Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BỒI DƯỠNG HSG NGỮ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.61 KB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO LẬP THẠCH
TRƯỜNG THCS

Chuyên đề :
MÔT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ.

Người thực hiện :
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường
SốĐT: Email :
Năm học : 2015 - 2016

1


MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5. Mục đích nghiên cứu
6. Đóng góp về mặt lý luận, thực tiễn
B. NỘI DUNG CHÍNH
1. Cái đích để đạt đến chất lượng
2. Lựa chọn học sinh có năng khiếu.
3. Xác định được kiến thức cơ bản cần ôn luyện
4. Giới thiệu những tài liệu buộc học sinh phải đọc
5. “Nhào nặn” kiến thức
6. Rèn kỹ năng diễn đạt


7. Rèn kỹ năng tự đánh giá bài văn trong khi viết
8 . Kết quả cụ thể
C. KẾT LUẬN

2


A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự chuyển mình đi lên của đất nước, sự nghiệp Giáo dục và Đào
tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Sự nghiệp giáo dục nói
chung, công tác giảng dạy nói riêng đang đặt ra các nhu cầu cấp thiết trong quá
trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, giao lưu hợp tác quốc tế.
Xuất phát từ nhu cầu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, bên cạnh việc
nâng cao chất lượng đại trà thì công việc bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác
mũi nhọn được đặc biệt chú trọng. Đây là một trong những khâu quan trọng
đánh giá khả năng vận dụng kiến thức sáng tạo của học sinh và là một trong
những thước đo thẩm định trình độ chuyên môn của mỗi người thầy. Công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và việc bồi dưỡng học sinh gỏi môn Ngữ
Văn nói riêng là cả một quá trình tìm tòi về nội dung và phương pháp. Với tôi,
chuyện người thầy phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như người trồng
hoa. Bông hoa đẹp bởi bàn tay người chăm bón, nâng niu. Nhưng không phải
lúc nào hoa cũng khoe sắc rực rỡ. Chỉ cần một cơn trở gió, một sự thay đổi tiết
trời, một sự lãng quên bất cẩn của người là hoa kém sắc, cây không trổ bông.
Đặc biệt, phương pháp giảng dạy với những biện pháp cụ thể là con
đường ngắn nhất để tới đích thành công. Đây quả là một quá trình tôi luôn trăn
trở học hỏi sách vở, đồng nghiệp, tự đúc rút từ việc giảng dạy và bồi dưỡng học
sinh giỏi của bản thân. Tất nhiên, không có biện pháp nào là chìa khoá vạn năng
nhưng có biện pháp tốt là một “phép màu” giúp việc “tu luyện” môn Ngữ Văn
của học sinh được “thành chính quả”.

Là người yêu thích môn Ngữ Văn và liên tục được tham gia công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi nên tôi tự đúc rút kinh nghiệm, phương pháp trên cơ sở học
hỏi tổng hợp từ đồng nghiệp, sách báo, tài liệu có liên quan trực tiếp. Trên cơ sở
quá trình trực tiếp giảng dạy của bản thân. Được sự chỉ đạo sát sao có hiệu quả
của các cấp lãnh đạo ngành và sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, tổ chuyên
môn trong quá trình thực hiện đề tài.
Xuất phát từ tình hình học văn của học sinh trong thời đại bùng nổ thông tin
và những thiên hướng mới trong cách cảm, cách nghĩ của các em ở giai đoạn
hiện nay.
3


Thực tế cho thấy, môn Ngữ Văn trong nhà trường chưa được học sinh quan
tâm nhiều, chính vì thế thời gian học sinh đầu tư cho môn học này chưa thực sự
thỏa đáng. Đối với những giáo viên được phân công phụ trách bồi dưỡng học
sinh giỏi cảm thấy lo lắng, trăn trở bởi họ đã bỏ ra nhiều công sức, lăn lộn với
học sinh mà hiệu quả chưa cao. Ngay khi phân chia đội tuyển trong nhà trường
thì phần đông số học sinh vẫn nghiêng về một số môn khác. Tâm lí ngại học văn
đang dần hình thành trong nếp nghĩ của các học trò…
Hy vọng những kinh nghiệm nhỏ này phần nào giúp các thầy cô giáo dạy Ngữ
Văn tháo gỡ những vướng mắc về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhà
trường, góp phần nâng cao chất lượng mũi nhọn ở bộ môn này .
Trên hết, tôi vẫn luôn mong nhận được sự chỉ giáo của các thầy cô và các
bạn đồng nghiệp để có được tiếng nói chung, hữu ích trong tình hình bồi dưỡng
học sinh giỏi Ngữ Văn theo chương trình cải cách hiện nay.
Xuất phát từ ý nghĩa, mục đích trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có một số tài liệu tham khảo dành cho giáo viên và học sinh trong việc bồi
dưỡng học sinh giỏi :
+ Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Trung học cơ sở - quyển 1, 2, 3, 4, 5

dành cho học sinh các khối lớp 6, 7, 8, 9 ( Tác giả : Đỗ Ngọc Thống - NXBGD
Việt Nam).
+ Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh.
+ Mở rộng và nâng cao Ngữ văn 9 ( Tác giả : Thái Quang Vinh - NXB
Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh)…
Bên cạnh đó có một số giáo viên cũng đã nghiên cứu tìm hiểu song trên thực tế
còn nặng về lí thuyết chưa đưa ra được cách thức và con đường cụ thể để bồi
dưỡng học sinh.
Đề tài này tôi sẽ đi sâu nghiên cứu quy trình bồi dưỡng học sinh giỏi, đặc
biệt sẽ chỉ ra cách thức con đường cụ thể để đề xuất những giải pháp tối ưu cho
việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở bộ môn Ngữ Văn cho học sinh bậc Trung học cơ
sở.
4


3. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu các biện pháp giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi phù hợp với đối
tượng học sinh Trung học cơ sở và chương trình sách giáo khoa mới.
Vận dụng trong giảng dạy để người dạy và người học nâng cao hiệu quả
trong quá trình học chuyên sâu môn Ngữ Văn Trung học cơ sở.
- Thực hiện đối với người dạy, người học.
- Áp dụng vào từng chuyên đề cụ thể.
- Thực hiện với những đề bài theo kiểu văn bản cụ thể.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp những biện pháp tối ưu được đúc rút trong các tài liệu liên quan
trực tiếp, những kinh nghiệm của bản thân, đồng nghiệp.
Nghiên cứu việc áp dụng trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi ở các
cấp độ khác nhau.
5. Mục đích nghiên cứu

Bồi dưỡng học sinh giỏi là một công việc tương đối khó khăn. Vì vậy, tôi
nghiên cứu đề tài này với mục đích tìm ra những giải pháp, cách thức bồi dưỡng
nhằm đạt hiệu quả cao. Đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
môn Ngữ Văn. Làm tốt công tác này sẽ kích thích mạnh mẽ ý thức tự giác, lòng
say mê và ý chí vươn lên trong học tập, tu dưỡng của học sinh.
6. Đóng góp về mặt lý luận, thực tiễn
- Giáo viên tìm ra những phương pháp, hình thức bồi dưỡng nhằm đạt hiệu quả
cao. Đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
- Đối với học sinh, các em sẽ có cách ôn luyện để đạt hiệu quả cao hơn theo sự
hướng dẫn của giáo viên.
B. NỘI DUNG CHÍNH
1. Cái đích để đạt đến chất lượng
- Về kiến thức :

5


Học sinh phải nắm được những đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của các loại
đơn vị tiêu biểu thuộc từng bộ phận cấu thành Tiếng Việt ; nắm được những tri
thức về ngữ cảnh, về ý định, về mục đích, về hiệu quả giao tiếp ; nắm được các
quy tắc chi phối việc sử dụng Tiếng Việt ; nắm được những tri thức về các kiểu
văn bản thường dùng : Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận, Thuyết minh,
Hành chính công vụ ; nắm được những tri thức thuộc cách thức lĩnh hội và tạo
lập các kiểu văn bản đó ; nắm được một số tác phẩm ưu tú của Việt Nam và của
thế giới tiêu biểu cho các thể loại quen thuộc, đặc biệt là các thể loại thường gặp
trong văn học Việt Nam. Nắm được những khái niệm và thao tác phân tích tác
phẩm văn học, có được những tri thức sơ giản về thi pháp, về lịch sử văn học
Việt Nam, tiếp xúc với những giá trị tinh thần phong phú và những đặc sắc về
văn hoá, cảnh vật, cuộc sống con người Việt Nam và thế giới thể hiện trong các

tác phẩm văn học, là kết quả của việc sử dụng các tri thức cơ sở để tạo ra các
văn bản vừa có tính chuẩn mực vừa có tính nghệ thuật.
- Về kỹ năng :
Học sinh có kỹ năng nghe, nói, viết thành thạo theo các kiểu văn bản đã
học ; Có kỹ năng về phân tích tác phẩm văn học, có năng lực cảm thụ và bình
giá văn học, có năng lực tổng hợp và vận dụng kiến thức.
Nói đến kỹ năng nghe là nói đến bước đầu biết cách phân tích, nhận xét tư
tưởng tình cảm và giá trị nghệ thuật của các văn bản được học, tự học, hiểu và
cảm thụ được giá trị nghệ thuật của các văn bản và cụm văn bản đó theo từng
chủ đề.
Kỹ năng nói, viết là nói đến việc viết tiếng Việt phải đúng chính tả, đúng từ
ngữ, đúng cú pháp. Biết cách sử dụng các thao tác cần thiết để tạo lập các kiểu
văn bản phục vụ cho việc học cũng như việc thi. Đây cũng là năng lực vận dụng
các thao tác tư duy để so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra kết luận, từ đó có
quyết định phù hợp đối với các vấn đề gặp phải trong qúa trình học nâng cao,
bồi dưỡng.
- Về thái độ, tình cảm :
Học sinh biết yêu quý, trân trọng các thành tựu của văn học Việt Nam và
thế giới. Có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, có ý thức tìm hiểu nghệ

6


thuật trong các văn bản, không chấp nhận cách nói, viết tuỳ tiện, thiếu ý thức
lựa chọn từ ngữ, biết yêu quý các giá trị chân, thiện, mĩ.
2. Lựa chọn học sinh có năng khiếu
Muốn bồi dưỡng học sinh giỏi văn thì việc làm tối quan trọng là phải lựa
chọn được học sinh có năng khiếu và có niềm đam mê, yêu thích bộ môn.
Học sinh giỏi văn trước hết phải là những học sinh có niềm say mê, yêu thích
văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường xuyên, liên tục và bằng ý

thức tự giác trong học tập như soạn bài cẩn thận chu đáo, luôn chủ động tiếp thu
kiến thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong các
bài làm văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập, thực hành
rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp các em chịu khó
tìm tài liệu để mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát
huy được trí tưởng tượng, sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình
đã đọc, đã học.
Học sinh có những tư chất bẩm sinh, như tiếp thu nhanh, có trí nhớ bền
vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng mới
trong bài làm).
Học sinh phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống, thuộc nhiều thơ văn
trong và ngoài chương trình qua sự tìm đọc, tích luỹ ; phải có sự hiểu biết nhiều
về con người và xã hội.
Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường khó giấu của học
sinh giỏi văn là rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề, trước
cuộc sống. Biểu hiện thường thấy ở những học sinh này là dễ vui nhưng cũng
rất dễ buồn trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động
qua lời giảng của giáo viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình
cảm, thích gần gũi với thầy cô, bạn bè và với mọi người, hay bộc lộ quan điểm
tình cảm và chiều sâu nội tâm của mình bằng cách phát biểu trực tiếp hoặc gián
tiếp qua các bài viết. Sự nhạy cảm ở các em luôn gắn liền sự thông minh và theo
tôi thì sự thông minh của học sinh giỏi văn là sự thông minh của cả khối óc lẫn
con tim.

7


Học sinh giỏi văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào, biết
sử dụng chính xác chúng trong những trường hợp khác nhau. Thường những em
học sinh giỏi văn đều có khả năng diễn đạt mượt mà, giàu cảm xúc, giàu hình

ảnh, diễn đạt hàm súc và có bản sắc riêng. Năng khiếu ở học sinh giỏi văn văn
thường đi kèm với các biểu hiện bên ngoài như ánh mắt sáng, cách nói lưu loát,
gãy gọn bởi ngôn ngữ diễn đạt là cái vỏ của tư duy.
Thông thường, sau kết quả của ba bài kiểm tra : Kiến thức “chìa khoá” (biện
pháp tu từ, lí luận Văn học) ; Về cảm thụ Văn học và về trắc nghiệm kiến thức,
tôi sẽ chọn được học sinh giỏi.
Tôi quan niệm rằng : Văn học rất cần tư duy khoa học, lo gic và Văn học
cũng rất cần khả năng tinh nhạy trong việc thẩm bình Văn chương. Thêm
nữa, học sinh phải thể hiện sự say mê qua việc tích luỹ kiến thức. Vì lẽ ấy, ba
bài kiểm tra của tôi sẽ mách bảo tôi chọn đúng đối tượng để bồi dưỡng.
Thực tế cho thấy, một học sinh có năng lực Văn học thể hiện trên những mặt
sau :
- Năng lực biết cảm nhận và chỉ ra được cái hay, cái đẹp của tác phẩm Văn học
một cách chính xác.
Ví dụ : Chỉ một chữ “phả” trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh có học sinh cảm
nhận : Mùa thu đến với nhà thơ khá đột ngột và bất ngờ, không hẹn trước. Bắt
đầu không phải là những nét đặc trưng của trời mây hay sắc vàng hoa cúc như
trong thơ cổ điển. Bắt đầu là hương ổi thơm náo nức. Một chữ “phả” kia cũng
đủ gợi hương thơm như sánh lại. Nó sánh còn bởi hương đậm một phần, sánh
còn bởi tại hơi gió se. Hương thơm luồn vào trong gió được tinh lọc, được cô
đọng thêm. Gió mùa thu hào phóng đem chia hương mùa thu - hương ổi chín tới khắp nơi trong vũ trụ. Tại một vùng quê nhỏ, trong một phút giây nào đó,
người viết chợt bắt gặp hương thu và bỗng sững sờ.
- Khả năng nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học bao gồm :
+ Kiến thức về lịch sử văn học.
Ví dụ : Bộ phận văn học, giai đoạn văn học, tác giả tiêu biểu.
+ Kiến thức về lí luận văn học.

8



Ví dụ : Nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, nhân vật phản
diện…cốt truyện…tình huống truyện…
+ Kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể.
- Khả năng biết diễn đạt và trình bày những suy nghĩ và tình cảm cũng như
những hiểu biết của mình về văn học một cách sáng sủa, mạch lạc và có sức
thuyết phục theo yêu cầu của một kiểu loại văn bản nào đó.
Ví dụ : Chỉ ra cái hay cái đẹp của khổ cuối bài Viếng lăng Bác (Viễn Phương)
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Một em học sinh đã viết : Nghĩ đến ngày về miền Nam, nỗi thương xót trào
dâng nước mắt - không phải rưng rưng, rơm rớm nước mắt, mà là “trào”, một
cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao
ước muốn : Muốn làm con chim hót ; muốn làm đoá hoa toả hương, một làn
hương như thực, như hư đâu đây ; muốn làm cây tre trung hiếu. Mọi ước muốn
đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui,
làm khuây, làm vợi nỗi vắng vẻ trong lăng của con người suốt đời hi sinh cho sự
nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã
dành trọn tình yêu thương cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào
miền Nam ruột thịt.
Những phương diện trên đây là những biểu hiện và đồng thời cũng là những yêu
cầu cụ thể đối với một học sinh giỏi văn, đây là cái đích cần hướng tới và đồng
thời cũng là thước đo để đánh giá trình độ năng lực văn học.
Trong quá trình chọn học sinh có năng khiếu sẽ gặp phải trường hợp đòi
hỏi người giáo viên phải hết sức khéo léo trong khâu xử trí, bởi có thể sẽ gặp
phải những trường hợp sau :
Học sinh có năng khiếu học văn nhưng không thích tham gia vào đội tuyển
văn : giáo viên cần động viên khuyến khích học sinh tham gia vào đội tuyển
bằng cách truyền cho các em tình yêu văn chương, hoặc có thể nhờ đến sự giúp

đỡ của gia đình và Ban giám hiệu nhà trường.
9


Học sinh muốn tham gia đội tuyển văn nhưng không có khiếu về văn chương :
động viên các em tiếp tục bồi dưỡng kiến thức hoặc định hướng cho học sinh
lựa chọn những môn khác có thể phát huy năng lực của các em.
Học sinh có khiếu văn chương, thích tham gia đội tuyển văn nhưng bố mẹ lại
định hướng cho thi môn khác : giáo viên và nhà trường phải làm tốt công tác
tuyên truyền để phụ huynh nhận thức rõ thế mạnh của con em mình cũng như
định hướng học tập, không nên xem nhẹ môn học thuộc ngành xã hội.
Học sinh học giỏi toàn diện môn nào các thầy cô cũng muốn em đó tham gia
vào đội tuyển của mình : giáo viên cần bám sát vào chiến lược và kế hoạch bồi
dưỡng chất lượng mũi nhọn của nhà trường. Nếu học sinh đó thực sự có năng
khiếu về văn chương nên đề xuất với nhà trường. Nếu cần thiết có thể tổ chức
thi khảo sát xem học sinh đó thực sự có thế mạnh về môn học nào để từ đó có kế
hoạch bồi dưỡng.
3. Xác định được kiến thức cơ bản cần ôn luyện
Môn Ngữ Văn là môn khá phức tạp với sự tổng hợp của ba phân môn.
Khi ôn luyện cho học sinh nhất thiết giáo viên không nên xem thường bất kì
một phân môn nào. Nhất là việc dạy văn theo quan điểm tích hợp như hiện nay
thì không có sự tách rời kiến thức của ba phân môn trong một bài văn. Tuy
nhiên, khi ôn trước hết ta nên ôn kiến thức và kỹ năng theo từng phân môn. Cụ
thể : (Ở đây, chủ yếu tôi xác định kiến thức cho học sinh lớp 9)
Phân môn văn học :
Xác định phạm vi kiến thức cần ôn luyện : chủ yếu chương trình Ngữ Văn 8 và
9, đặc biệt là lớp 9 (kinh nghiệm nhiều năm cho thấy đề thi chủ yếu là kiến thức
văn học của khối 9, cũng có năm có cả lớp 8 nhưng rơi vào những tác phẩm tiêu
biểu và trọng tâm)
Cách thức ôn : ta nên ôn theo đặc trưng thể loại

* Văn học Việt Nam :
- Truyện :
+ Truyện trung đại (tập trung ôn luyện truyện và truyện thơ trung đại lớp 9)
+ Truyện ngắn hiện đại.
- Thơ trữ tình hiện đại.
10


* Văn học nước ngoài : truyện ngắn và thơ hiện đại.
- Đối với kiến thức của các tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh nắm một cách
có hệ thống. Có thể nhóm theo cụm bài, chủ đề cụ thể. Nhưng dù theo hình thức
nào cũng cần đảm bảo được những kiến thức chuẩn, trọng tâm cơ bản sau :
+ Tác giả : cần thiết cho học sinh thấy được phong cách sáng tác của tác giả,
dấu ấn cá nhân của mỗi tác giả. Sự đóng góp của tác giả đó trong sự nghiệp văn
học của dân tộc.
+ Xuất xứ tác phẩm : chi phối, ảnh hưởng trực tiếp đến chủ đề, mạch cảm xúc
bao trùm của bài.
+ Nội dung cơ bản, ngắn gọn mà đầy đủ nhất.
+ Nghệ thuật chính của bài.
- Thuộc thơ, nắm vững cốt truyện về chi tiết, nhân vật, sự kiện...
Về ôn luyện kiến thức, giáo viên phải căn cứ và bám sát chuẩn kiến thức và kỹ
năng, nhưng nếu như thế sẽ không thể coi là đủ cần phải khai thác sâu, nâng cao
vượt chuẩn. Cái vượt chuẩn ấy cũng phải xuất phát từ cái chuẩn nếu không bài
viết sẽ trở lên sáo rỗng, xa đề. Để có kiến thức vượt chuẩn, giáo viên phải biết
tìm tòi nhiều nguồn tư liệu từ các kênh thông tin như qua sách, tài liệu tham
khảo, mạng Internet.
Phân môn Tiếng Việt :
Ta nên ôn luyện toàn bộ kiến thức Tiếng Việt của cấp Trung học cơ sở,
nhưng cần phải xây dựng và sắp xếp sao cho thành từng mảng hệ thống kiến
thức.

Ví dụ : Các biện pháp tu từ, mảng về câu, dấu câu, trật tự câu, mảng từ,...
Phân môn Tập làm văn :
Nên bắt đầu rèn cho học sinh từ những kỹ năng tối thiểu nhất như : chữ
viết, chính tả, bố cục, cách trình bày đến dùng từ đặt câu, viết đoạn, liên kết
đoạn và cuối cùng là viết bài văn hoàn chỉnh. Đây là những kỹ năng rất quan
trọng để tạo nên một học sinh có tố chất viết văn. Học sinh thực sự yếu ở các kỹ
năng này sẽ không bao giờ viết một bài văn hay kể cả kiến thức các em có sâu
rộng đến đâu. Tiếp đến nên ôn kỹ năng viết văn theo kiểu bài. Thông thường đề
Tập làm văn có hai kiểu bài : Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội.
11


Kiểu bài nghị luận văn học : ôn cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình luận,
đánh giá, cảm nhận ... về một bài thơ, một đoạn thơ, một nhân vật, một tác
phẩm, một hình ảnh thơ, một tâm trạng, một quan điểm sáng tác… theo những
chuyên đề, chủ đề nhất định :
Ví dụ : Một số chuyên đề, chủ đề tiêu biểu
+ Người phụ nữ Việt Nam trong văn học
+ Vẻ đẹp anh bộ đội Cụ Hồ thời chống Pháp, chống Mĩ
+ Hình ảnh người lao động Việt Nam trong văn học
+ Hình ảnh Bác Hồ trong văn học
+ Tình cảm gia đình Việt Nam trong văn học
+ Tình yêu thiên nhiên trong một số tác phẩm văn học
+ Cảm hứng yêu nước trong văn học
+ Cảm hứng nhân đạo trong văn học
+ Tình cảm bạn bè trong văn học
Kiểu bài nghị luận xã hội :
- Bao gồm nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí, nghị luận về một sự việc
hiện tượng trong đời sống. Thường đề cập các vấn đề “nóng” của xã hội.
Ví dụ : trí tuệ Việt Nam, tấm gương vượt khó - nghị lực, vấn đề môi trường, học

tập, tình bạn, lý tưởng sống, tranh giành và nhường nhịn…).
Bên cạnh đó, rèn cho học sinh có kỹ năng : nhận xét, đánh giá, bình luận, giải
thích, chứng minh…
Phạm vi kiến thức của kiểu bài nghị luận xã hội không có trong sách giáo khoa
nên giáo viên cần sưu tầm, xác định kiến thức trọng tâm cơ bản để cung cấp cho
học sinh. Đồng thời định hướng cho học sinh biết tìm hiểu kiến thức ngoài cuộc
sống.
4. Giới thiệu những tài liệu buộc học sinh phải đọc
Sau khi đã lựa chọn được học sinh, tôi giới thiệu cho các em một danh
mục sách giáo khoa, sách tham khảo và buộc các em phải đọc.
Ví dụ :
-Văn học trong nhà trường, tác giả và tác phẩm (Lưu Khánh Thơ)
12


-Bồi dưỡng làm văn hay trung học cơ sở (Lê Lương Tâm - Thái Quang Vinh)
-Một số kiến thức - kĩ năng và bài tập nâng cao 6, 7, 8, 9 (Nguyễn Thị Mai Hoa
- Đinh Chí Sáng)
- Những bài làm văn hay 6,7,8,9 (Nguyễn Thị Kim Dung)
- Bồi dưỡng Ngữ văn 6,7,8,9 (Đỗ Kim Hảo)
- Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn 6,7,8,9 (Cao Bích Xuân)
- Hạt giống tâm hồn
- Tuyển tập đề thi Olimpic 30 - 4
- Văn học và Tuổi trẻ
- Phân tích - bình giảng tác phẩm văn học (Vũ Dương Quỹ)
Nếu không có định hướng các em sẽ đọc nhiều mà không hiệu quả. Có hiện
tượng học sinh đọc quá nhiều sách tham khảo để rồi chẳng biết sẽ chọn tư liệu
nào vận dụng cho bài viết của mình. Lại có khi học sinh ít đọc quá sẽ hạn chế
phạm vi kiến thức cần sử dụng.
5. “Nhào nặn” kiến thức

Sau khi tích luỹ kiến thức là việc “nhào nặn” kiến thức. Giáo viên không
thể làm thay cho học sinh việc này được. Học sinh phải tự rèn kỹ năng cho mình
dưới sự hướng dẫn của giáo viên qua các đề bài cụ thể. Còn nhớ, có em học sinh
đã nói : Nếu thầy, cô ra đề bài là bình luận hay phân tích đối với một đoạn thơ
em cũng sẽ viết y như nhau ( mặc dù hiện nay gọi chung là nghị luận nhưng
cũng cần phân biệt hai kiểu bài để giải quyết thấu đáo, triệt để vấn đề). Tôi nghĩ,
nếu giáo viên chỉ rèn lí thuyết, không yêu cầu các em thực hành thì dẫu có giảng
nhiều lần cũng sẽ không hiệu quả. Những bài học về kinh nghiệm ngôn từ, lối
diễn đạt tựa như những “phu chữ” của một nhà thơ Trung Quốc - Giả Đảo, như
nhà thơ Nga Mai - A- Côp - Xki quan niệm : chọn được một chữ “đắt” như là
khai thác chất quý hiếm trong hàng tấn quặng ngôn từ, hoặc như kinh nghiệm
của nhà văn Nguyễn Thành Long : “người viết truyện ngắn phải rèn luyện đến
từng dấu phẩy, và anh chỉ thực sự viết được những gì anh hiểu khá kỹ càng…”
sẽ có tác dụng động viên, khích lệ các em rèn kỹ năng làm văn.
Việc rèn kỹ năng phải bắt đầu là việc rèn chính tả đến lựa chọn ngôn từ, đặt câu.
Có em học sinh của tôi từng phải khổ luyện về chính tả. Dù em đã đạt giải cao
13


khi đi thi, tôi vẫn luôn kiểm tra chính tả cho em. Dẫu có lúc, gặp phải sự phản
ứng của học trò là : thầy khắt khe quá về rèn chữ, tôi cũng vui lòng.
Thực tế cho hay, không phải học sinh nào cũng giỏi toàn diện. Có em sở trường
là cảm thụ thơ, có em phân tích văn xuôi, có em “khô khan” vì nhiều kiến thức
lí luận, lại có em bay bổng quá với lối viết nặng cảm xúc và nhiều khi còn dùng
“sáo ngữ”. Để điều chỉnh lối viết bất cập này, tôi khuyên các em tự điều chỉnh
bằng việc : Phải tham khảo bài viết của nhau để tự rút kinh nghiệm, kiểu đọc
văn người để sửa văn mình. Tất nhiên, khi rèn kỹ năng, giáo viên phải kiên trì
chấm bài tay đôi với học sinh hay cung cấp đáp án chi tiết cho học sinh để học
sinh làm “thầy” chấm bài của nhau, rồi giáo viên kiểm tra. Đây là cách rất thú vị
mà tôi được sự gợi ý của thầy cô lãnh đạo phòng Giáo dục - Đào tạo và thầy cô

giáo dạy văn giàu kinh nghiệm ở trường.
Sau khi khơi dậy hứng thú học bài, hứng thú viết cho học sinh, cần đặc biệt chú
ý nuôi dưỡng cảm xúc cho các em bằng cách tôi tự lấy bài văn của mình đọc
cho các em nghe. Phân tích một số cách viết hay trong một số bài thi học sinh
giỏi. Tôi cũng “cảnh báo” rằng mỗi lứa tuổi nguồn cảm xúc có khác đi, lối viết
khác đi thì các em sẽ phát huy tận độ khả năng của mình để sau này đỡ nuối
tiếc. Thêm nữa, những tấm gương sáng từng đạt giải Nhất, Nhì môn Ngữ Văn
của các anh chị lớp trước luôn là hướng phấn đấu để các em phát huy truyền
thống của mình.
Để động viên học sinh và giảng dạy có hiệu quả, tôi thường hay viết bài bình
thơ, bình văn xuôi…để nói với học sinh rằng : bể kiến thức là mênh mông, nên
tâm niệm “học, học nữa, học mãi” (Lê - Nin) ; “Thiên tài chỉ có 1% là năng
khiếu còn 99% là mồ hôi và nước mắt”. Đồng thời, để các em hiểu không có
thiên tài nào lại không qua khổ luyện, khiến các em coi việc luyện viết như một
lẽ tự nhiên của học sinh giỏi.
Ví dụ :
*Với đề bài : Suy nghĩ về ý nghĩa của tình yêu thương, bài làm phải đạt
các ý cơ bản sau :
1- Mở bài : -Giới thiệu về tình yêu thương trong cuộc sống con người.
- Khái quát ý nghĩa của tình yêu thương.
14


2- Thân bài :
• Nội dung vấn đề: Ý nghĩa sâu sắc, lớn lao, kì diệu của tình yêu
thương. (có thể là tình cảm yêu thương người thân, gia đình, quê
hương, bạn bè… và rộng hơn là tình yêu thương giữa con người với
con người.)
• Tình yêu thương đem đến cho con người niềm vui, hạnh phúc, niềm
tin yêu ; tiếp thêm sức mạnh để con người có thể vượt qua mọi khó

khăn, thử thách; giúp con người biết thông cảm, thấu hiểu, vị tha,… để
con người có cơ hội để hiểu nhau, sống tốt đẹp, thân ái với nhau hơn.
• Tình yêu thương có thể cảm hóa cái xấu; bắc nhịp cầu nhân ái, xóa bỏ
những ngăn cách, hận thù…
• 3- Kết bài:
-Khẳng định sức mạnh của tình yêu thương.
-Liên hệ bản thân.
*Với đề bài : “Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn?”
(Tố Hữu)
Từ cách hiểu về câu hỏi trên, em hãy làm sáng tỏ qua các văn bản:
Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long); Chiếc lá cuối cùng (O Hen- ri), bài
làm phải đạt các ý cơ bản sau :
Mở bài:
• Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
• Nêu khái quát ý nghĩa vấn đề nghị luận.
Thân bài:
Giải thích ý nghĩa câu thơ của Tố Hữu.
• Sống đẹp là sống có mục đích, có hoài bão, có ước mơ, có lí tưởng
và có ý chí, nghị lực để thực hiện hoài bão, lí tưởng của mình.Sống

15


đẹp không chỉ là sống có ý nghĩa cho bản thân, mà còn cho gia
đình, cho những người xung quanh và cho xã hội.
• Biểu hiện của sống đẹp: Sống có hoài bão, lí tưởng; có mục đích, ý
chí, quyết tâm để đạt được mục đích; sống là cống hiến; sống biết
trân trọng, nhân ái, vị tha với những người xung quanh mình…
• Chứng minh những biểu hiện của “sống đẹp” qua các văn bản.
• Lặng lẽ Sa Pa: Biểu hiện “sống đẹp” tập trung thể hiện qua nhân vật anh

thanh niên trong việc làm, cách sống, suy nghĩ, tình cảm và quan hệ với
mọi người.
+ Có tinh thần trách nhiệm cao với công việc.(dẫn chứng+ phân tích)
+ Ý thức được về công việc và lòng yêu nghề.(dẫn chứng+ phân tích)
+ Suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc đối với cuộc sống con
người.(dẫn chứng)
+Tìm thấy nguồn vui trong công việc.(dẫn chứng)
+Tổ chức, sắp xếp cuộc sống thật ngăn nắp.(dẫn chứng)
+ Cởi mở, chân thành, khiêm tốn trước người khác.(dẫn chứng+ phân
tích)
- Biểu hiện “sống đẹp” thể hiện qua các nhân vật khác: Ông kỹ sư
vườn rau Sa Pa; đồng chí cán bộ nghiên cứu về sét; “anh bạn” trên
trạm đỉnh Phan- xi- păng.(dẫn chứng+ phân tích)
- Chiếc lá cuối cùng:
+ Tình yêu thương giữa những hoạ sĩ nghèo: tình thương yêu của Xiu
đối với Giôn- xi. (dẫn chứng+ phân tích)
+ Cụ Bơ- men có ước mơ vẽ kiệt tác; cụ cao thượng, quên mình vì
người khác.(dẫn chứng+ phân tích)
Kết bài:
_ Bộc lộ suy nghĩ của bản thân.
_ Liên hệ với thế hệ trẻ ngày nay.

16


6. Rèn kỹ năng diễn đạt
Đối với toán học, tìm ra kết quả (đáp số) coi như công việc cơ bản đã hoàn
thành, nhưng đối với văn học, tìm ra được đáp số, tức là nhận biết và chỉ ra
được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, công việc mới chỉ được một nửa.
Nửa công việc còn lại phụ thuộc vào khả năng biết diễn đạt và thể hiện đáp số

đã tìm ra. Tức là biết trình bày những điều mình hiểu, mình cảm nhận được một
cách rõ ràng sáng sủa để người nghe, người đọc cũng hiểu và cảm nhận được
cái hay, cái đẹp của tác phẩm đó như mình. Ở đây, người viết về văn học như là
người phiên dịch, là chiếc cầu nối giữa tác phẩm và người đọc. Không ít học
sinh thấy được, hiểu được cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn học nào đó,
nhưng không thể nói lại, viết lại cho người khác hiểu và thấy được điều đó như
mình. Nói lại và viết lại những suy nghĩ cảm nhận của mình về văn học là hai
năng lực có liên quan nhưng không đồng nhất với nhau. Đối với học sinh giỏi
văn, bên cạnh việc viết hay cần phải nói hay, phát biểu hay. Nói hay và viết hay
có những đặc điểm và yêu cầu cụ thể riêng nhưng đều phản ánh một điểm
chung đó là tư duy của một học sinh. Ngôn ngữ dù nói hay viết đều là công cụ
của tư duy và phản ánh tư duy. Chừng nào các ý nghĩ của học sinh trong đầu
chưa rõ ràng thì chừng ấy các em chưa thể diễn đạt được ý những nghĩ ấy một
cách sáng sủa, rõ ràng dù nói hay viết. Tuy có điểm chung ấy nhưng trong thực
tế có những em nói rất hay nhưng viết lại dở. Ngược lại có em viết rất hay
nhưng khi nói lại thất bại, làm người nghe buồn ngủ ; nhiều học sinh lẫn lộn
giữa văn nói với văn viết nên trong bài làm viết như nói. Có em lại làm văn ở
mọi nơi, mọi lúc. Có thể nói rằng năng lực văn học của một học sinh giỏi không
chỉ thể hiện ở khả năng, trình độ tiếp nhận văn bản mà còn bộc lộ ở việc sản
sinh văn bản. Đó là khả năng biết tạo lập văn bản đúng quy cách.
Ví dụ : Trong chương trình Trung học cơ sở, phần Tập làm văn đi từ tự sự qua
miêu tả đến nghị luận xã hội và nghị luận Văn học. Cơ sở khoa học sự phát triển
sư phạm của các kiểu Tập làm văn trên là sự tạo lập văn bản giao tiếp trong đời
sống đi từ phản ánh (tự sự, miêu tả) đến nhận thức (nghị luận) (tất nhiên khi
phản ánh cuộc sống không thể không có nhận thức và ngược lại khi nhận thức
không thể không dựa trên phản ánh). Cơ sở khoa học sự phát triển của các kiểu
bài Tập làm văn còn là sự tạo lập văn bản giao tiếp từ các đối tượng vật chất (tự

17



sự, miêu tả) đến các đối tượng tinh thần còn có nghĩa là đi từ kiểu dễ hơn đến
khó hơn.Trong quá trình dạy, học, cần chú ý kết hợp các yếu tố với văn bản
chính.
-

Tự sự + Miêu tả + Biểu cảm + Nghị luận + Thuyết minh.

-

Miêu tả + Biểu cảm + Tự sự + Thuyết minh.

-

Nghị luận + Miêu tả + Biểu cảm + Thuyết minh.

-

Biểu cảm + Tự sự + Miêu tả + Nghị luận.

-

Thuyết minh + Miêu tả + Nghị luận.
(Theo SGV Ngữ Văn 9, tập I- tr 228; NXBGD Việt Nam

2010)
Tóm lại : Một học sinh giỏi Văn là phải làm sao hình thành và rèn luyện tốt cho
mình khả năng diễn đạt và thể hiện những hiểu biết và cảm nhận của mình về
văn học bằng cả hai hình thức nói và viết.
7. Rèn kỹ năng tự đánh giá bài văn trong khi viết

Xác định đối tượng và mục đích của bài viết :
Dù là loại văn bản nào, khi muốn viết một bài văn có chất lượng, học sinh cũng
cần phải lưu ý và xác định rõ một số vấn đề như là nguyên tắc chung chi phối
cách viết. Bác Hồ đã rút ra : khi đặt bút viết cái gì cần tự xác định phương
hướng theo các câu hỏi : Viết cho ai ? Viết để làm gì ? Sau đó mới quyết định :
Viết cái gì ? Viết như thế nào ? Từ việc xác định rõ đối tượng và mục đích mới
xác định được nội dung và cách thức thể hiện.
Trong quá trình rèn luyện viết những bài văn loại sáng tác, học sinh phải nhập
vai để viết.
Hai diện mạo chính tạo nên bài văn của học sinh giỏi :
- Thứ nhất, bài văn phải có ý. Một bài văn hay là bài văn phải có ý tứ sâu sắc,
mới mẻ. Người viết biết tiếp thu học hỏi ý kiến của người khác về một vấn đề
nào đó, lựa chọn và trình bày các ý ấy theo cách của mình để làm sáng tỏ yêu
cầu của đề. Suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện và nêu được những ý riêng của mình.
- Thứ hai, bài văn phải có chất văn. Tức là diễn đạt hay, diễn đạt một cách khéo
léo những ý của bài viết thành lời văn cụ thể gồm :

18


+ Lựa chọn từ ngữ.
+ Viết câu phải linh hoạt.
+ Văn viết phải giàu hình ảnh.
+ Biết so sánh trong bài viết.
+ Lập luận như một cuộc đối thoại.
+ Dẫn chứng và trình bày dẫn chứng.
+ Giọng văn biểu cảm.
(Tất nhiên cách đánh giá chất văn phải dựa trên đề bài ấy thuộc kiểu văn bản
nào)
Ví dụ : Khi phân tích giá trị của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu thơ :

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Học sinh phải trình bày được các ý sau :
• Giới thiệu câu thơ
• Chỉ ra các biện pháp tu từ trong câu thơ.
• Phân tích giá trị của biện pháp tu từ làm nổi bật chủ đề tư tưởng trong câu
thơ.
• Suy nghĩ, đánh giá về cách sử dụng biện pháp tu từ đó.
Tóm lại : Bài làm văn của học sinh giỏi rất cần đến sự phát hiện, những ý
tưởng mới mẻ, đây là mức độ cao nhất trong hoạt động sáng tạo, cảm thụ và
làm văn của học sinh trung học cơ sở. Như vậy mới thực sự có được những bài
văn hay, những bài văn tốt và nhà trường mới có được những học sinh giỏi văn
đích thực.
8. Kết quả cụ thể
Thực hiện giảng dạy mấy năm qua áp dụng đề tài này vào việc dạy học sinh
giỏi, tôi đã thu được những kết quả khả quan:

19


C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận :
Với dân tộc Việt Nam ta, văn chương luôn luôn là điều gắn bó thân thiết. Từ
thuở còn nằm nôi, em bế đã được nâng niu, bồi dưỡng văn chương qua lời hát
ru, âu yếm, đậm đà. Khi được đi học, bài dạy trước nhất phải là “học ăn, học
nói…”
Tôi đam mê môn Văn, được may mắn học chuyên ngành Văn và dạy Văn, lại
vinh dự tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm; được giảng dạy trong môi
trường có nhiều thầy cô giáo mà tên tuổi đã được vinh danh trong lịch sử bồi
dưỡng học sinh giỏi của huyện, của tỉnh, được dạy nhiều em học sinh năng

khiếu yêu thích môn Văn. Đó là động lực để tôi luôn học hỏi, tìm tòi thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ được cấp trên giao phó, đáp lại sự tin tưởng, quý mến của học
sinh.
Tôi nghiệm thấy cái ước muốn học Văn sao cho giỏi, dạy Văn sao cho hay, viết
Văn sao cho tốt là ước muốn của nhiều em học sinh và các thầy cô giáo. Muốn
thực hiện được ước mơ ấy thì phải thực sự tìm tòi trong văn chương. Tôi cố
gắng ghi lại vài ba điều mình cho là tâm đắc đúc rút trong giảng dạy. Hi vọng
được trao đổi với các thầy cô, đồng nghiệp. Rất mong được các thầy cô và các
đồng nghiệp bổ sung, chỉ giáo.
II. Kiến nghị
1. Đối với giáo viên :
- Những giáo viên được phân công giảng dạy bồi dưỡng phải có kế hoạch,
chương trình cụ thể.
- Phải thật sự nhiệt tình say mê, tận tụy với học sinh, truyền cho học sinh tình
cảm yêu thích văn chương.
- Tích cực cập nhật công nghệ thông tin đặc biệt là những vấn đề xã hội
mang tính thời sự.
2. Đối với nhà trường :
- Thường xuyên kiểm tra việc bồi dưỡng của giáo viên.

20


- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cụ thể, động viên kịp thời những giáo viên trực
tiếp dạy bồi dưỡng cả về vật chất lẫn tinh thần.
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cho giáo viên : tài liệu, sách
tham khảo ...
3. Đối với Phòng Giáo dục - Đào tạo :
- Mở các lớp bồi dưỡng về công tác ôn luyện học sinh giỏi.
- Tiếp tục duy trì có hiệu quả nguồn quỹ khuyến học để động viên khen thưởng

kịp thời cho các giáo viên, học sinh đạt thành tích cao.
- Bổ sung quy chế khen thưởng : tăng mức thưởng, mở rộng đối tượng...
-Giáo viên dạy bồi dưỡng liên tục trong ba năm có học sinh đạt giải Nhất cần có
chế độ khuyến khích.
- Có cơ chế tài chính để động viên người tham gia công tác ôn luyện một cách
thoả đáng.
, ngày 12 tháng 12 năm 2015
Người trình bày :

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
2.Nguyễn Huệ Chi (2003), “ Mấy đặc trưng loại biệt của Văn học Việt Nam từ
thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học, (5), tr. 7- 14.
3.Hà Minh Đức (1984), Cơ sở lí luận văn học, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp Hà Nội
4.A.T. A. Gu rê vích (1998), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến
dịch, NXB Giáo dục, Hà Nội
5.Hoàng Ngọc Hiến (1990), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội
6.Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội

21


7.Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội
8.Nhiều tác giả (1997), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
9.Nhiều tác giả (2004), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
10.Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Thi pháp thơ Đường, NXB Đà
Nẵng

11.Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ Giáo viên
xuất bản, Hà Nội
12.Trần Nho Thìn (1993), “Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái tôi tác
giả”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 33.
13.Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.

22



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×