Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO xây DỰNG QUÂN đội về CHÍNH TRỊ TRONG GIAI đoạn mới ý NGHĨA đối với VIỆC đấu TRANH CHỐNG PHI CHÍNH TRỊ HOÁ QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.74 KB, 35 trang )

xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn mới. ý
nghĩa đối với việc đấu tranh chống phi chính trị hoá
quân đội hiện nay
1. MỞ ĐẦU

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: xây dựng quân đội kiểu mới về chính
trị là cơ sở để xây dựng quân đội về mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội là một nguyên lý bất di, bất dịch. Tuy
nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử, do bối cảnh của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc trong nước và quốc tế; do sự tác động của những điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội; do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, mà yêu cầu, nội
dung cụ thể của xây dựng quân đội về chính trị có sự phát triển phù hợp với giai
đoạn đó.
Việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong giai đoạn
hiện nay đang đặt ra những vấn đề rất mới cả về nhận thức, tổ chức và hoạt động
thực tiễn, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội ta về chính
trị phù hợp với những yêu cầu trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam,
góp phần nâng cao chất lượng chính trị của quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Mặt khác, trước tình hình thế giới và trong nước diễn biến hết sức phức
tạp, tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội mà trực tiếp là sự phát triển đất
nước và bảo vệ Tố quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực phản động đang thực hiện âm mưu dùng chiến
tranh tổng lực với nhiều các biện pháp khác nhau: phi vũ trang và vũ trang, bằng
chiến lược “diễn biến hoà bình”. Dưới các chiêu bài như lợi dụng vấn đề dân
tộc, tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, chống khủng bố, tham nhũng...để can thiệp
vào công việc nội bộ của đất nước ta. Hiện nay, chúng đang thực hiện chống phá
ta về chính trị tư tưởng nhằm xoá bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; chúng dùng các biện pháp nguỵ trang đòi “phi chính trị hóa quân đội”,


quân đội đứng ở vị trí trung lập...Tình hình đó tác động rất lớn đối với nhân dân
ta nói chung và với quân đội nói riêng.
Vì vậy, để chuẩn bị chu đáo, đối phó kịp thời và có hiệu quả, không bị bất
ngờ với tình hình đó thì việc xây dựng và tăng cường tiềm lực chính trị cho quân
đội ta là tất yếu và càng trở lên cấp bách hiện nay.


2

2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN

2.1. Tính tất yếu xây dựng quân đội về chính trị hiện nay.
Có thể nói rằng, việc xây dựng quân đội về chính trị là yêu cầu tất yếu khách
quan, là quy luật của chiến tranh cách mạng và chiến tranh giải phóng dân tộc, nó
xuất phát từ những lý do sau đây:
Một là, xuất phát từ lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin xây dựng quân đội
về chính trị.
Cũng như giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng
chính trị- xã hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và quân đội gắn chặt với sự xuất hiện
của giai cấp và nhà nước. Quân đội ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của
xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài người bị phân chia thành giai
cấp. Khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì cũng đẻ ra thiết chế
xã hội mới về chất là quân đội. Bản chất của quân đội là công cụ của nhà nước, giai
cấp tổ chức ra nó, trung thành với lợi ích của giai cấp, nhà nước; nhà nước nào tổ
chức ra quân đội thì đều phải quan tâm đến nó. Lênin viết: “Giai cấp vô sản muốn
là giai cấp thống trị và nếu nó thực sự thống trị, thì nó phải tỏ rõ điều đó bằng tổ
chức quân sự của mình”1. Theo Ăngghen: “Quân đội là một tập đoàn người vũ
trang có tổ chức, do nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công
hoặc chiến tranh phòng ngự”2. Đây là định nghĩa kinh điển về quân đội, cho chúng
ta phương pháp luận để định nghĩa quân đội hiện nay. Theo đó, “Quân đội, tổ chức

vũ trang chuyên nghiệp (tập trung, thường trực) do một tập đoàn nhà nước, tập
đoàn chính trị hoặc phong trào chính trị làm chức năng nhà nước xây dựng để tiến
hành đấu tranh vũ trang nhằm thực hiện mục đích chính trị của nhà nước, tập đoàn
hay phong trào đó”3. Vì vậy, quân đội là công cụ bạo lực của nhà nước, của giai
cấp nhất định do đó quân đội thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp, nhà nước đã
tổ chức và nuôi dưỡng nó mà chủ yếu phục vụ cho chiến tranh. Về vấn đề này,
Lênin khẳng định: “Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp
khác (cụ thể là bằng bạo lực)”4. Tức là phải tổ chức ra lực lượng vũ trang để thực
hiện mục tiêu đề ra. Theo quan điểm của Claudơvít- một trong những tác giả sâu
sắc nhất về những vấn đề quân sự đã viết: “Chiến tranh chỉ là sự kế tục đơn
thuần của chính trị bằng những biện pháp khác” 5. Lênin đánh giá cao luận điểm
đó, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của ông hiểu về chính trị như là trí tuệ
của quốc gia, chính trị chung chung. Ông viết: “Chiến tranh chỉ là một sự tiếp tục
của chính trị bằng những biện pháp khác. Đó là công thức của Claudơvít, một trong
những cây bút vĩ đại viết về lịch sử chiến tranh; những tư tưởng của ông đã được
V.I.Lênin, Bàn về bảo vệ tổ quốc, Nxb QĐND, H. 1975.
Giáo trình Học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và quân đội, Nxb QĐnd, H 2001, tr 160.
3 Giáo trình Học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và quân đội, Nxb QĐnd, H 2001, tr 160- tr 161.
4 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, Tập 26, tr 397.
5 Giáo trình Học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh và quân đội, Nxb QĐND, H. 2001, tr 79.
1
2

2


3

Hêghen làm cho phong phú thêm. Và quan điểm của Mác và Ăngghen luôn luôn
cũng chính là như vậy, các ông coi bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng đều là sự tiếp

tục của chính trị của một số cường quốc hữu quan nào đó- và của các giai cấp khác
nhau trong nội bộ những cường quốc đó- trong một thời gian nhất định”6. Như vậy,
sự xuất hiện quân đội trong lịch sử bao giờ cũng gắn với chế độ tư hữu, giai cấp và
nhà nước và chiến tranh. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo
lực; quân đội là công cụ để tiến hành chiến tranh, để thực hiện mục đichd chính trị
của một giai cấp, một nhà nước nhất định. Trong đó quân đội là công cụ chủ yếu
nhất để thực hiện mục đích chính trị của chiến tranh do giai cấp, nhà nước phát
động. Nhưng Lênin chỉ ra sự khác nhau cơ bản giữa “chính trị” mà giai cấp vô sản
quan niệm với thứ “chính trị” như cách hiểu của Claudơvít. Theo đó, Lênin khẳng
định: “chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế”7, và “chính trị là mối quan hệ
giữa các giai cấp các dân tộc”8, chính trị là sự thống nhất giữa đường lối đối ngoại
và đường lối đối nội. Như vậy, theo cách hiểu của Lênin thì quân đội là lực lượng
đặc biệt của một giai cấp, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của nhà nước để tiến
hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích chính trị và cuối cùng là mục đích kinh
tế của giai cấp. Như vậy, chiến tranh và quân đội có mối liên hệ chặt chẽ với chính
trị- chính trị giai cấp và với kinh tế.
Như vậy, quan điểm của Lênin đó là sự lệ thuộc của những mục đích chính
trị đối với các lợi ích kinh tế và chính trị của các giai cấp và các nhà nước đang đấu
tranh với nhau. Chính luận điểm này mà Ông đã phát triển nên một tầm cao mới về
bản chất của chiến tranh. Lênin viết: “Chiến tranh chẳng qua chỉ là chính trị từ đầu
đến cuối, chỉ là sự tiếp tục thực hiện cùng những mục đích... của các giai cấp...với
những phương pháp khác mà thôi”9. Nếu áp dụng quan điểm đó vào xem xét cuộc
chiến tranh hiện tại, chúng ta sẽ thấy được rằng đó là cuộc chiến tranh ăn cướp, nó
mang mục đích chính trị của các nước đế quốc, của giai cấp áp bức bóc lột. Như vậy,
theo Lênin đây là cơ sở khoa học để các nhà kinh điển đánh giá các cuộc chiến tranh,
kể cả chiến tranh hiện tại: “Chỉ cần xét cuộc chiến tranh hiện tại, trên phương diện là
một sự tiếp tục của chính trị của những cường quốc “lớn” và của những giai cấp chủ
yếu trong các cường quốc ấy, là đủ thấy ngay được tính chất phản lịch sử rành rành,
tính chất lừa bịp, giả dối của các ý kiến cho rằng có thể biện hộ cho tư tưởng “bảo vệ
tổ quốc” trong cuộc chiến tranh này”10. Lênin đặc biệt chú ý đến mục đích chính trị,

không nên áp đặt mục đích chính trị một cách chung chung. Bởi vì, theo Lênin,
“Trong lịch sử, đã từng nhiều lần có những cuộc chiến tranh tiến bộ,- mặc dù
những cuộc chiến tranh này, cũng như bất cứ cuộc chiến tranh nào khác, không
tránh khỏi đem lại những nỗi khủng khiếp, tai hoạ, đau khổ,- nghĩa là những cuộc
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, Tập 26, tr 275- tr 276.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, Tập 42, tr 349.
8 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, Tập 49, tr 500.
9 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1981, Tập 32, tr 32, tr 356.
10 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, Tập 49, tr 398.
6
7

3


4

chiến tranh có ích cho sự phát triển của nhân loại, góp phần tiêu diệt những chế độ
đặc biệt có hại và phản động”11. Đó là những cuộc chiến tranh do giai cấp bị áp bức
tiến hành nhằm xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột; muốn tiến hành chiến tranh thì nhà
nước, giai cấp đó phải tổ chức ra quân đội- là lực lượng chính trị đặc biệt, và rõ
ràng, quân đội không thể đứng ngoài chính trị.
Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của quân đội, để làm cho
quân đội kiểu mới thực sự trung thành và phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, Mác,
Ăngghen và Lênin hết sức chăm lo xây dựng quân đội về chính trị, nhất là chăm lo
củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội, coi đó là vấn đề
sống còn của quân đội cách mạng, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ bản
trong xây dựng quân đội kiểu mới. Trong quá trình xây dựng quân đội về chính trị,
các ông thường xuyên quan tâm xây dựng trên cả ba phương diện chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Đó là việc giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp

công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác- Lênin và đường lối, nguyên tắc tổ chức của
giai cấp công nhân cho quân đội.
Như vậy, xây dựng quân đội về chính trị theo nghĩa đó là cả yếu tố chính trị
tinh thần và yếu tố chính trị vật chất của quân đội (xây dựng tổ chức quân đội), đây
là những yếu tố cơ bản, quyết định trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Theo lý
luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin bàn về chiến tranh và quân
đội, các ông đều cho rằng, muốn đánh giá đúng đắn khả năng chiến đấu của quân
đội, không chỉ xem xét yếu tố vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, mà còn phải xem
xét đến tinh thần quyết chiến, khả năng chịu đựng gian khổ của nó trong chiến
tranh. Lênin viết: “Trong mọi cuộc chiến tranh rút cuộc thắng lợi hay thất bại đều
tuỳ thuộc vào tâm trạng của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”12. Điều đó
cho ta thấy sự khẳng định của Lênin như là một chân lý, như một quy luật khách
quan quan trọng nhất của chiến tranh. Quy luật này thể hiện đặc biệt rõ nét (có tính
chất điển hình) trong những cuộc chiến tranh mà một bên theo đuổi mục đích chính
nghĩa, còn một bên là xâm lược.
Yếu tố chính trị giữ vai trò quyết định trong chiến tranh. Bởi vì, yếu tố chính
trị tinh thần khi được thấm nhuần, nó trở thành sức mạnh vật chất, làm cho sức
mạnh chiến đấu của quân đội được tăng lên gấp bội. Chỉ có tinh thần chính trị cao
thì quân đội mới có thể chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh ác liệt của cuộc
chiến tranh hiện đại, nâng cao hiệu quả của các loại vũ khí hiện đại ở mức cao nhất.
Ngược lại tinh thần chính trị thấp sẽ làm cho quân đội không những không có sức
chiến đấu mà còn mất phương hướng mục tiêu chính trị, không sử dụng và phát
huy hiệu quả vũ khí trang bị cho dù vũ khí tối tân hiện đại. Do vậy, việc xây dựng

11
12

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, Tập 26, tr 390- tr 391.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1979, Tập 41, tr 147.


4


5

quân đội về chính trị là một vấn đề tất yếu, cơ bản hàng đầu quyết định sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
Như vậy, Mác, Ăngghen và Lênin còn quan tâm xây dựng, củng cố và phát
triển mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân; các mối quan hệ trong nội bộ quân
đội; quan hệ “cán- binh”; tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật trên cơ sở thống nhất
về nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị
giữa các quân đội xã hội chủ nghĩa; nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối
với quân đội; đấu tranh bác bỏ luận điểm sai lầm và phản động của giai cấp tư sản v.v..
Hai là, xuất phát từ việc xây dựng quân đội về chính trị theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
về xây dựng quân đội kiểu mới vào điều kiện cụ thể của nước ta; kinh nghiệm và
truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam; kế thừa tinh hoa quân sự
nhân loại; trực tiếp là tham gia lãnh đạo các cuộc đấu tranh, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận về chiến tranh, quân đội ở các nội dung
cơ bản của nó. Hồ Chí Minh đã khẳng định nhiều nội dung đối với quân đội trong
đó khẳng định sự ra đời của quân đội là tất yếu lịch sử, là vấn đề có tính quy luật
trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt
Nam.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, trên cơ sở nắm vững lý luận
chủ nghĩa Mác- Lênin, nắm vững đặc điểm xã hội và điều kiện cụ thể của Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
phải xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, từ lực lượng chính trị mà phát
triển thành lực lượng quân sự, từ đấu tranh chính trị mà chuyển thành đấu tranh
quân sự. Hồ Chí Minh đã lập luận và cho rằng sự ra đời của quân đội là tất yếu, nó

xuất phát từ nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Người viết: “Dân tộc Việt Nam
nhất định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có lực lượng quân sự.
Muốn có lực lượng quân sự phải có tổ chức”13. Cùng với việc tổ chức ra quân đội,
theo Hồ Chí Minh phải chú trọng xây dựng bản lĩnh chính trị cho quân đội, coi
trọng giáo dục, nuôi dưỡng, xây dựng phẩm chất chính trị cho quân đội, đó là cơ sở
để xây dựng quân đội cách mạng. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân, Chỉ thị nêu rõ: “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự” 14, “Quân sự mà không có chính trị như
cây không có gốc, vô dụng lại có hại”15. Hồ Chí Minh lập luận rằng chính trị không
chỉ có chính trị tinh thần mà chính trị bao hàm tổng hoà các yếu tố tạo nên sức
mạnh chiến đấu của quân đội. Người viết: “Chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh
Hồ Chí Minh, Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H. 1962, tr 125.
Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb CTQG, H. 2001, Tập 5, tr 768.
15 Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb CTQG, H. 2001, Tập 6, tr 318.
13
14

5


6

giặc”16. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng quân đội về
chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và
tính dân tộc của quân đội làm cho quân đội ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung
thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Tư tưởng của Hồ Chí
Minh về xây dựng quân đội về chính trị biểu hiện ở các nội dung cơ bản như sau:
Người đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng quân đội về chính trị, lấy xây dựng chính
trị làm cơ sở cho mọi mặt xây dựng khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh
thần là một trong những nhân tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến

tranh; tăng cường củng cố bản chất giai cấp công nhân cho quân đội nhân dân,
trong đó thành phần tham gia quân đội cơ bản là con em các tầng lớp lao động, chủ
yếu là nông dân, đó là đóng góp lớn của Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng quân
đội kiểu mới; bên cạnh đó Người luôn quan tâm đến việc xây dựng toàn diện các
yếu tố khác tạo thành sức mạnh chiến đấu tổng hợp của quân đội cách mạng, không
tuyệt đối hoá vai trò của yếu tố chính trị- tinh thần. Thực tiễn đã chứng minh hơn
60 năm xây dựng quân đội về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo
nên được sức mạnh chính trị tinh thần to lớn của quân dội ta để chiến đấu và chiến
thắng những đội quân xâm lược nhà nghề, góp phần vào sự nghiệp độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xuất phát từ cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, đấu tranh ý thức hệ ở
nước ta hiện nay.
Hiện nay, cùng với những tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư
sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng công khai và chủ nghĩa cơ hội hữu
khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất cách mạng của
quân đội ta. Chiến lược “Diễn biến hoà bình” của kẻ thù rất coi trọng mặt trận tư
tưởng và văn hoá trong chống phá cách mạng nước ta, bằng nhiều thủ đoạn khác
nhau chúng làm th hoá về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sỹ,
làm cho quân đội ta biến chất về chính trị.
Vì vậy, cuộc đấu tranh trên ý thức hệ đang diễn ra ngày càng gay gắt, đây là
cuộc chiến không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ
thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, đòi hỏi Quân đội phải chỉ chiến đấu
trên mặt trận lý luận tư tưởng mà còn phải chống lại cả nguy cơ “tự diễn biến” từ
bên trong, vì vậy phải xây dựng chính trị để giữ vững cuộc đấu tranh này. Đồng
thời có những biện pháp cần thiết để giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống
tinh thàn của quân đội, là một nội dung rất cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến xây
dựng quân đội về chính trị.
Bốn là, xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội, giai cấp ở nước ta hiện nay.
16


Hồ Chí Minh, Toàn Tập, Nxb CTQG, H. 2001, Tập 6, tr 319.

6


7

Hiện nay, chúng ta đang xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích
cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sỹ trong
quân đội, lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị
đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ chế độ được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị- tinh thần
của quân đội ta.
Mặt khác, Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta
đang chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho bộ mặt kinh tế- xã hội có biến đổi, do đó
nó làm phân hoá, phân tầng giai cấp xã hội. Một mặt, có xu hướng xích lại gần
nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt khác, cơ cấu
xã hội- giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, thâm nhập vào nhau,
vừa hợp tác, vừa đấu tranh dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị- tư tưởng, sự
xuất hiện các khuynh hướng chính trị- tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập nhau là
điều kiện không thể tránh khỏi; do đó thành phần tham gia vào Quân đội có những
biến đổi, nó sẽ tác động đến quá trình xây dựng quân đội về chính trị; cùng với sự
biến đổi đó là nhiều thành phần gia nhập vào Quân đội, vì vậy, phải xây dựng quân
đội về chính trị.
Tuy nhiên, bên cạch sự tác động tích cực của sự biến đổi kinh tế- xã hội đến
xây dựng quân đội về chính trị, nền kinh tế nhiều thành phần và mặt trái của cơ chế
thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới trên mọi phương diện, tác động

không nhỏ đến xây dựng quân đội về chính trị như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá về phẩm chất đạo đức lối
sống ở một bộ phận cán bộ chiến sỹ bị giảm sút.
Vì vậy, đòi hỏi phải kiên định con đường xã hội chủ nghĩa giữ vững định
hướng chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa mà
Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn là
vấn đề cốt tử trong xây dựng quân đội về chính trị, đồng thời làm nòng cốt cho giữ
vững định hướng chính trị trong xây dựng đất nước.
Năm là, xuất phát từ cuộc khủng hoảng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu và Liên xô hiện nay.
Sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu, đây là bài học đau
xót và là lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác- Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới, nhất là vấn đề xây dựng quân
đội về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội
kiểu mới. Mặt khác, sự sụp đổ đó đã làm cho tương quan so sánh lực lượng giữa
cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội, nó tác động

7


8

mạnh mẽ đến tư tưởng chính trị của cán bộ chiến sỹ Quân đội ta trên nhiều phương
diện. Sự sụp đổ đó có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về sự sụp đổ về
xây dựng chính trị. Cuộc đấu tranh giai cấp dân tộc tiếp tục diễn ra trong điều kiện
mới, nội dung mới, hình thức phức tạp, dưới những sứac thái mới, mà tính chất của
chúng không kém phần gay go, quyết liệt. Vì vậy phải xây dựng Quân đội về chính
trị để quân đội đứng vững trước các vấn đề phức tạp đó.
Sáu là, xuất phát từ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong giai đoạn mới.

Hiện nay, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dan trong giai đoạn
hiện nay có bước phát triển mới. Tư duy bảo vệ Tổ quốc đã phát triển thành tư duy
mới một cách toàn diện hơn bao gồm các lĩnh vực, như Văn kiện Đại hội Đảng
cộng sản Việt Nam lần thứ X đã xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”17. Như vậy, bảo vệ Tổ quốc hiện nay bao
gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng
quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến
tranh, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi để phát triển đất nước, đồng thời chuẩn bị
sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ
quốc phòng an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng
kinh tế, xây dựng đất nước. Trong đó nhiệm vụ xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau.
Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển với tốc độ
phi thường, nó đã đật được những tiến bộ vượt bậc, làm xuất hiện nhiều nhân tố
mới, tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội thế giới, chủ nghĩa đế quốc
đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang lợi dụng những thành tựu
khoa học đó vào lĩnh vực quân sự, chúng sử dụng vũ khí công nghệ cao làm đòn
răn đe, đồng thời sử dụng nhiều phương thức khác nhau trong đó có phương thức
phi vũ trang, chúng sử dụng chiến lược “Diễn biến hoà bình”, sử dụng các biện
pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá, lối sống...nếu không thành công chúng sẽ
sử dụng đòn đánh phủ đầu bằng vũ khí công nghệ cao. Trong những hình thức đó,
chúng đang chống phá chúng ta về chính trị tư tưởng và coi đó là biện pháp hàng
đầu. Vì vậy, với chúng ta cũng phải đặt xây dựng mặt trận chính trị tư tưởng cũng
phải được đặt lên hàng đầu và hết sức cần thiết để chống lại âm mưu thủ đoạn đó
của kẻ thù.

17

ĐCSVN, Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb CTQG, H. 2006, tr 175.

8


9

Mặt khác, một bộ phận cán bộ chiến sỹ ta xa rời bản chất giai cấp công nhân,
mơ hồ mục tiêu lý tưởng, dao động tư tưởng, phẩm chất lối sống bị sa sút...Vì vậy,
phải xây dựng Quân đội tinh nhuệ về chính trị.
Tóm lại, xuất phát từ những vấn đề nêu trên đòi hỏi việc xây dựng quân đội về
chính trị trong tình hình hiện nay vừa mang tính tất yếu khách quan, vừa là nhiệm
vụ cơ bản lâu dài, đồng thời cũng vừa trở lên cấp bách hiện nay.
2.2. Nội dung xây dựng quân đội về chính trị hiện nay.
2.2.1. Vai trò xây dựng quân đội về chính trị hiện nay
Xây dựng quân đội về chính trị là vấn đề cơ bản, quan trọng nhất trong nâng
cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị là gốc, là cơ sở cho nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta hiện
nay. Biểu hiện trên các vấn đề sau đây:
Một là, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là nhằm làm cho
Quân đội ta thực sự là công cụ sắc bén chủ yếu của Đảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị là nhằm làm cho Quân
đội ta thực sự là công cụ sắc bén chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta để sẵn sàng đối
phó với mọi tình huống.
Hai là, sự ổn định chính trị của Quân đội sẽ góp phần ổn định chính trị của đất
nước; giữ vững định hướng chính trị cho Quân đội sẽ góp phần giữ vững định
hướng chính trị của đất nước

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quần chúng được vũ trang, là tổ
chức chính trị xã hội- tổ chức đặc biệt. Vì vậy, sự ổn định chính trị của Quân đội sẽ
góp phần ổn định chính trị của đất nước.
Nếu như Quân đội nhân dân Việt Nam bị chệch hướng về chính trị thì đó là
nguy cơ của đất nước. Quân đội là cơ sở xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, là
thành phần cấu thành của Nhà nước ta. Do đó Quân đội bị chệch hướng thì đó là
nguy cơ của đất nước.
Ba là, phải giữ vững bản chất, mục tiêu chiến đấu cho Quân đội ta.
Bản chất của Quân đội ta là công cụ bạo lực vũ trang của Đảng cộng sản Việt
Nam và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích căn
bản của Đảng và của Nhà nước ta.
Bản chất giai cấp của Quân đội ta mang bản chất cách mạng của giai cấp công
nhân, trong đó thống nhất tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Sự thống
nhất đó xem như một biểu hiện có tính quy luật của quá trình phát sinh, phát triển
của quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, đó là thể hiện tính đặc thù, đặc sắc ở

9


10

Việt Nam. Tính nhân dân của quân đội ta được bắt nguồn một cách khách quan, từ
sự nghiệp chiến đấu của quân đội ta: “Bộ đội ta là bộ đội của dân” 18, do đó quân
đội ta mang tính nhân dân rộng rãi và sâu sắc. Mặt khác, thành phần xuất thân của
cán bộ chiến sĩ của quân đội ta phần lớn từ nông thôn, là con em của các tầng lớp
nhân dân lao động, của các dân tộc anh em trong cộng đồng người Việt Nam, tự
giác gia nhập quân đội. Tuy nhiên, tính nhân dân không tự nhiên hình thành và phát
triển, mà phải thông qua giáo dục, rèn luyện trong thực tiễn chiến đấu dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chính sự gắn bó máu thịt giữa quân đội với
nhân dân đã bảo đảm cho quân đội “trung với nước, hiếu với dân”.

Mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta thống nhất với mục tiêu của Đảng và Nhà
nước ta đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bởi vì quân đội ta là một bộ
phận trọng yếu của kiến trúc thượng tầng, là công cụ của Đảng cộng sản Việt Nam
và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ra đời do nhu cầu giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng người lao động, nhằm thực hiện mục tiêu
cao cả nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Do đó, mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến đấu của quân đội ta.
Thực tiễn đã chứng minh sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và
tính dân tộc của quân đội ta.
Bốn là, xây dựng Quân đội về chính trị để vô hiệu hoá âm mưu “diễn biến
hoà bình” của kẻ thù đối với Quân đội ta.
Hiện nay, kẻ thù đang tiến công vào quân đội, với chiêu bài hết sức thâm độc
là đòi tách sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân
Việt Nam. Do đó, việc xây dựng Quân đội về chính trị sẽ vô hiệu hoá âm mưu
“diễn biến hoà bình” của kẻ thù đối với Quân đội ta.
2.2. 2. Nội dung xây dựng quân đội về chính trị hiện nay .
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, do
Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức lãnh đạo, giáo dục và
rèn luyện, chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động nhằm giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản ở Việt Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, chiến đấu vì mục tiêu lý
tưởng của Đảng, vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, nó vừa có tính giai cấp, tính nhân
dân sâu sắc, vừa mang tính quốc tế cao cả. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, là công cụ bạo lực sắc
bén của Nhà nước chuyên chính vô sản, chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc, vì
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và trên thế giới. Vì vậy, xây dựng
18

Hồ Chí Minh, Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H 1962, tr 215.


10


11

Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện, trong đó lấy xây dựng về mặt
chính trị là nhiệm vụ cơ bản xuyên suốt trong quá trình tổ chức, xây dựng, chiến
đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Xây dựng quân đội về chính trị trước hết phải
giáo dục sâu sắc chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để quân đội giác
ngộ mục tiêu lý tưởng, giác ngộ định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất trí với các quan
điểm đường lối của đảng trong từng giai đoạn. Phải giác ngộ cho quân đội thấm
nhuần những quan điểm của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh trong giai
đoạn hiện nay, đặc biệt là hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sự kết hợp giữa quốc phòng và an ninh, quốc
phòng với kinh tế. Quân đội luôn lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Học tập chính
cương, chính sách của Đảng cho hiểu mà làm cho đúng tức là thực hành chủ nghĩa
Mác- Lênin”19. Đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh chống mọi quan điểm cơ hội,
xét lại, chống quan điểm “phi chính trị hoá” quân đội. Phải giữ vững sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Nhận thức sâu sắc
những âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù để kiên quyết đấu tranh cả bằng vũ trang và
phi vũ trang để bảo vệ chế độ, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ mọi
lĩnh vực của đất nước. Do đó, phải xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng đời sống tinh thần, văn hoá, phát huy
truyền thống dân chủ, nâng cao trình độ học vấn chuyên môn nghiệp vụ, tính tổ
chức, tính kỷ luật trong quân đội.
Nội dung xây dựng chính trị cho Quân đội nhân dân Việt Nam cần tập trung
vào những nội dung như: Không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân (trên cả 3 phương diện: chính trị, tư tưởng và tổ chức), tính nhân dân và

tính dân tộc; Củng cố vững chắc sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng cộng sản Việt Nam đối với quân đội; Củng cố và phát triển mối quan hệ máu
thịt giữa quân đội với nhân dân; Tăng cường đoàn kết, dân chủ, bình đẳng trong nội
bộ quân đội; Xây dựng các tổ chức, con người có chất lượng chính trị cao, có phẩm
chất chính trị và năng lực hoạt động chính trị thực tiễn giỏi v.v.. trong đó cần tập
trung trọng tâm vào những nội dung vừa cơ bản, vừa cấp bách sau đây:
Một là, xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân
tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đây là nội dung cơ bản xuyên suốt, nó thấm nhuần vào mọi hoạt động của
Quân đội ta, nó thực sự trở thành đội quân cách mạng- quân đội kiểu mới, quân đội
của giai cấp vô sản. Bản chất giai cấp của Quân đội ta mang bản chất của giai cấp
công nhân Việt Nam.
Kế thừa vận dụng phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chiến tranh
và quân đội, Hồ Chí Minh vừa là người tổ chức, lãnh đạo, vừa là người giáo dục và
19

Hồ Chí Minh, Toàn tập,Nxb CTQG, H 2001, Tập 6, tr 319.

11


12

rèn luyện quân đội ta. Người thường xuyên coi trọng xây dựng bản chất giai cấp
công nhân của quân đội. Bản chất giai cấp đó liên hệ mật thiết với tính nhân dân và
tính dân tộc để tiến hành chién tranh nhân dân chống xâm lược. Hồ Chí Minh đã
khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Người viết:
“Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”20. Bởi vì, mục tiêu chiến đấu phù hợp
với khát vọng tự do hàng năm của nhân dân ta vì mưu cầu hạnh phú cho nhân dân,
đất nước được độc lập, vì vậy đã thu hút rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân tự nguyện

đóng góp sức người, sức của để xây dựng quân đội. Người viết tiếp: “Phải làm sao
cho bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn như thế, thì phải đốc thúc bộ đội
siêng giúp dân, hăng hái đánh giặc”21. Do đó bộ đội phải dựa chắc vào dân thì mới
hoàn thành được nhiệm vụ. Người viết: “Bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
dân quân du kích đều phải bám lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân
là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu. Như vậy, bất kỳ việc gì
khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi”22, “Quân đội ta là quân đội nhân dân.
Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất
Tổ quốc, để bảo vệ tự do hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân,
quân đội ta không có lợi ích nào khác”23.
Hồ Chí Minh hết sức chú ý đến xây dựng, giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm
chất cách mạng, bản lĩnh chính trị, tinh thần chiến đấu cho quân đội ta và xem đó là
cơ sở, là nền tảng để xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện, mới có thể trở
thành một quân đội cách mạng và từng bước hiện đại. Người viết: “Quân đội đã
hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thống vẻ vang
là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân; chiến đấu anh dũng, công tác và
lao động tích cực; tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn giản dị; đoàn kết nội bộ, đồng cam
cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khứac phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ”24. Đó
là sự khái quát các phẩm chất giai cấp của quân đội ta. Bởi vì, bản chất giai cấp
công nhân, bản chất cách mạng của quân đội phải được biểu hiện qua các phẩm
chất và hành động cụ thể.
Hiện nay, việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho Quân đội nhân
dân Việt Nam càng có ý nghĩa sống còn đối với quân đội ta. Bởi vì vai trò chủ đạo
của bản chất giai cấp của quân đội ta là “Trung với Đảng, hiếu với dân”, đó là vấn
đề quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Như đã phân tích ở
trên, cơ cấu giai cấp xã hội có sự biến đổi phức tạp nên thành phần tham gia vào
quân đội không thuần nhất do vậy có những khó khăn nhất định trong thực hiện
yêu cầu tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bên cạch những mặt
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, Tập 5, tr 393.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, Tập 5, tr 393.

22 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, Tập 6, tr 525.
23 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, Tập 6, tr 426.
24 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002,Tập 9, tr 274.
20
21

12


13

tốt, mặt tích cực, còn nhiều hiện tượng tiêu cực đã, đang hàng ngày, hàng giờ tác
động vào quân đội. Vì vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng bản chất, truyền thống của
quân đội càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Cho nên, phải thường xuyên xây
dựng bản lĩnh chính trị, củng cố lập trường giai cấp và xây dựng niềm tin, định
hướng chính trị đúng đắn cho quân đội, nó sẽ tăng cường, củng cố sự thống nhất về
chính trị- tinh thần giữa quân đội với xã hội, cổ vũ trực tiếp và biến thành động cơ
thúc đẩy khả năng hoạt động tích cực cho quân đội.
Mặt khác, mọi hoạt động, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội phụ
thuộc vào sức mạnh tinh thần và hệ tư tưởng của giai cấp, đó vừa là quy luật chung
phổ biến, vừa mang tính đặc thù ở Việt Nam. Bởi vì, muốn nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội tất yếu phải tính đến môi trường chính trị- tinh thần của xã
hội; phải biết phát huy những nhân tố tích cực, những mặt có tác dụng tích cực đối
với sự phát triển của quân đội, đồng thời phải ngăn ngừa có hiệu quả, hạn chế tới
mức thấp nhất những mặt tiêu cực tác động vào quân đội. Vì vậy, phải thường
xuyên giáo dục, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, làm cho quân đội giác
ngộ và trung thành với sự nghiệp cách mạng.
Trong tình hình hiện nay cần phát huy và thực hiện có hiệu quả những nội
dung cơ bản như sau:
1. Nâng cao giác ngộ chính trị, giác ngộ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

của cán bộ, chiến sỹ.
Trong giai đoạn hiện nay việc nâng cao giác ngộ chính trị, giác ngộ mục tiêu,
lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho quân đội ta là vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt. Việc giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân
đội ta hiện nay là tiếp tục chiến đấu thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với những yêu cầu mới cao hơn trước: nhận rõ cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa với những nội dung mới, hình thức mới trong
điều kiện mới.
2. Nâng cao bản lĩnh chính trị của quân đội: Sức mạnh chính trị của quân đội
thể hiện tập trung ở bản lĩnh chính trị, ở quan điểm và cách ứng xử đúng với quan
điểm, đường lối của Đảng trước mọi hoàn cảnh, nhất là trong những tình huống
chính trị phức tạp, những biến cố, những bước ngoặt của lịch sử. Bản lĩnh chính trị
của quân đội ta thể hiện ở sự vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; ở
tinh thần tích cực thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước; ở ý chí, niềm tin
vào thắng lợi; ở việc phân tích đánh giá đúng tình hình, phân rõ đúng, sai, tích cực
và tiêu cực...
3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quân đội với Đảng, với nhân dân, giữa
nghĩa vụ và trách nhiệm của người quân nhân cách mạng.

13


14

4. Nâng cao sức mạnh của các tổ chức đảng và tổ chức quần chúng trong quân đội.
5. Nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự, chuyên môn nghiệp vụ, giáo dục
chính trị và thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất và công tác, với
ba chức năng đó chúng ta càng thấy rõ tính đặc thù của Quân đội ta, nó biểu hiện:
Là đội quân chiến đấu: Chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,

góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia vào cuộc tiến công địch trên mặt
trận lý luận, chính trị- tư tưởng, văn hoá. Như Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ X đã xác định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá,
thù địch, không để bị động, bất ngờ”25. Như vậy, quân đội thực hiện cả chiến đấu
vũ trang và phi vũ trang, là lực lượng chính trị đặc biệt trong đấu tranh chống “diễn
biến hoà bình” cả trước mắt và lâu dài, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; chiến đấu để chống cả “giặc ngoài” và chống cả “thù trong”; kết hợp cả
nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh theo yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Là đội quân sản xuất: tăng gia sản xuất cải thiện đời sống cho bộ đội vừa là
bản chất, vừa là truyền thống của quân đội ta; chăm lo xây dựng kinh tế, góp phần
xây dựng và phát triển đất nước. Tích cực tham gia xây dựng, phát triển kinh tế,
góp phần tăng thêm của cải cho xã hội, xây dựng đất nước và tự giải quyết một
phần nhu cầu của chính mình; tích cực củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, tăng cường sự quản lý của Nhà nước và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường.
Là đội quân công tác: Phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam, đó là: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó phải vận
động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở vững mạnh, góp phần tăng cường sự
đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân; giúp dân chống thiên tai,
giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân
hiểu rõ và chấp hành đúng đường lối quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước;
đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ quân đội với nhân dân của kẻ thù; tăng
cường hơn nữa việc giúp đỡ nhân dân về mọi mặt một cách thiết thực và hiệu quả;
chăm lo xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương nơi các đơn vị đóng quân. Quân đội
ta không chỉ là đội quân tuyên truyền vận động chính trị, mà còn là một đội quân
tham gia vào công cuộc động viên và tổ chức toàn dân xây dựng và bảo vệ đất
nước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội; tích cực góp phần củng cố và phát

triển cơ sở chính trị, xây dựng địa bàn, xây dựng hậu phương, xây dựng “thế trận
lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và rộng hơn là thế trận
bảo vệ Tổ quốc.
25

ĐCSVN, Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nxb CTQG, H. 2006, tr 175.

14


15

Ba chức năng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, quá trình thực hiện là
một thể thống nhất, đan xen vào nhau giữa các chức năng, trong đó chức năng
chiến đấu là cơ bản nhất, ở mỗi đơn vị, sự kết hợp, đan xen thực hiện cả ba chức
năng đó tuỳ thuộc vào yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể để vận dụng thực hiện đúng đắn,
phù hợp, đảm bảo cho đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
6. Chấp hành nghiêm pháp luật, điều lệnh, điều lệ của quân đội.
7. Sẵn sàng chiến đấu cao và chiến đấu thắng lợi, hoàn thành mọi nhiệm vụ,
chức năng, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đây là nguyên tắc tối cao, là nội dung cốt lõi, là gốc, là nền tảng trong xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị. Ngay từ đầu khi thành lập Đội Việt
Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng ta quyết lãnh
đạo quân đội và nhân dân vượt mọi khó khăn gian khổ” 26, và phải có các đại biểu
của Đảng bên cạnh người chỉ huy để lãnh đạo quân đội.
Vì sao Đảng cộng sản Việt Nam phải lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam?
Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin khi xác định sứ mệnh

lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Mác và Ăngghen đã chỉ cho giai cấp
công nhân con đường đúng đắn nhất để tự giải phóng mình, dưới sự lãnh đạo
của chính đảng cách mạng của giai cấp mình, giai cấp công nhân phải liên minh
chặt chẽ với giai cấp nông dân, dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà
nước của giai cấp tư sản, lập nên nhà nước chuyên chính vô sản và dùng nhà
nước đó làm công cụ để bảo vệ quyền thống trị của mình đối với toàn bộ xã hội.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” các ông đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản
không tự giấu diếm ý định của mình, họ công khai tuyên bố rằng, mục đích của
họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực cách mạng, lật đổ toàn bộ trật tự
xã hội hiện thời - “giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật
đổ giai cấp tư sản bằng bạo lực”. Bởi vì, theo các ông, để củng cố, giữ vững địa
vị thống trị của mình, tiến hành chiến tranh xâm lược, giai cấp tư sản đã xây
dựng một bộ máy khổng lồ bao gồm quân đội, cảnh sát, nhà tù..., muốn đập tan
bộ máy ấy, giai cấp công nhân không còn cách nào khác là phải dùng bạo lực
cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen
trong khi nhấn mạnh vai trò của bạo lực cách mạng, các ông cũng đề cập đến
khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình, nhưng đây là một khả
năng rất quý và hiếm, nó chỉ xuất hiện khi có các điều kiện khác kèm theo. Vì
vậy, để thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp vô sản phải có lực lượng vũ trang của
26

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 7, tr. 19.

15


16

mình, lãnh đạo lực lượng đó cùng với nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai
cấp thống trị và bảo vệ thành quả cách mạng. Trong thư gửi “Đồng minh những

người cộng sản”, Mác và Ăngghen nhấn mạnh: “công nhân phải được vũ trang
có tổ chức, cần phải trang bị súng trường, cạcbin, đại bác và đạn dược”, rằng
“công nhân cần phải tổ chức thành những đội quân vô sản độc lập”. Như vậy,
quan điểm của các ông là trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai
cấp tư sản cùng với việc sử dụng bạo lực chính trị, tất yếu phải sử dụng bạo lực
vũ trang, phải tổ chức ra lực lượng vũ trang và lãnh đạo lực lượng vũ trang đó.
Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác và Ăngghen trong điều
kiện lịch sử mới, khi mà chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang thời kỳ chủ nghĩa đế
quốc, giai cấp tư sản đã trở nên phản động, hiếu chiến, xâm lược. Lênin đã phân
tích một cách sâu sắc tính tất yếu khách quan của việc xây dựng một tổ chức
quân sự của giai cấp vô sản, bởi vì không có bạo lực cách mạng thì giai cấp vô
sản không thể chiến thắng được kẻ thù, đồng thời Người chỉ rõ: “Một cuộc cách
mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ” 27. Xem xét về vấn đề chiến tranh và
quân đội, Lênin chỉ ra rằng: Trong mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị:
chính trị là mục đích, chiến tranh là công cụ, để đạt được mục đích chính trị thì
giai cấp, nhà nước phải có công cụ mạnh, công cụ mạnh đó là quân đội. Quân
đội bao giờ cũng là quân đội của một giai cấp, một nhà nước nhất định, do một
giai cấp, một nhà nước tổ chức ra, nuôi dưỡng và sử dụng nó vào mục đích
chính trị. Sức mạnh của nhà nước trước hết biểu hiện ở sức mạnh của quân đội.
Do đó, bao giờ quân đội cũng phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp, của nhà
nước nhất định, mang bản chất của giai cấp đã sinh ra nó. Không có quân đội
của nhiều gia cấp, siêu giai cấp, phi giai cấp. Quân đội của giai cấp tư sản mang
bản chất của giai cấp tư sản, quân đội của giai cấp công nhân mang bản chất của
giai cấp công nhân. Để quân đội mang bản chất giai cấp công nhân phải đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân.
Đồng thời, Lênin đã xây dựng hoàn chỉnh học thuyết về quân đội kiểu
mới của giai cấp vô sản. Trong học thuyết của mình, Lênin đã giải quyết thành
công hàng loạt vấn đề về nguyên tắc xây dựng một quân đội kiểu mới của giai
cấp vô sản, trong đó vấn đề căn bản nhất trong những nguyên tắc xây dựng quân

đội kiểu mới của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản lãnh đạo chặt chẽ quân đội
về mọi mặt và đặt quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng trong mọi tình huống.
Theo Lênin, sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là tất yếu khách quan, là một
quy luật nhằm làm cho Hồng quân tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp
công nhân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đây là tiêu chí để phân biệt quân
27

V.I.Lênin,Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, Tập 38, tr. 53.

16


17

đội kiểu cũ với quân đội kiểu mới, quân đội cách mạng với quân đội phản cách
mạng.
Trung thành và vận dung đúng đắn, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin về những nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô
sản vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển kinh
nghiệm truyền thống dựng nước phải đi đôi với giữ nước qua mấy nghìn năm
của dân tộc Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, cũng như
kinh nghiệm của bản thân với tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp vô sản,
Hồ Chí Minh đã sớm thấy rõ con đường cách mạng Việt Nam chỉ có thể là con
đường cách mạng vô sản. Người kết luận: Muốn được giải phóng, các dân tộc
chỉ có thể trông cậy vào mình; “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của
giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”28. Khi đã tìm thấy con
đường cứu nước, xác định được đường lối cách mạng đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam, Người đã chủ động tập trung vào việc xây dựng lực lượng cho cách

mạng, trước hết là lực lượng chính trị và từng bước xây dựng lực lượng vũ
trang, chuẩn bị cho việc tiến hành cách mạng bạo lực ở Việt Nam. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, lực lượng để tiến hành cách mạng bạo lực không phải
chỉ là lực lượng vũ trang, phương thức tiến hành cách mạng bạo lực không phải
chỉ là đấu tranh quân sự. Người đã chỉ rõ: cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải
dựa vào hai lực lượng: lực lượng chính trị của toàn dân và lực lượng vũ trang
nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang.
Phương thức tiến hành cách mạng bạo lực phải vừa là đấu tranh chính trị, vừa là
đấu tranh quân sự, phải kết hợp hai phương thức ấy cho phù hợp với tình hình
từng nơi, từng lúc để giành thắng lợi. Khi đã có chính quyền thì khẩn trương
phát triển lực lượng, chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù bằng bạo
lực cách mạng để giữ vững chính quyền. Khi buộc phải kháng chiến thì kiên
quyết động viên toàn dân đứng lên chiến đấu, với tinh thần: “ Thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” 29, “Hễ còn
một tên xâm lược trên đất nước ta, thì còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó
đi”30. Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, Hồ Chí Minh đã chủ
trương việc: “Tổ chức ra quân đội công nông”, “Vũ trang cho công nông”, “Lập
quân đội công nông”, “Tổ chức đội tự vệ công nông”. Tại Đại hội lần thứ nhất
của Đảng (năm 1935), Đảng đã ra Nghị quyết về tổ chức và lãnh đạo tự vệ
thường trực, và chỉ rõ: công nông cách mạng tự vệ đội là dưới quyền chỉ huy
thống nhất của Trung ương, quân uỷ Đảng Cộng sản...Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng từ trong các tổ chức vũ trang
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 12, tr. 304.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 4, tr. 480.
30 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, Tập 12, tr. 407.
28
29

17



18

cách mạng đầu tiên đến Qquân đội nhândân Việt Nam ngày nay. Sau khi thành
lập các đội du kích, Người đã trực tiếp chỉ đạo thành lập chi bộ đảng và bầu ra
ban chi uỷ để lãnh đạo đội. Trong chỉ đạo xây dựng Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân, Người yêu cầu: Tổ chức của Đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt
nhân lãnh đạo. Bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, có đội viên, có bộ đội là có sự lãnh
đạo của Đảng, và luôn luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong
đội tự vệ. Hồ Chí Minh cho rằng, việc tổ chức ra quân đội để tiến hành đấu
tranh cách mạng là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt nam, cùng với
việc xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cách mạng, Đảng rất coi
trọng xây dựng lực lượng quân sự và giữ quyền lãnh đạo chặt chẽ quân sự trong
bất kỳ hoàn cảnh nào. Không những tổ chức ra quân đội, Đảng còn xác định sự
tất yếu phải lãnh đạo quân đội đó. Quyền lãnh đạo quân đội thuộc về đảng duy
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, không phân quyền lãnh đạo đó cho một giai
cấp nào, một tổ chức, một đảng phái nào khác. Trong điều kiện lịch sử nhất
định, về sách lược, có thể có sự liên hiệp nhất định trong mặt trận, trong chính
quyền, nhưng quân đội là lực lượng vũ trang của Đảng, công cụ chủ yếu của
Nhà nước chuyên chính vô sản, thì Đảng phải nắm quyền lãnh đạo. Có như vậy
thì sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội mới vững chắc và thích hợp với tính
chất, đặc điểm của quân đội. Chính nhờ nắm chắc và lãnh đạo chặt chẽ quân đội
mà Đảng đã phát huy được sức mạnh của quân đội, làm cho quân đội luôn mang
bản chất giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân, không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là
một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”31. Đây
là nguyên tắc bất di bất dịch trong xây dựng và lãnh đạo quân đội của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

Thực tiễn và kinh nghiệm tổ chức và lãnh đạo quân đội của các Đảng
cộng sản trên thế giới đã chứng minh: bất kỳ ở đâu, trong tình huống nào mà
Đảng Cộng sản không nắm chắc và giữ vai trò lãnh đạo đối với quân đội thì
quân đội ở đó không còn là lực lượng trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân
dân. Nếu khi nào Đảng Cộng sản buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với quân
đội, lập tức quân đội xa rời mục tiêu chiến đấu, bị mất phương hướng chiến đấu,
dẫn đến biến chất và bị kẻ thù vô hiệu hoá, trở thành lực lượng đối trọng của giai
cấp, của nhà nước đã tổ chức ra nó. Ngược lại, thực tiễn của cách mạng Việt
Nam hơn 60 năm qua đã khẳng định: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
là nhân tố quyết định mọi sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân
Việt Nam, làm cho quân đội ta luôn luôn là lực lượng trung thành với Đảng,
31

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, Tập 11, tr. 350.

18


19

Nhà nước và nhân dân, quân đội không xa rời mục tiêu chiến đấu, không bị mất
phương hướng chiến đấu.
Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, sâu
sắc và mau lẹ, đang đặt ra yêu cầu cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước,
chúng ta không một phút lơ là đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt. Do đó,
Đảng ta tiếp tục phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân: cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây dựng

chính trị làm cơ sở, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực
trạng nhận thức, trách nhiệm của một số tổ chức đảng và đảng viên cũng như cơ
chế tổ chức thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội còn những vấn đề bất cập; chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là
đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện sự chống phá cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới bằng chiến lược “diễn biến
hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Chúng coi Việt Nam là một trọng điểm cần phải tập
trung chống phá nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta,
tiến tới xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những âm mưu thủ đoạn của
chiến lược “diễn biến hoà bình ” là “phi chính trị hoá quân đội”, tách quân đội ra
khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho quân đội phai nhạt bản chất giai cấp công
nhân, xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu, mất phương hướng chính trị, quân đội
không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng tin cậy của Đảng, của Nhà
nước và của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng nếu không làm cho quân
đội suy yếu, dao động về mặt tư tưởng, mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ... thì
không thể giành thắng lợi ở Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, vì
vậy chúng đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phản động như “quân đội là của
chung dân tộc, làm nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm chứ không phải để bảo vệ
chế độ”, “Quân đội mang bản chất nhân dân chứ không mang bản chất của giai
cấp công nhân”... thực chất là muốn tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng,
vô hiệu hoá quân đội, nhằm thực hiện âm mưu thâm độc của chúng như đã từng
diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây. Từ tình
hình thực tiễn trên đây đòi hỏi chúng ta phải bình tĩnh, sáng suốt và nhạy bén xử
trí có hiệu quả các tình huống xảy ra, phải kiên định những vấn đề có tính
nguyên tắc về chiến lược, đồng thời phải mềm dẻo, linh hoạt về sách lược. Kiên
quyết đấu tranh trên mặt trận lý luận, tư tưởng nhằm đập tan những luận điệu
xuyên tạc và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Một trong
những biện pháp quan trọng đó là đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát
triển lý luận để bảo vệ và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công


19


20

nhân. Mặt khác, truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của quân đội ta là: “Trung với
Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua,
kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Vì vậy, phải coi việc thường xuyên giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội là một tất yếu khách quan trong tình hình hiện nay.
Để thực hiện sự lãnh đạo đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Đảng ta
đã định ra nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt”. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống các nguyên
tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Nguyên tắc này chi
phối đến quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của quân đội, chi phối các
nguyên tắc khác, nó quyết định đến phương hướng chính trị, bản chất giai cấp
công nhân, nội dung phương thức hoạt động, mục tiêu chiến đấu, đối tượng tác
chiến của quân đội. Nguyên tắc này nhằm xây dựng, giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân, xác định rõ chức năng chính trị- xã hội cho quân
đội, bảo đảm cho Đảng luôn nắm chắc quân đội, lãnh đạo chặt chẽ quân đội
trong mọi tình huống, làm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ
quốc, với nhân dân, thực sự là quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu”, luôn có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù.
Đảng ta khẳng định dứt khoát quyền lãnh đạo quân đội là thuộc về Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam. Quyền lãnh đạo đó không chia sẻ cho bất cứ một
đảng phái nào, một tổ chức nào, một cá nhân nào. Sự lãnh đạo đó là lãnh đạo
trực tiếp không thông qua một khâu trung gian nào, một tổ chức trung gian nào.
Đồng thời sự lãnh đạo đó trên tất cả các lĩnh vực hoạt động chính trị, tư tưởng,

tổ chức; trên tất cả các mặt công tác: quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; trong
tất cả các nhiệm vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng, lao động sản xuất và làm
nghĩa vụ quốc tế; lãnh đạo mọi tổ chức, mọi lực lượng của quân đội trong mọi
điều kiện hoàn cảnh. Ở đâu và lúc nào có tổ chức và hoạt động của quân đội là ở
đó có sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được thể
hiện bằng cơ chế, tổ chức, bộ máy lãnh đạo đồng bộ, chặt chẽ từ Trung ương
đến cơ sở; sự lãnh đạo đó tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương
mà thường xuyên trực tiếp là Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội
được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây: Đảng lãnh đạo định ra đường
lối quân sự, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân; Lãnh đạo nghiên cứu xây
dựng và phát triển nền khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam; Lãnh
đạo xây dựng trang bị vật chất kỹ thuật và tổ chức nuôi dưỡng bộ đội; Lãnh đạo tiến

20


21

hành công tác cán bộ trong quân đội; Lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công
tác chính trị trong quân đội.
Để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội, Đảng đã xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo đối với
quân đội cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là phương thức lãnh đạo của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đối với quân đội trong những giai đoạn cách mạng, được
thể hiện bằng hệ thống các nguyên tắc lãnh đạo, phù hợp với nguyên tắc đó là hệ
thống tổ chức hoàn chỉnh, hợp lý, được tổ chức từ cơ sở đến toàn quân, nhằm
bảo đảm cho Đảng lãnh đạo chặt chẽ quân đội, phát huy cao độ trách nhiệm của

người chỉ huy, nâng cao năng lực của các tổ chức đảng và góp phần nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
là một thể hoàn chỉnh, thống nhất biện chứng, không tách rời nhau. Quá trình
thực hiện các nguyên tắc đó cần phải nắm vững và giải quyết tốt các mối quan
hệ giữa các nguyên tắc, đồng thời biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng
điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị, tuyệt đối không được tách rời, đối lập hoặc xem
nhẹ một nguyên tắc nào. Mặt khác phải chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn trong quá trình thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, tiếp
tục nghiên cứu phát triển cả về lý luận nhằm không ngừng bổ sung và hoàn thiện
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình hiện nay.
Thực tiễn đã chứng minh, qua hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và chiến
thắng của quân đội ta đã khẳng định nguyên nhân cơ bản đầu tiên là sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam. Chính sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho Quân đội
phát triển toàn diện và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhấn mạnh: “Cán bộ chỉ biết một mặt là có hại, không vững về các mặt Quân,
Dân, Chính, Đảng kết hợp thành một khối, thiếu một mặt thì không mạnh, không hoàn
thành. Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền hầu như khoán trắng việc đánh giặc cho quân
sự, không biết rằng Đảng phải chăm lo lãnh đạo mọi mặt”32 đối với quân đội ta.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong
điều kiện hiện nay, cần tiến hành đồng bộ một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, chú trọng đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát
triển lý luận, cụ thể hoá đường lối quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Thực tiễn các cuộc chiến tranh ở Vùng Vịnh, Nam Tư, IRắc... diễn ra gần
đây cho thấy, phần lớn các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự của Mỹ sử dụng
trong chiến tranh Việt Nam trước đây đã được đổi mới, hiện đại hoá và thay thế
32

Hồ Chí Minh, Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb QĐND, H 1975, tr 347.


21


22

bằng một thế hệ vũ khí mới - vũ khí công nghệ cao. Sự phát triển của vũ khí
công nghệ cao kéo theo sự thay đổi nghệ thuật quân sự, thủ đoạn chiến tranh,
phương thức tác chiến... Điều đó đặt ra cho Đảng ta phải quan tâm lãnh đạo xây
dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, đẩy mạnh tổng kết chiến tranh trong
nước và của thế giới, kế thừa và vận dụng những kinh nghiệm đánh giặc giữ
nước trong lịch sử dân tộc, nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật
quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại có sử dụng vũ
khí công nghệ cao. Mặt khác Đảng cần lãnh đạo Nhà nước có kế hoạch phát
triển công nghiệp quốc phòng, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc
phòng với kinh tế, sửa chữa, nâng cấp, cải tiến các loại vũ khí, khí tài, phương
tiện kỹ thuật quân sự hiện có trong biên chế của quân đội, đầu tư mua sắm một
số loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại trang bị cho quân đội, tạo
điều kiện cho quân đội hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ
quốc trong tình hình mới.
Hai là, phát huy vai trò của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của toàn
dân chăn lo xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt.
Quân đội là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước, là lực lượng
nòng cốt trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh của Nhà nước
được thể hiện ở sức mạnh của quân đội, sức mạnh của quân đội có tác dụng răn
đe kẻ thù, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình, ổn định cho sự phát
triển của kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, xây dựng quân đội vững mạnh,
trang bị vũ khí cho quân đội và nuôi dưỡng bộ đội là trách nhiệm của toàn Đảng,
toàn dân, của các thành phần kinh tế và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Đảng cần tăng cường sự

lãnh đạo phát huy vai trò trách nhiệm của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị,
của các ngành, các địa phương và mọi thành phần kinh tế cùng chăm lo xây
dựng quân đội, trên cơ sở xây dựng, ban hành, thực thi và hoàn thiện hệ thống
luật, pháp lệnh... cụ thể hoá bằng cơ chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả
trên thực tế. Tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của các ngành, các
cấp, các địa phương, các thành phần kinh tế và sự đồng thuận trong nhân dân về
trách nhiệm xây dựng quân đội. Khắc phục quan niệm cũ cho rằng quân đội là
gánh nặng của Nhà nước, quân đội chỉ cần cho chiến tranh, ngày nay trong điều
kiện thời bình phải giảm bớt ngân sách dành cho quốc phòng, từ đó thiếu quan
tâm xây dựng quân đội.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Để bảo đảm cho sự lãnh đạo chặt chẽ đối với quân đội, Đảng định ra cơ
chế lãnh đạo. Nắm vững và thực hiện đúng cơ chế, không ngừng hoàn thiện cơ
chế, làm cho cơ chế đó luôn phù hợp với tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và tổ
chức hoạt động của quân đội trong từng giai đoạn cách mạng là vấn đề quan

22


23

trọng nhất để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cơ chế lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội hiện nay đã và đang phát huy hiệu lực trên thực
tế. Làm rõ và phát huy có hiệu quả của các mối quan hệ trong cơ chế lãnh đạo
của Đảng, đặc biệt là quan hệ của các thành phần trong cơ chế, nhất là giữa tập
thể cấp uỷ với người chỉ huy, giữa người chỉ huy với Bí thư đảng uỷ, chính uỷ,
chính trị viên. Khắc phục cho được biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, ỉ lại tập
thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với phân công
cá nhân phụ trách.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh

trong sạch, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, nâng cao chất lượng
hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội.
Kẻ thù xác định muốn “phi chính trị hoá quân đội”, tách quân đội ra khỏi
sự lãnh đạo của Đảng, trước hết phải làm suy yếu Đảng bộ quân đội. Tuy nhiên
chúng thực hiện được ý đồ đó hay không lại do nội bộ đảng bộ quân đội quyết
định. Từ trước đến nay, Đảng luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng bộ quân
đội vững mạnh trong sạch, đó là nguyên nhân quan trọng làm cho quân đội có
đủ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, là bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng đối với quan đội. Thực tiễn chứng
minh, ở đâu và khi nào tổ chức đảng không mạnh thì ở đó đơn vị hoàn thành
nhiệm vụ thấp, thậm chí không hoàn thành nhiệm vụ, có khi phải trả giá đắt
bằng máu và sinh mệnh của cán bộ, chiến sỹ.
Trước hết, phải đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả tư tưởng, củng cố
vững chắc trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm cho
quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, kiên
định với mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị
hoá quân đội” của kẻ thù. Hơn lúc nào hết, quân đội phải thực sự trở thành pháo
đài kiên cố trong cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vức chính trị tư tưởng, bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Đảng phải giáo dục, xây dựng cho quân đội có bản lĩnh
chính trị vững vàng, không dao động trong bất kỳ hoàn cảnh nào, làm cho quân
đội thực sự tinh nhuệ về chính trị.
Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh với
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng, nâng
dần tỉ lệ chi bộ ở đại đội có cấp uỷ. Nâng tỉ lệ tổ chức đảng trong sạch vững
mạnh thực chất, có biện pháp khắc phục làm giảm tỉ lệ tổ chức đảng yếu kém,
nhất là các tổ chức đảng yếu kém kéo dài.


23


24

Tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, trước hết là nâng cao
vai trò tiền phong, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Làm tốt công tác quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên, khắc phục cho được sự suy thoái về chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kết hợp chặt chẽ
xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán
bộ có đủ đức, đủ tài, đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, nhất là
cán bộ chủ chốt. Làm tốt công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, kiên quyết xử lý những
cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những đảng viên
thoái hoá, biến chất, không đủ tư cách đảng viên. Bảo đảm cho tổ chức đảng
luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm
đoàn kết nội bộ, đơn vị.
Xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng,
đẩy mạnh công tác thi đua - khen thưởng, xây dựng môi trường văn hoá, chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền,
đoàn thể và nhân dân địa phương xây dựng địa bàn an toàn, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội nơi đóng quân.
Năm là, xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ chính uỷ, chính trị viên
các cấp vững mạnh.
Xây dựng cơ quan chính trị và đội ngũ chính uỷ, chính trị viên các cấp
vững mạnh, đây là yêu cầu cấp thiết của việc thực hiện Nghị quyết số 51NQ/TW về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội,
thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị
viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Cơ quan chính trị và chính uỷ, chính trị
viên là cầu nối liền Đảng với quần chúng, là người chiến sỹ tiên phong trên mặt
trận chính trị tư tưởng đấu tranh chống “diễn biến hoà bình ” của kẻ địch, chống
những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, biểu hiện tiêu cực phát sinh trong

nội bộ, bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai. Xây dựng cơ quan chính trị vững
mạnh, đội ngũ chính uỷ, chính trị viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đủ
phẩm chất và năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội là biện
pháp quan trọng nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên đây là góp phần thiết thực vào việc
giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình
hiện nay. Thực tiễn luôn thay đổi, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, nhiệm vụ của
quân đội có bước phát triển mới trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đất nước ta đang có những thời cơ và vận hội mới, đồng thời
đứng trước những thách thức lớn cần phải vượt qua. Đòi hỏi cần phải tiếp tục
nghiên cứu sâu sắc hơn nữa cả về lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của Đảng

24


25

đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc nói chung và đối với quân đội nói
riêng, nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
trong điều kiện mới.
Ba là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cho Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, do đó có những
quan điểm chính trị sai lầm, phản động, nó đã tác động đến tư tưởng chính trị của
cán bộ chiến sỹ Quân đội ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết phải giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mặt
khác, sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu còn có nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân về sự sụp đổ về xây dựng chính trị trong

quân đội, vì vậy phải xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị để quân
đội đứng vững trước các vấn đề phức tạp đó.
Cho nên, để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần tập trung
làm tốt các nội dung sau đây:
Thứ nhất, về kinh tế: Phải giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát triển lực
lượng sản xuất theo hướng hiện đại; Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, về xã hội: Phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Thứ ba, về văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ: Phát triển văn hoá giáo
dục nhằm xây dựng, phát triển con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa- đó vừa
là mục tiêu vừa là động lực phát triển đất nước; phát triển và ứng dụng mạnh mẽ
khoa học- công nghệ vào sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vưck của đời sống xã
hội.
Thứ tư, về chính trị: Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch vững
mạnh, đáp ứng được những yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới; Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam;
Xây dựng và phát huy vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; Xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, về quốc phòng và an ninh: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân đủ sức mạnh bảo vệ độc lập tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cần phát huy
sức mạnh tổng hợp của các nội dung nêu trên, coi đó vừa là nội dung hết sức cơ
bản, thiết thực đồng thời cũng là nhiệm vụ cấp bách trong tình hình hiện nay, làm
cho cán bộ chiến sỹ trong đơn vị hoàn toàn tin tưởng, nhất trí cao và quyết tâm thực

25



×