức năng phản ánh hiện thực một cách hoang đường, hư ảo.
Tôn giáo đã vẽ ra bức tranh thế giới hư ảo và bắt buộc những tín đồ hạn hẹp
trong sự hiểu biết đó và hướng con người vào sự giải thích tự nhiên, xã hội
bằng giáo lý tôn giáo.
Đạo phật răn dạy con người phải chịu đựng, cam chịu để khi chết
được đến cõi niết bàn. Đạo Thiên chúa răn dạy con người nhẫn nhục, tu rèn
để khi chết được lên Thiên đàng.
Tôn giáo đã khuôn hạn con người trong nhận thức tôn giáo và làm ảnh
hưởng đến quan hệ giữa người với người, đến mục đích và khuynh hướng xã
hội và đến cả hành vi của con người.
Những hiện tượng tự nhiên, những thiên tai được đều được tôn giáo
nhân cách hóa thành thần, thánh và qua đó cũng giải thích đó là thần, thánh
tạo ra. Quan điểm của tôn giáo về thế giới đã tiêm nhiễm những quan niệm và
nhận thức phản khoa học và thụ động trước cuộc sống, Giai cấp thống trị lợi

9



dụng chức năng thế giới quan của tôn giáo để thực hiện chính sách ngu dân,
giáo dục nhân dân cam chịu cuộc sống ở thế gian, cam chịu áp bức bóc lột,
thủ tiêu tính chiến đấu.
1.3.3. Chức năng điều chỉnh
Chức năng điều chỉnh của tôn giáo là tạo ra một hệ thống chuẩn mực
và giá trị của đạo đức, luân lý. Tôn giáo chấp nhận vai trò của cái siêu nhiên
như một giá trị xã hội cao nhất và xây dựng một hệ thống chuẩn mực, trước
hết là bảo đảm và củng cố niềm tin vào cái siêu nhiên. Những chuẩn mực của
tôn giáo không chỉ trong tiến hành giáo lễ, mà còn điều chỉnh cả hành vi xã
hội của con người, thái độ đối với gia đình, cuộc sống hàng ngày.
Các lý thuyết về xã hội do các tổ chức tôn giáo truyền bá và xây dựng
đã tác động đến hành vi xã hội của con người: các thuyết giáo chứa đựng cả
những điều ngăn cấm với các chi tiết cụ thể để điều chỉnh đạo đức con người
và thái độ của họ với xã hội, gia đình và quan hệ người với người.
Đạo Phật ở Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, hành vi và
nếp sống của nhân dân. Câu "Ở hiền gặp lành" là câu cửa miệng của mỗi con
người Việt Nam. Trong thời kỳ phong kiến, đạo đức Phật giáo đã trở thành
đạo đức xã hội. "Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử" là đạo đức của phụ nữ
trong thời phong kiến. "Trung- hiếu- nghĩa" là chuẩn mực đánh giá con người.
Những chuẩn mực đạo đức, luân lý này còn ảnh hưởng rất sâu sắc đối với
cách đánh giá của con người Việt Nam thời nay.

10


Chương 2
CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI GIAN 1990- 2007


2.1. NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ VIỆC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

Chủ nghĩa Mác- Lênin với mục đích giải phóng nhân dân lao động
khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đem lại ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Ngược lại, tôn giáo là công cụ áp bức tinh thần của chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa tư bản đã kết hợp chặt chẽ giữa thần quyền và thế quyền để nô
dịch quần chúng. Tôn giáo đưa ra con đường giải phóng con người bằng sự
chịu đựng, nhẫn nhục, cam chịu cuộc sống cực khổ ở trần gian để được hưởng
hạnh phúc ở thế giới bên kia sau khi chết đi. Tôn giáo làm cho con người mất
dần ý thức dân tộc, xa rời giác ngộ cách mạng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa,
đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự trên thế gian. Trong tiến trình cách mạng,
Đảng của giai cấp công nhân muốn thực sự giải phóng nhân dân lao động,
trước hết là giải phóng nhân dân khỏi áp bức giai cấp, sau đó giải phóng họ
khỏi áp bức tinh thần của tôn giáo. Chỉ khi đó con người mới có được hạnh
phúc thực sự. Lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với vấn đề tôn giáo là
triệt để giải phóng nhân dân lao động khỏi sự nô dịch của tôn giáo
Những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin về việc giải quyết vấn đề
tôn giáo:
Đấu tranh giải quyết vấn đề tôn giáo phụ thuộc vào cuộc đấu tranh
giai cấp.
Nguồn gốc sinh ra tôn giáo hiện đại là sự áp bức, bóc lột của giai cấp
tư sản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Muốn giải quyết vấn
đề tôn giáo, trước hết phải xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản. Giai cấp

11



công nhân và nhân dân lao động chỉ có thể được giải phóng thực sự bằng cuộc
đấu tranh giai cấp do công nhân lãnh đạo, đập tan nhà nước của giai cấp tư
sản và thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, xã hội mà từng bước xóa bỏ áp bức, bóc lột, từng bước xóa bỏ nghèo
đói và đi đến xã hội tự do, ấm no, hạnh phúc. Trong từng giai đoạn đó, tôn
giáo sẽ dần dần mất đi cùng với sự mất đi của nguồn gốc sinh ra nó.
" Muốn xóa bỏ tôn giáo phải xóa bỏ gốc rễ xã hội của nó, đó là sự
thống trị của tư sản dưới tất cả mọi hình thức của nó" [2, tr. 287].
Đấu tranh giải quyết vấn đề tôn giáo phải phục vụ nhiệm vụ chính trị
của từng giai đoạn cách mạng.
Trong tiến trình cách mạng, Đảng của giai cấp công nhân phải vạch ra
đường lối chiến lược và sách lược của từng giai đoạn cụ thể. Trong từng giai
đoạn đó, giải quyết vấn đề phải phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn
đó. Nói cách khác, trong từng giai đoạn cách mạng, giải quyết vấn đề tôn giáo
để thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng đề ra trong giai đoạn đó.
2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VIỆT NAM

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng tôn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á, ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ dàng cho
việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh
em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân
gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công
với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông
nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng
nguyên thủy (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tôtem giáo, Bái vật giáo,
Saman giáo.


12


Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị ngoại bang xâm lược nên
Lão giáo, Nho giáo- những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập;
Công giáo- một tôn giáo gắn với văn minh châu Âu vào truyền đạo và sau này
đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo và
thu hút người theo đạo.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như
Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như
Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao
Đài, Phật giáo Hòa Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có
những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn
định, đang trong quá trình tìm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang
hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt
hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, Trong đó tập trung đông nhất ở
Hà Nôi, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên- Huế, Đà
Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm
Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ…
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố,
trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kom Tum, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Bình Thuận,
Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang, Cần Thơ…
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ
như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang,

Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang…
- Phật giáo Hòa Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh
Long.

13


- Đạo Tin lành: Khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia
Lai, Đắk Nông, Bình Phước… và một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP
Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận…
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số
nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo,
hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta
thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa,
sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn
hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó cũng là những khó khăn
đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung
và đối với từng tôn giáo cụ thể nói riêng.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn
giáo. Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng
trên dưới 10 triệu người, sống tập trung ở 3 khu vực chính là Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh
sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu
số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các
tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các

dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long với 3 dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng 1 triệu
người.
- Công đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có
1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme.
- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100.000
người Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (Chăm Ixlam) là

14


25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ.
Ngoài ra còn có hơn 30.000 người theo đạo Bà Chăm (Bàlamôn). Hồi giáo
chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi
giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số
theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin
lành. Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo;
đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo
đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn người Dao theo đạo Tin
lành dưới tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông
dân. Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến
80- 85%; của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo là 95%; của đạo Tin lành là
65%. Là người lao động, người nông dân nên tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam
rất cần cù trong lao động, sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai
đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với tầng lớp nhân dân làm nên nhiều

chiến thắng to lớn của dân tộc.
Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài đang thực
hiện chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá cách mạng nước ta. Trong
chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn
giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và
được thực hiện qua nhiều thủ đoạn.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt
Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn của Đảng và Nhà nước hoạch định
chủ, chính sách đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.
2.3. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO GIAI ĐOẠN 1990- 2007

15


2.3.1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tôn giáo và
công tác tôn giáo
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo,
hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện
bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ
khi Đảng mới thành lập.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội Phản
đế Đồng minh (18/11/1930), Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn
giáo tự do tín ngưỡng của quần chúng: "… phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt
hay tập đoàn nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng

hóa quần chúng và đảm bảo tự do tín ngưỡng cho quần chúng…"[4, tr. 231].
Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp
đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(3/9/1945): "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết", coi đó là một trong 6
nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ. Ngày 14/6/1955, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh
234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của
nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và
giúp đỡ nhân dân thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù
phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm
đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11/6/1964, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo sắc lệnh
234.

16


Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày
11/11/1977, Chính phủ ban hành nghị quyết số 297-Chính phủ về "Một số
chính sách tôn giáo", trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp
ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng
đã ban hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị
định 59-HĐBT là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá
trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi
mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân.
Qua đó phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào
theo tôn giáo, góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính
trị.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái
độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những
hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống
phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nhiệm vụ công dân". Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện
nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời
chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân".
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng
bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện
công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn
giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín

17


ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24, Đảng đã tổng kết,
đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính
trị ra chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 2/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình
mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
bẩy, khóa IX về công tác tôn giáo (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003)
quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được
khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới
của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh
rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con
người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo
tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo
nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân tôn
giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".
Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4
hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên năm
1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: "Mọi công dân Việt có
quyền tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B) [3, tr10]. Từ những nguyên tắc
cơ bản đó, điều 68 Hiến pháp 1980 ghi rõ: "Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" )[3, tr98, 99]. Điều 70
của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ
sung rõ hơn: "Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.

18


Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" [3,
tr.159].
Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản

quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động
tôn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số
23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa trước ngày 1/7/1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về thanh
tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Cư trú…
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công
dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và
được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ
cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP,
ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày
18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29/6/2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo gồm 6 chương:
- Chương I: Những quy định chung. Gồm 8 điều (từ điều 1 đến điều
8).
- Chương II: Hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt
động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 6 điều (từ điều 9 đến
điều 14).
- Chương III: Tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo.
Gồm 10 điều (từ điều 16 đến điều 25).
- Chương IV: Tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động
xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 8 điều (từ
điều 26 đến điều 33).
- Chương V: Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu
hành, chức sắc. Gồm 4 điều (từ điều 34 đến điều 37).
19


- Chương VI: Điều khoản thi hành. Gồm 4 điều (từ điều 38 đến điều 41).
Ngày 1/2/2007, tại Hà Nội, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao

Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo công bố Sách Trắng về Tôn giáo và Chính
sách tôn giáo ở Việt Nam nhằm giúp cho nhân dân trong và ngoài nước, bạn
bè quốc tế hiểu hơn về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam cũng như
chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với công tác tôn giáo.
Sách Trắng có 86 trang, gồm 3 chương:
- Chương I : Giới thiệu về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong đó
giới thiệu vài nét về tín ngưỡng của tôn giáo Việt Nam; các tôn giáo Việt
Nam.
- Chương II: Đề cập Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tín
ngưỡng, tôn giáo bao gồm các phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh với tín ngưỡng,
tôn giáo; Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín
ngưỡng, tôn giáo; Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo và tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; Kết quả việc thực hiện chính sách và pháp
luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; Các tôn giáo Việt
Nam đồng hành cùng dân tộc.
- Chương III: Nói về Quan hệ quốc tế của các tôn giáo; Giới thiệu về
quan điểm của Nhà nước Việt Nam về quan hệ quốc tế của tôn giáo và quan
hệ quốc tế của các tôn giáo.
Sách Trắng đã khẳng định "Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện
nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân với mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó
đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung". Sách Trắng cũng nhấn mạnh:
"Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt
Nam, vì vậy Nhà nước Việt Nam có những chính sách phục vụ cho những
nhu cầu đó".

20



Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Sách Trắng về Tôn giáo và Chính
sách tôn gáo ở Việt Nam đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiều mặt trong vấn
đề tôn giáo của Việt Nam. Nó một lần nữa khẳng định sự đúng đắn và bổ
sung cho chính sách tôn giáo của Đảng được thông qua trong Hiến pháp 1992
và Nghị định số 26/1999/NĐ-CP. Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Sách
Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn gáo ở Việt Nam ra đời là một minh
chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất
quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn
trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công
tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2/8/1955 thành lập Ban Tôn
giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày
nay) để "nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của
Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở
Trung ương và theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực
hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các
tổ chức tôn giáo".
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có
thể chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955- 1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức
năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn
giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 234-SL về tôn giáo.
Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn
giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng
đất nước ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn,
đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ
Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.


21


- Thời kỳ 1975- 1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực
hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện
đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn
giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11/11/1977 về hoạt động
tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống
nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo
phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù
địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng
và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tôn
giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương
ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công tác tôn giáo như:
Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16/10/1990 về đổi mới công tác tôn giáo trong
tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 về Tăng cường công tác tôn
giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21/3/1991 và sau này là
Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham
mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25NQ/TƯ ngày 12/3/2003 về Công tác tô giáo. Để thể chế hóa tư tưởng đổi mới
đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn giáo Chính phủ phối
hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính
phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương độc lập hạng Nhất và để
khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập

cơ chế quản lý theo ngành- một số ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm,
ngày 27/5/2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy
ngày 2/8 hàng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn

22


giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ
làm công tác tôn giáo trong cả nước.
Trong suốt thời gian tăng cường bổ sung, hoàn thiện những chính sách
về tôn giáo, bên cạnh đó Đảng và Nhà nước còn quan tâm đến vấn đề đào tạo
cán bộ cho công tác tôn giáo. Mới đây, ngày 8/6/2007, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định 83/2007/QĐ-TTg phê duyệt "Đề án đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà
nước về tôn giáo" giai đoạn 2006- 2010.
Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về tôn giáo giai đoạn 2006- 2010 có mục tiêu
trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, từng bước
hoàn thiện, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức theo từng chức danh của
cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị- xã hội và các trường chính trị các cấp về hoạt động tôn giáo.
2.3.2. Tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế- xã hội vùng đồng bào các tôn giáo và mở rộng các hoạt động đối
ngoại trong lĩnh vực tôn giáo
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không
phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị
quyết của Đảng mà còn được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ
chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn

ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người
hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có
33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu
sĩ; Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức
sắc, chức việc; Phật giáo Hòa Hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức

23


sắc. Phật giáo có 3 học viện Phật giáo với trên 1000 tăng ni sinh, 30 trường
trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng Phật học với 3.940 tăng ni sinh theo
học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và
1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên Hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh 2 khóa với 150 học sinh. Hiện
có hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước
trên thế giới.
Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được
xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động
về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán
của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ
các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.
Cùng với việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân và tạo điều kiện cho mọi người có thể tham gia tôn giáo cũng như bảo
đảm cho sự phát triển của mỗi tôn giáo, Đảng và Nhà nước còn tăng cường
đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào
các tôn giáo.
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng
như Chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta đã xác
định, việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát

triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong
đó có đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng hàng đCut của công tác
tôn giáo. Từ nhiệm vụ tổng thể trên, các chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế- xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, miền núi phía Bắc,
đồng bằng sông Cửu Long,… được xác định khá cụ thể trong việc phát triển
kinh tế, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân.

24


Các bộ, ngành, trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương xây
dựng định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tếxã hội của các vùng, các địa phương đều đã gắn với kế hoạch chung của cả
nước về chính sách hỗ trợ đất và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; về công tác định canh, định cư cho đồng bào dân
tộc thiểu số; về phát triển văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng có đông các đồng bào tôn giáo khó khăn, các xã, bản nghèo,…
Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối nguồn lực bảo đảm thực hiên
các chương trình, mục tiêu quốc gia như: Chương trình xóa đói giảm nghèo,
Chăm sóc sức khỏe, Phát triển giáo dục, Văn hóa thông tin… Các chương
trình này được chú trọng và ưu tiên đã tạo điều kiện tốt cho việc bố trí nguồn
lực ở các xã, thôn, bản có đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo. Quá
trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trong các vùng, miền trọng điểm
như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả ban đầu
quan trọng, tạo lập được niềm tin của đại đa số đồng bào dân tộc nói chung,
đồng bào theo đạo nói riêng đối với Đảng và Nhà nước. Điều này đã góp phần
giữ vững ổn định tình hình xã hội, an ninh chính trị ở các vùng; đồng thời, tín
ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm, đoàn kết dân tộc được củng cố.

Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo đã được ghi nhận và cân đối trong
các kế hoạch, cơ chế, chính sách của các bộ, ngành liên quan và của ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là cơ sở để cân đối
và bảo đảm nguồn lực phát triển hài hòa của hệ thống chính sách của Nhà
nước.
Kết quả thực hiện các chương trình kinh tế- xã hội thời gian qua với
số vốn hàng trăm tỉ đồng đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo nói riêng, góp phần ổn
định và phát triển, làm cho đồng bào an tâm, đoàn kết xây dựng đời sống "tốt
đời, đẹp đạo". Một bộ phận lớn đồng bào dân tộc, tôn giáo được giao đất ở,
đất sản xuất; được hướng dẫn kỹ thuật, được vay vốn, nhận các điều kiện hỗ
trợ cần thiết để sản xuất, tăng thu nhập; tích cực tham gia xây dựng đời sống

25


×