Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đề cương câu hỏi và trả lời môn tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.39 KB, 18 trang )

Câu 1: Phong cách và đặc điểm Hồ Chí Minh với việc rèn luyện đội ngũ
cán bộ công chức
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí
Minh thấy rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. “Bất
cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có
cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn.
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, đây
là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian
khổ, phức tạp. Để hoàn thành nhiệm vụ đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là quan trọng hàng đầu. Người chỉ rõ, đạo
đức là “gốc”, nền tảng của người cách mạng. Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì
phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Đạo đức của người cán bộ cách mạng được thể hiện trước hết ở chỗ: Luôn đặt
lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết, biết giải quyết đúng đắn giữa lợi
ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đạo đức cách mạng là sống lành
mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, không hủ hoá, tham ô, không đặc quyền
đặc lợi. “Đạo đức cách mạng là bất kì ở cương vị nào, bất kì làm công việc gì, đều
không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp,
của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ phải có đức nhưng cũng phải có tài. Tài của người
cán bộ thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, trong đó đặc biệt là
năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
Chính phủ.
Cùng với đức và tài, người cán bộ còn phải có phong cách công tác quần
chúng, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến, tôn trọng


quyền làm chủ của nhân dân, khéo tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi


đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền, Người yêu cầu cán bộ càng phải: “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn
luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ
đó mà Đảng thắng lợi..., cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng,
cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
Để hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ dù ở cương vị nào cũng phải tích cực học tập,
không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt. Học tập càng khá, thì giải quyết các vấn
đề càng dễ dàng, công việc càng trôi chảy. Để học tập tiến bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu
người cán bộ phải “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân,
không học ở nhân dân là một khuyết điểm rất lớn”.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai
đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải làm tốt công tác cán bộ:
Một là, phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ
Theo Hồ Chí Minh muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm tốt công tác huấn
luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Theo Người, huấn
luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học.
Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung
ương, địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù
hợp với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể.
Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ là công việc thường xuyên, công phu,
lâu dài, cần phải kiên trì và bền bỉ mới có kết quả tốt. Bởi vì: “Không phải vài ba
tháng hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công tác,
đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được”.
Hai là, phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Đây là công việc hệ trọng và rất khó. Đánh giá đúng cán bộ là xác định chính
xác ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ kém, ai mạnh ở chỗ nào, yếu ở chỗ nào, khả năng


hoàn thành công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao... Trên cơ sở đó mà bố
trí, sử dụng, đề bạt đúng cán bộ. Muốn hiểu, đánh giá đúng cán bộ phải căn cứ vào

tiêu chuẩn cán bộ và tiêu chuẩn này phải luôn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong
từng giai đoạn cách mạng. Đánh giá cán bộ phải công tâm, khách quan; không đơn
thuần theo bằng cấp, học vị, tuổi tác; không hẹp hòi, định kiến cá nhân.
Về phương pháp đánh giá, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt cán bộ trong phạm vi
công tác và môi trường mà người cán bộ hoạt động. Kết hợp theo dõi thường xuyên
với đánh giá định kỳ. Phải kết hợp nhiều nguồn thông tin để phân tích, chọn lọc một
cách khách quan. Nhận xét, đánh giá công khai; đánh giá để giúp cán bộ phát huy ưu
điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Để đánh giá đúng cán bộ, người làm công tác
cán bộ phải biết tự đánh giá chính mình. “Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một
cách đúng đắn với các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết điểm của mình.
Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”.
Ba là, phải khéo dùng cán bộ
Khéo dùng cán bộ thể hiện ở chỗ xếp người đúng việc, vì việc mà xếp người.
Người căn dặn: “Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ,
thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”. Người phê bình: “Thường chúng ta không
biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn
dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người thì hai người
đều thành công”(12).
Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết kợp các thế hệ cán bộ một cách
đúng đắn. Người dạy, trong đội ngũ cán bộ của Đảng có cán bộ già, có cán bộ trẻ.
Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt lãnh đạo, được rèn luyện,
thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh... Còn cán bộ trẻ tuy chưa có một số ưu điểm
như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái mới, chịu khó học tập, cho
nên tiến bộ rất nhanh.


Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài Đảng.
Theo Người, bất kỳ ai, có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của cách mạng là
phải dùng..., vì Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc.

Khéo dùng cán bộ là còn phải mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có đủ tiêu
chuẩn và có triển vọng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý.
Bốn là, phải “có gan cất nhắc cán bộ”
Có gan tức là phải mạnh dạn. Sở dĩ Người nói như vậy vì chúng ta thường hay
“rụt rè” hoặc “quá khắt khe” trong việc đề bạt cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, có gan cất
nhắc cán bộ nghĩa là người cán bộ được cất nhắc có thể còn điểm yếu, song phải biết
được khuyết điểm của họ để sau khi cất nhắc tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ. Có gan cất
nhắc là không sợ người được cất nhắc sẽ vượt mình. Có gan không có nghĩa là làm
nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng không vì danh lợi của mình mà cất nhắc cán bộ. Hồ
Chí Minh yêu cầu: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, vì tài năng, vì cổ động cho
đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy.
Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà lại
gây lên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”.
Sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự
trọng của họ, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người còn nhắc nhở: “Cất nhắc cán
bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi
cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá,
lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên, thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”.
Năm là, phải thương yêu, chăm sóc bảo vệ cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm là đào
tạo được một người cán bộ tốt, mà cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm
mới có được. Hơn nữa, trong đấu tranh, có rất nhiều thử thách, nguy cơ dẫn đến mất
cán bộ. Vì vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ.


Nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là
giúp họ học tập, tiến bộ thêm, là giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn... Thương
yêu là luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp đỡ
họ sửa chữa ngay, để vun trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ.
Đồng thời, phải nêu rõ những ưu điểm, những thành công của họ. Phải vun đắp chí

khí của họ, để đi đến chỗ “bại không nản, thắng cũng không kiêu”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc
thì có sai lầm. Vì vậy, đối với cán bộ mắc sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ
muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục để
giúp họ sửa chữa, phải có thái độ thân thiết, giúp đỡ và động viên họ hăng hái tiến
lên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một trong những viên ngọc quý, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi các cấp uỷ đảng cần quán
triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người. “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ,
trọng mỗi người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Phương pháp, tác phong công tác giữ vai trò quan trọng trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Người cán bộ, đảng viên tuy có tri thức, năng lực, nhiệt tình nhưng
nếu thiếu phương pháp, tác phong làm việc tốt cũng khó có thể hoàn thành nhiệm vụ
với chất lượng cao. Thậm chí, do phương pháp, tác phong công tác thiếu khoa học,
thiếu dân chủ, xa rời thực tế, quan liêu… mà cán bộ có thể gây ra tổn thất cho Đảng
và Nhà nước. Vì vậy, bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là nhiệm vụ cơ bản, thường
xuyên vừa là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về bồi dưỡng phương pháp, tác phong công tác cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên được thể hiện qua rất nhiều bài nói, bài viết nhưng đều tập
trung thể hiện trên những nội dung cụ thể sau:
Một là, nêu cao tính đảng, tính nguyên tắc


Theo Hồ Chí Minh, phẩm chất hàng đầu của người cán bộ, đảng viên đó là
lòng trung thành với Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng của Đảng, trung thành với lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Làm bất cứ
công việc gì, trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, người cán bộ, đảng viên cũng
phải luôn xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng. “Phải đặt lợi ích của Đảng,
của dân tộc lên trên hết”; “việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và và phải làm
đến nơi đến chốn”; “lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Kiên quyết
bảo vệ, ủng hộ cái mới, cái đúng, đấu tranh phê phán cái sai, cái lạc hậu, tiêu cực
trong đơn vị. Phương pháp, tác phong công tác này hoàn toàn đối lập với lối làm việc
chỉ nhằm phục vụ lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm, quan liêu, xa rời thực tiễn.
Hai là, thực hiện tự phê bình và phê bình
Đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đề cao vấn đề phê bình,
tự phê bình. Theo Người, phê bình chính là cách “để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ”, là để “sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn”, đạt tới sự “đoàn kết và
thống nhất nội bộ”.
Tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh trong phê bình là “phê bình việc chứ không
phải phê bình người”. Đồng thời, phê bình bao giờ cũng gắn với tự phê bình, Người
đã chỉ rõ “Để chữa những bệnh tật kia, ta phải tự phê bình ráo riết và phải lấy lòng
thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi
đôi với nhau”. Người đòi hỏi “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”, tức là đưa việc tự phê
bình, tự kiểm điểm thành nhu cầu cần thiết thường xuyên, như hành vi tự chăm sóc
bản thân của mỗi người.
Ba là, gần gũi, tin tưởng quần chúng
Hồ Chí Minh từng đặt yêu cầu rất cao về tác phong quần chúng, từ việc phải
học hỏi quần chúng, lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những
người không quan trọng... Người căn dặn: “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng.
Không được xa rời dân chúng”. Nếu không cụ thể, sâu sát quần chúng thì đảng viên
không thể thấy được, hiểu được nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của quần chúng,
không thể thuyết phục, thu phục được quần chúng. Do đó, đối với người lãnh đạo


phải biết học hỏi quần chúng, biết tập trung tài năng, trí tuệ của quần chúng thành sức
mạnh chung, tìm ra được lực lượng, biện pháp để thực hiện nhiệm vụ; phải biết khơi

dậy, phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của quần chúng trong mọi nhiệm vụ
được giao.
Bốn là, sâu sát, nắm tình hình thực tiễn
Hồ Chí Minh chỉ rõ, người cán bộ, đảng viên phải luôn đi sâu, đi sát thực tiễn,
nắm tình hình một cách toàn diện; phải nắm người, nắm việc, nắm các vấn đề có liên
quan đến đời sống của nhân dân, liên quan đến nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn
vị, địa phương… một cách cụ thể, chính xác.
Theo Người, chỉ có tăng cường quan điểm thực tiễn, khéo đi sâu điều tra
nghiên cứu, phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn trong đời sống thực tiễn thì sự
lãnh đạo, công tác mới có nội dung, đạt chất lượng, hiệu quả cao. Người yêu cầu cán
bộ, đảng viên, “trong lúc học lý luận phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm
thực tế”, có như vậy, lý luận mới có sức mạnh, mới thiết thực.
Năm là, thực hành dân chủ thực sự và rộng rãi
Với việc đưa ra phương pháp, tác phong công tác dân chủ, Hồ Chí Minh đã
thực hiện một sự phủ định tác phong quan liêu, độc đoán, gia trưởng. Dân chủ là
thước đo phong cách làm việc của cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, có dân chủ thì mới
“khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra tình trạng
mất dân chủ nghiêm trọng trong các cơ quan nhà nước. Người viết, có những cán bộ
cấp dưới, những nhân viên, “dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình
cũng sợ, không dám phê bình”. Nguyên nhân của tình trạng mất dân chủ đó là do
“cách lãnh đạo của ta không được dân chủ”. Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ
lãnh đạo các cấp phải thường xuyên “trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới” và
“không nên tự tôn, tự đại”, “phải nghe, phải hỏi ý kiến của cấp dưới”, tức là phải thực
hành dân chủ với tính cách là một chế độ làm việc, một phương pháp, tác phong công
tác của người cán bộ, đảng viên.
Sáu là, nói đi đôi với làm
Vận động, giáo dục, thuyết phục là phương pháp cơ bản, chủ yếu trong công
tác vận động quần chúng của Đảng, của người cán bộ. Để thực hiện tốt việc vận



động, giáo dục, thuyết phục quần chúng, người cán bộ phải biết dùng chân lý, lẽ phải,
bằng hành động gương mẫu của mình để giáo dục, thuyết phục quần chúng. Hồ Chí
Minh từng nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm, chứ không phải nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”. Để thực hiện
“nói đi đôi với làm”, cán bộ, đảng viên phải có tính quyết đoán trong công tác, cẩn
trọng trong xử lý các tình huống, sáng suốt, công tâm, biết kết hợp ý kiến chỉ đạo của
cấp trên với ý kiến tham mưu đề xuất của các bộ phận cùng cấp và cấp dưới, phát huy
sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân. Phương pháp, tác phong công tác của
cán bộ, đảng viên phải mẫu mực, chính kiến rõ ràng, cụ thể, thái độ chân thành cởi
mở, hành động gương mẫu, cương quyết, dứt khoát; kiên quyết chống mọi biểu hiện
chủ quan nóng vội, định kiến cá nhân, thể hiện mình là bề trên, là “ông quan cách
mạng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ, đảng viên là người lãnh đạo, là
người đày tớ trung thành của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp, tác phong công tác khoa học có ý
nghĩa thực tiễn to lớn. Các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt một số
nội dung cơ bản sau:
Một là, nhận thức đúng vị trí, vai trò, nội dung của phương pháp, tác phong
công tác khoa học theo Tư tưởng Hồ Chí Minh; có thái độ trách nhiệm trong củng cố,
nâng cao phương pháp, tác phong công tác và chất lượng, hiệu quả trên các mặt công
tác đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn xây dựng cơ quan, đơn vị vững
mạnh về chính trị.
Hai là, trên cơ sở phương pháp, tác phong làm việc khoa học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cùng với thực tiễn công tác, các cấp uỷ đảng thường xuyên có kế hoạch
lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên một cách sâu sát, khoa học, luôn bám sát các hoạt động
nghiệp vụ, chuyên môn của họ. Đồng thời, lấy đó làm cơ sở trong xem xét, đánh giá
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Ba là, đa dạng hoá các hình thức, biện pháp bồi dưỡng, rèn luyện phương
pháp, tác phong công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tóm lại, trong quá trình bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác

cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt những hình thức, biện pháp cơ bản


như: Thông qua hoạt động thực tiễn, các lớp tập huấn, hội thao, hội thi công tác
nghiệp vụ, hoạt động của các tổ chức; cấp trên bồi dưỡng cấp dưới; học tập đồng chí,
đồng đội; thông qua công tác nhận xét, đánh giá cán bộ; bản thân nghiêm túc, tự giác
tu dưỡng, rèn luyện; phải tiến hành thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc, mọi nơi… Đây
là những hình thức, biện pháp quan trọng thiết thực trực tiếp góp phần nâng cao
phương pháp, tác phong công tác khoa học cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay.


Câu 2: Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công
cuộc đổi mới ?
Kế thừa và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi
mới đất nước (từ 1986), Đảng ta đã nhìn nhận sự cần thiết và khả năng hội nhập kinh
tế quốc tế( HNKTQT) của Việt Nam. Công tác ngoại giao thời kỳ đổi mới được triển
khai giữa lúc trên thế giới xu thế toàn cầu hoá và cùng với nó là xu thế HNKTQT
diễn ra ngày càng sâu rộng; khoa học, công nghệ đang không ngừng phát triển, lực
lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Nhận thức được điều đó, Việt Nam tham gia
HNKTQT theo từng bước tuần tự, vững chắc. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI,
VII, VIII và IX đã ngày càng thể hiện rõ chủ trương đó.
Đại hội VIII đã xác định nhiệm vụ: “ Phải mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, cũng cố và nâng cao vị thế của nước ta
trên trường quốc tế”. Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: Chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu
vực và song phương sau khi gia nhập WTO: thực hiện các cam kết với các nước về
thương mại tự do song phương với các nước, nhất là các nước lớn, ký các hiệp định
hợp tác kinh tế đa phương và khu vực. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu
quả với các nước ASEAN, các nước khu vực châu A - Thái Bình Dương. Trong bối
cảnh quốc tế hiện nay sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng,

đan xen vì vậy, Đại hội X xác định một mặt, trong quá trình HNKTQT“ phải lấy lợi
ích dân tộc làm chuẩn mực, làm thước đo để quyết định chủ trương, xác định chính
sách”, mặt khác “không để vì quan hệ với nước này làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa
nước ta với nước khác”.
Đây là bước tiến mới trong tư duy lý luận cũng như hoạch định các bước đi
thích hợp của Đảng ta đối với HNKTQT. Nét mới ở đây là Đảng ta đã rút ra những
bài học từ thực tiễn HNKTQT để chủ trương vừa nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ
vừa giữ vững và củng cố môi trường hoà bình, hoà hiếu tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi nhất để phát triển kinh tế đất nước.Với những chủ trương đúng đắn, phù hợp xu
thế quốc tế, hơn 20 năm qua kể từ năm 1986 chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn về kinh tế- xã hội. đưa Việt Nam HNKTQT khu vực và thế giới. Mặt khác, đã
thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 169 nước ( đến 2005); có quan hệ buôn


bán với 224/255 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ. Khai thông quan hệ với
các tổ chức tài chính lớn như WB, ADB, IMF gia nhập Hiệp hội thương mại thế giới
(WTO).
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng HNKTQT là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu
tranh và cạnh tranh; vừa có nhiều cơ hội nhưng cũng có những thách thức, khó khăn
phức tạp. Để chủ động hội nhập đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế, Đảng ta đã
tiến hành một loạt các giải pháp :
+ Thứ nhất, Xây dựng, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật nhất là các luật,
đạo luật liên quan đến kinh tế, thương mại, đầu tư nước ngoài .
+ Thứ hai, Xây dựng nguồn lực mà trước hết là nguồn lực con người, thực sự
xem giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo, bồi
dưỡng một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, doanh nghiệp có kiến thức về kinh tế
đối ngoại, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý, ngoại ngữ và luật pháp cũng như thông lệ
quốc tế nhằm hạn chế rủi ro khi tham gia HNKTQT.
+ Thứ ba, ổn định chính trị- xã hội, có chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm
dẽo, năng động tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

+ Thứ tư, Xây dựng cơ sở hạ tầng mà trước hết là giao thông, điện, sân bay,
bến cảng… để tạo sự hấp dẫn đầu tư đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế đất nước.
Vận dụng linh hoạt và sáng tạo sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn
biến” mà Bác Hồ đã dạy, từ khi nước ta giành được độc lập đến nay chủ trương
HNKTQT đã phản ánh nhất quán đường lối của Đảng ta là kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng
hợp tác quốc tế song phương cũng như đa phương.
Để giảm bớt những thiệt thòi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta
cần ổn định về chính trị, tăng cường an sinh xã hội đặc biệt đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế để có thực lực vì không có thực lực hoạt động đối ngoại nói chung và kinh tế
đối ngoại nói riêng sẽ gặp nhiều khó khăn, hạn chế trước những biến động khó lường
của kinh tế thế giới và khu vực trong giai đoạn hiện nay.
Tự học và học suốt đời là một luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và chính Người là tấm gương sáng ngời về tinh thần suốt đời bền
bỉ và khiêm tốn học hỏi. Người căn dặn: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học,


phải học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học hỏi ở nhân dân”, “Học hỏi là
một việc phải tiếp tục suốt đời.
Học tập phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho
mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng
tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”
Truyền thống gia đình, quê hương đã hun đúc nên tinh thần hiếu học của
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Trong những năm tháng ra đi tìm
đường cứu nước, Người chứng kiến và thấu hiểu được cảnh lầm than, thất học của
nhân dân các dân tộc thuộc địa. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu
nước sống ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles bản yêu sách gồm
tám điểm, trong đó điểm thứ sáu là: “Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và
chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh”. Chính quá trình tự nghiên cứu,
học tập và khảo sát mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc:

Đó là sự kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác coi việc diệt giặc dốt quan trọng và
cấp bách như diệt giặc đói, giặc ngoại xâm: “Giặc đói, giặc dốt là bạn đồng hành của
giặc ngoại xâm” vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bác động viên khích lệ
đồng bào: “Đi học là yêu nước”. Tại phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ do
Hồ Chí Minh chủ trì đã nêu xóa nạn mù chữ và nâng cao trình độ văn hóa cho nhân
dân lao động là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Ngày 8/9/1945, Hồ Chủ tịch ký
Sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia xóa nạn mù
chữ. Mỗi người biết chữ đều phải tham gia dạy cho người mù chữ: “Vợ chưa biết thì
chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo…”. Trong bài
“Chống nạn thất học”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “ Mọi người Việt Nam phải
hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc
xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Năm 1946, trong “ham muốn tột bậc” của vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của
chúng ta, bên cạnh ham muốn “nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc”, là ham muốn “ai cũng được học
hành”. Cũng nhờ sự ham muốn đó mà Bác Hồ không ngừng học tập, rèn luyện trong
mọi hoàn cảnh để có một kiến thức uyên bác, tài năng lỗi lạc, trở thành “Danh nhân


văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc”, vững tay chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt muôn trùng sóng gió để tới bến bờ vinh quang.
Với sự nghiệp trồng người, Bác căn dặn “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Bác khẳng định: “Non sông Việt Nam
có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường
quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.
Theo Bác, trong cách học thì “lấy tự học làm cốt”, phải coi trọng trách nhiệm
tự học của mỗi người, tự học thêm để làm chủ được tri thức. Những điều được học,
được nghiên cứu tại trường chỉ có thể ví như một “hạt nhân bé nhỏ” mà người học
“sẽ tiếp tục săn sóc, vun xới, làm cho mọc thành cây và dần dần nở hoa, kết quả”.

Mục đích của việc học là để làm cán bộ phục vụ cho Tổ quốc “phải có kiến thức mới
để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, “Học để phụng sự đoàn thể,
giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Người cảnh báo trước cho cán bộ thấy là
“không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”. Để thực hiện
được mục đích giáo dục thì nội dung giáo dục phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận với thực tiễn. Bác nhấn mạnh: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn là thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Bác nêu
ra nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành”, “kết hợp lý luận với thực hành, ra sức
học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn kết hợp với thực tiễn nước
nhà…”.
Học tập suốt đời là khâu then chốt để cải cách giáo dục và là nội dung cốt lõi
của xã hội học tập. Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bắt gặp xu thế của
thời đại khi mô hình xã hội học tập là một trong những đặc điểm và yêu cầu tất yếu
của mỗi quốc gia trong nền kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu. UNESCO nhận
định: chính việc học tập suốt đời sẽ thúc đẩy tạo ra sự bình đẳng cho mọi người, làm
cho mọi người đều có cơ hội học tập trong mọi điều kiện khác nhau vì mục đích của
việc học tập là “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khảng định
mình”. Học vấn ở trong nhà trường trang bị không thể thâu tóm được mọi tri thức
mong muốn và không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của thực tiễn. Cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật đã mang lại cho nhân loại một lượng tri thức và thông tin
theo hàm số mũ, sự đổi mới công nghệ làm cho kiến thức và tay nghề trước đây mà


người học tiếp thu được trong giáo dục ban đầu trở nên lỗi thời, tụt hậu đòi hỏi phải
liên tục được đào tạo và tự đào tạo để có khả năng thich ứng với những thực tiễn mới
đòi hỏi
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại mới, Đảng ta đề ra khái niệm
giáo dục suốt đời, Văn kiện Đại hội IX của Đảng xác định mục tiêu xây dựng “Cả
nước trở thành một xã hội học tập nhằm“Tạo điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi
được học tập thường xuyên, suốt đời”, Văn kiện Đại hội X nêu rõ thêm “Chuyển dần

mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở – mô hình xã hội học tập với
hệ thống giáo dục suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học, ngành học;
xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người với những hình thức học tập,
thực hành linh hoạt, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục”. Điều này phù hợp
với hoàn cảnh thực tế của đất nước, giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu học tập
ngày càng cao của nhân dân với điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế.
Từ các Nghị quyết của Đảng, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị 50 – CT/TW ngày
24/8/1999 và Chỉ thị 11/CT/TW ngày 13/4/2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, xác định: “Xây
dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, là mục tiêu cơ bản trong
chiến lược chấn hưng và phát triển giáo dục của nước ta” và Chỉ thị 02/2008/CT-TTg
ngày 08/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ thể chế hoá về mặt nhà nước, nhằm đưa
chủ trương lớn của Đảng vào cuộc sống.
Để xây dựng một xã hội học tập, chúng ta phải tiến hành đổi mới giáo dục cả
về mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy lẫn cách kiểm tra, đánh giá. Việc đề
cao phương thức học tập suốt đời đi đôi với đề cao năng lực tự học của mỗi người mà
chủ yếu là học cách học, đưa người học từ vị trí thụ động trở thành người chủ động,
sáng tạo trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Các hình thức giáo dục phải đa dạng và
linh hoạt với những phương pháp khoa học, phương tiện hiện đại nhằm biến cả nước
trở thành một trường học lớn, tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi ngành
nghề, mọi trình độ đều được học tập, cập nhật kiến thức, công nghệ để tự nâng cao
năng lực trí tuệ và khả năng thực hành, đáp ứng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người, chúng ta phải học
thường xuyên, học suốt đời, góp phần xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập.


Quan điểm cơ bản của Ðảng ta ngày càng được nhận thức rõ hơn là: Chủ
nghĩa Mác - Lêninvà tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Ðảng và của cách mạng Việt Nam.
Quan điểm này được khẳng định qua nhiều kỳ Ðại hội của Ðảng, đặc biệt là

Ðại hội VII (6-1991), Ðại hội IX (4-2001) và gần đây là Chỉ thị 23 của Ban Bí thư
Trung ương "Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn mới" (ngày 27-3-2003).
Có nhiều cách tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh theo các mảng về tư tưởng chính trị, triết học, kinh tế, văn hóa... Có những
công trình tập trung làm rõ Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới, v.v. Dù tiếp cận cách nào, cũng phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống các quan điểm cách mạng và khoa học. Vì vậy nghiên cứu tư tưởng của
Người với tinh thần và thái độ khoa học. Theo chúng tôi để nhận thức đầy đủ, sâu sắc
hơn tư tưởng Hồ Chí Minh cần làm rõ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chỉnh thể. Chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh tạo
ra một hệ giá trị với một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Nói theo tinh thần nhiều nhà khoa học và chính khách
trên thế giới thì tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như một học thuyết, bao gồm một
hệ thống những luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại
biểu cho ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam và hiện thân
cho khát vọng của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Những quan điểm, quan niệm của Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực phản ánh sự nhất
quán, xuyên suốt từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng XHCN, với nội
dung cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lêninvào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Từ những năm hai mươi đến tận cuối đời,
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh chủ nghĩa Mác - Lêninlà chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mạng nhất; là cái cẩm nang thần kỳ; là mặt trời soi sáng con đường
cách mạng của các dân tộc; là vũ khí tư tưởng không thể gì thay thế được... Người
khẳng định chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, trong đó cần phải nhấn
mạnh là "do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lê-nin, nhưng vận dụng một cách


sáng tạo phù hợp với thực tế Việt Nam" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1996,
T12, tr.476).

Dân tộc Việt Nam ta có một lòng nồng nàn yêu nước, chủ nghĩa yêu nước là
một động lực lớn; là tinh thần đoàn kết, tự tôn dân tộc, lòng nhân ái khoan dung, đức
tính cần cù, sáng tạo... Việt Nam dưới thời Pháp thống trị là một thuộc địa nửa phong
kiến, trong đó mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu. Hồ Chí Minh chỉ rõ, thuộc địa
không phải như nhiều người tưởng, đó chẳng qua "chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên
là mặt trời, vài cây dừa xanh và mấy người khác mầu da". Ngược lại, "đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Ðông Dương giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và
sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Theo Người, "nọc độc và sức sống
của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở thuộc địa hơn là ở chính quốc"
(Sđd, t1, tr.274).
Nhận thức về vấn đề thuộc địa như vậy là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện đó, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin, không phải
đặt nhiệm vụ giải phóng giai cấp lên trước, mà là giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Người đã phát triển nhận thức từ chỗ làm cách mạng tư sản dân quyền (1930), cuộc
cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: Phản đế và điền địa, đến chỗ cuộc cách mạng
tập trung giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng" (1941). Nghị quyết
Trung ương VIII (5-1941) do Người chủ trì khẳng định: "Chưa chủ trương làm cách
mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc" (Văn kiện
Ðảng toàn tập, t7, Nxb CTQG, 2000, tr.119).
Xuất phát từ thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng giải phóng
dân tộc thuộc địa có khả năng chủ động giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc và tác động trở lại cách mạng chính quốc. Như vậy, nhận thức và cách
giải quyết của Hồ Chí Minh góp phần bổ sung làm phong phú lý luận Mác - Lêninvề
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh còn có nhiều vận dụng sáng tạo khác như việc thành lập Ðảng
Cộng sản ở nước thuộc địa; đại đoàn kết tất cả mọi công dân nước Việt trên cơ sở lực
lượng nền tảng là công, nông; dần dần xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện các
nước vốn là thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khoa học-kỹ thuật kém phát triển,
tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh xác



định rõ phải phát huy nội lực, "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" (cả trong sự
nghiệp giành độc lập và xây dựng CNXH), đồng thời tranh thủ ngoại lực và kết hợp
cả hai loại sức mạnh đó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của
dân tộc Việt Nam, chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt rễ
sâu xa từ truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, một
dân tộc đầy những sự tích kỳ diệu trong cuộc trường kỳ chống thiên tai, địch họa.
Trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, dân tộc Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc để
thắng hung tàn, đề cao bổn phận đối với Tổ quốc; trọng dân, đề cao dân, khoan dung,
hòa hợp. Ðó cũng là triết lý phương Ðông mà Hồ Chí Minh đã từng nhắc tới: "Dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Tư tưởng "cầu đồng tồn dị" (tìm nét chung để hạn
chế cái khác biệt) là một nét đẹp của văn hóa phương Ðông mà có lúc Hồ Chí Minh
đã nhắc nhở đồng bào theo tinh thần đó:
"Dân ta xin nhớ chữ đồng
Ðồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh"
Hồ Chí Minh đã chắt lọc từ văn hóa dân tộc, phương Ðông và phương Tây
khát vọng hòa bình của con người, xây đắp một nền văn hóa hòa bình: Người hiện
thân cho lý tưởng chung của nhân loại: Ðộc lập, tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc.
Phương pháp Hồ Chí Minh. Với tư cách là chủ thể, Hồ Chí Minh không những là một
nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà tổ chức vĩ đại mà ở Người còn nhuần
nhuyễn về phương pháp, đặc biệt là phương pháp cách mạng. Về lĩnh vực này, thế
giới coi Người là bậc thầy. Phương pháp Hồ Chí Minh không chỉ là một khoa học,
mà còn là một nghệ thuật. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng và phương pháp hòa quyện vào
nhau. Từ phương pháp luận, Hồ Chí Minh có những phương pháp hành động cụ thể
đạt hiệu quả cao trong mọi tình huống. Phương pháp Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống và thực tiễn Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa Marx - Lenin; từ cái
tâm, cái đức, trí tuệ, bản lĩnh và niềm tin vào nhân dân, vào thắng lợi của cách mạng
không gì lay chuyển được của Người. Hồ Chí Minh là bậc đại trí, đại nhân, đại dũng,
luôn kết hợp một cách tài tình lý luận với thực tiễn trên tinh thần "Dĩ bất biến ứng

vạn biến". Do đó Người có khả năng lôi cuốn, quy tụ mọi người Việt Nam, các lực


lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Người giải quyết thành công mối quan hệ
thời - thế - lực; thiên thời - địa lợi - nhân hòa...
Hồ Chí Minh nổi bật là một anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới. Chất "anh hùng" và chất "văn hóa" luôn hòa quyện, thống nhất với nhau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối đúng đắn của Ðảng là ngọn cờ thắng lợi
của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, là tài sản tinh thần vô giá tiếp tục soi
sáng sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Mi-ghen Ðê-xtê-pha-nô,
giáo sư, cố vấn Viện nghiên cứu Á châu (Cuba) đã viết: "Người không phải là một kỷ
niệm của quá khứ. Người là một con người kỳ diệu cho tất cả mọi thời đại. Tất cả
những người Cuba, tất cả những người có lương tri trên thế giới nhìn thấy ở Nguyễn
Ái Quốc - "Người yêu nước", ở Hồ Chí Minh - "Người chiếu sáng", ở Bác Hồ "Vị
Chủ tịch kính yêu".
Trong công cuộc đổi mới, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng ta cần phát huy trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần sáng tạo, đổi mới, độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường, kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm theo
nguyên tắc "Dĩ bất biến ứng vạn biến" với ý thức phục vụ nhân dân cao nhất. Triết lý
phát triển Hồ Chí Minh cũng chính là triết lý phát triển Việt Nam trên đường hội
nhập và phát triển.



×