Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Luận án sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.77 KB, 165 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích
dẫn trong luận án là trung thực và có xuất
xứ rõ ràng.

Tác giả luận án

NCS Nguyễn Đình Sảng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

5

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

12

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SẴN SÀNG TÂM LÍ
VỚI HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN SỰ HIỆN NAY

32

1.1.



Các khái niệm

32

1.2.

Cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của
học viên các trường đại học quân sự

49

Các yếu tố ảnh hưởng đến sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự

63

Tiêu chí đánh giá sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên ở các trường đại học quân sự hiện nay

70

TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

80

2.1.

Tổ chức nghiên cứu


80

2.2.

Phương pháp nghiên cứu

84

2.3.

Tổ chức thực nghiệm tác động

90

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP
TÂM LÍ - SƯ PHẠM NÂNG CAO SẴN SÀNG TÂM LÍ
VỚI HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC VIÊN CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN SỰ HIỆN NAY

99

Phân tích thực trạng sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay

99

Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến sẵn sàng tâm lí với
hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học
quân sự hiện nay


119

Những biện pháp tâm lí - sư phạm nâng cao sẵn sàng
tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các
trường đại học quân sự hiện nay

123

Phân tích kết quả thực nghiệm

140

1.3.
1.4.
Chương 2

Chương 3

3.1.
3.2.

3.3.

3.4.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

163


DANH MỤC BẢNG
TT

TÊN BẢNG

Trang

Bảng 1.1. Kết quả tổng hợp phát hiện các tiêu chí đánh giá sẵn
sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường
đại học quân sự hiện nay

81

Bảng 3.1. Đánh giá của giảng viên, cán bộ quản lí học viên về
thực trạng động cơ hoạt động nghề nghiệp của học viên

103


Bảng 3.2. Tự đánh giá của học viên về thực trạng động cơ hoạt
động nghề nghiệp

104

Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả đánh giá động cơ hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự

105

Bảng 3.4. Đánh giá của giảng viên, cán bộ quản lí về thực trạng
kiến thức của học viên

107

6.

Bảng 3.5. Tự đánh giá thực trạng kiến thức của học viên

108

7.

Bảng 3.6. Điểm đánh giá thực trạng kiến thức của học viên các
trường đại học quân sự

110

Bảng 3.7. Đánh giá của giảng viên, cán bộ quản lí về thực trạng

cảm xúc - ý chí của học viên

112

Bảng 3.8. Tự đánh giá thực trạng cảm xúc-ý chí của học viên

113

1.

2.
3.
4.
5.

8.
9.

10. Bảng 3.9. Thực trạng cảm xúc - ý chí của học viên

113

11. Bảng 3.10. Đánh giá của giảng viên, cán bộ quản lí về thực trạng
kĩ năng nghề nghiệp của học viên

116

12. Bảng 3.11. Tự đánh giá thực trạng kĩ năng nghề nghiệp của học
viên


118

13. Bảng 3.12. Tổng hợp kết quả đánh giá thực trạng kĩ năng nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự

118

14. Bảng 3.13. Thực trạng sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay

120

15. Bảng 3.14. Giảng viên, cán bộ quản lí đánh giá về mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đến sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay

122

16. Bảng 3.15. Học viên đánh giá về mức độ ảnh hưởng của các yếu
tố đến sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp

124

17. Bảng 3.16. Tính khả thi của các biện pháp tâm lí - sư phạm nâng
cao sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các
trường đại học quân sự hiện nay
18. Bảng 3.17. Tình hình thực hiện các biện pháp tâm lí - sư phạm

146
147



nâng cao sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên
các trường đại học quân sự thời gian vừa qua
19. Bảng 3.18. Mức độ phát triển sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp của
học viên trước thực nghiệm
20. Bảng 3.19. Mức độ sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp của học viên
sau thực nghiệm
21. Bảng 3.20. Tổng hợp mức độ sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp của
học viên trước và sau thực nghiệm

148
150
151

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
TÊN SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

8.
9.

Sơ đồ 1.1. Cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp
của học viên các trường đại học quân sự hiện nay

Biểu đồ 3.1. So sánh đánh giá thực trạng động cơ nghề nghiệp
của học viên các trường đại học quân sự hiện nay
Biểu đồ 3.2. So sánh kết quả đánh giá thực trạng kiến thức của
học viên các trường đại học quân sự hiện nay
Biểu đồ 3.3. So sánh thực trạng cảm xúc - ý chí của học viên
Biểu đồ 3.4. So sánh kết quả đánh giá thực trạng kĩ năng nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay
Biểu đồ 3.5. Thực trạng sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay
Biểu đồ 3.6. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến sẵn sàng tâm
lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học
quân sự hiện nay
Biểu đồ 3.7. So sánh mức độ sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp của
học viên trước thực nghiệm
Biểu đồ 3.8. Mức độ sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp của học viên
trước và sau thực nghiệm

Trang
63
106
109
114
119
121

125
149
152



5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Sẵn sàng tâm lí với hoạt động nói chung, sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp nói riêng là một vấn đề khoa học được các nhà Tâm lí học, Tâm
lí học sư phạm, Giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Sẵn sàng tâm lí với hoạt
động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay là Luận
án tiến sĩ Tâm lí học được nghiên cứu độc lập đầu tiên ở Việt Nam. Trên cơ sở
khái quát các công trình nghiên cứu Tâm lí học, Tâm lí học sư phạm, Giáo
dục học trên thế giới và trong nước, tác giả luận án đã quan niệm: sẵn sàng
tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự là
tổ hợp các phẩm chất tâm lí của nhân cách học viên được biểu hiện ở: động
cơ hoạt động nghề nghiệp, kiến thức, cảm xúc - ý chí, kĩ năng nghề nghiệp
giúp học viên thực hiện hoạt động nghề nghiệp đạt kết quả cao theo mục tiêu
đào tạo của nhà trường; xác định cấu trúc, những yếu tố ảnh hưởng và các
biện pháp tâm lí - sư phạm nâng cao sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay.
2. Lí do chọn đề tài
Công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lí, với chất lượng tổng
hợp và sức chiến đấu cao”[22, tr.234], sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng
lợi bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, phương hướng đào tạo sĩ quan ở các
trường đại học quân sự là “đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị
vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc và nhân dân; tập trung đào tạo theo chức vụ có trình độ học vấn
tương ứng, trong đó, đào tạo cán bộ cấp phân đội có trình độ đại học là cơ
bản; đào tạo đội ngũ nhân viên chuyên môn kĩ thuật theo các nhóm ngành của


6

các quân chủng, binh chủng, ngành có mặt bằng kiến thức chung của Nhà
nước, có tay nghề đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội”[24,tr.4-5]. Chính
những yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, của hoạt động quân sự, yêu
cầu xây dựng Quân đội thời kì mới, mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ Quân
đội, đòi hỏi các trường đại học quân sự vừa phải chú trọng trang bị cho học
viên kiến thức toàn diện, kiến thức chuyên ngành, phát triển các phẩm chất
nhân cách nghề nghiệp quân sự, vừa phải hình thành, phát triển sự sẵn sàng
bên trong với hoạt động nghề nghiệp. Bởi điều đó có ý nghĩa rất quan trọng,
giúp người sĩ quan tương lai nhanh chóng hòa nhập với mọi mặt hoạt động
của đơn vị, luôn luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được
giao trên cương vị, chức trách của những cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị,
những cán bộ chuyên môn theo mục tiêu đào tạo.
Trong thực tiễn quá trình sư phạm ở các trường đại học quân sự, vẫn
còn một bộ phận học viên chưa sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp,
biểu hiện ở: động cơ học tập nghề nghiệp chưa ổn định; nhận thức chưa đầy
đủ về mục tiêu, yêu cầu đào tạo; lúng túng trong thực hành giải quyết nhiệm
vụ theo chức trách; kĩ năng xử trí một số tình huống quân sự hạn chế; giao
tiếp quân sự chưa đúng; ý chí vươn lên không rõ ràng...
Sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp nói chung, với nghề nghiệp
quân sự nói riêng đã được nhiều nhà Tâm lí học nước ngoài và Việt Nam
nghiên cứu trên bình diện lí luận, ở các khía cạnh, góc độ và phương pháp
tiếp cận khác nhau, chủ yếu nhằm mục đích hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông, hoặc chuẩn bị tâm lí cho chủ thể trước những hoạt động nhất định. Vấn
đề sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại
học quân sự hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống.
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài luận án của mình.


7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lí luận, thực tiễn của vấn đề sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay; trên cơ sở đó,
đề xuất những biện pháp tâm lí - sư phạm nâng cao sẵn sàng tâm lí với hoạt
động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, cấu trúc, những yếu tố ảnh hưởng đến sẵn sàng tâm
lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự.
- Đánh giá đúng thực trạng sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp,
xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài và bên trong đến sẵn
sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân
sự hiện nay.
- Đề xuất được biện pháp tâm lí - sư phạm nâng cao sẵn sàng tâm lí với
hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm góp phần chứng minh tính khả thi của
các biện pháp đó.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại
học quân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi đối tượng: sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học
viên các trường đại học quân sự ở cấp độ sẵn sàng nhân cách.
Phạm vi khách thể: Học viên đang học tập năm thứ ba của khóa học


8
thuộc 3 khối đào tạo: sĩ quan chính trị, sĩ quan chỉ huy tham mưu lục quân, sĩ
quan chuyên môn kĩ thuật; giảng viên giảng dạy các môn chuyên ngành:

Công tác đảng, công tác chính trị, Tâm lí học, Sư phạm quân sự, Chiến thuật,
Kĩ sư Vũ khí-đạn, Kĩ sư chế tạo động cơ; hệ (tiểu đoàn) trưởng, chính trị viên
hệ (tiểu đoàn), đại đội trưởng, chính trị viên đại đội quản lí học viên.
4.3. Giả thuyết khoa học
Sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên năm thứ ba các
trường đại học quân sự hiện nay ở mức trung bình.
Nếu chỉ ra được cấu trúc tâm lí, xác định đúng các yếu tố ảnh hưởng thì
sẽ đề xuất được những biện pháp tâm lí - sư phạm phù hợp nâng cao sẵn sàng
tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự
hiện nay.
5. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận, thực tiễn
Cơ sở lí luận
- Luận án được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc phương pháp luận của
Tâm lí học như: nguyên tắc phát triển tâm lí; nguyên tắc quyết định luận duy
vật biện chứng các hiện tượng tâm lí; nguyên tắc thống nhất giữa tâm lí, ý
thức và hoạt động với phương pháp tiếp cận: hoạt động - giá trị - nhân cách,
hệ thống - cấu trúc, lịch sử - lô gic.
- Luận án kế thừa kết quả nghiên cứu về sẵn sàng tâm lí của các tác giả
trong nước và nước ngoài.
Cơ sở thực tiễn
- Thực tiễn đào tạo nghề nghiệp quân sự ở các trường đại học quân sự.
- Thực tiễn sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên


9
năm thứ ba các trường đại học quân sự: Sĩ quan Lục quân 1, Sĩ quan Lục quân
2, Sĩ quan Chính trị, Học viện Kĩ thuật quân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của Tâm lí học
và Tâm lí học quân sự, bao gồm:
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích các tài liệu có liên quan,
tổng hợp, khái quát lí luận về sẵn sàng tâm lí, sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát: Quan sát hành vi học tập của học viên trong các
tiết học chuyên ngành Chiến thuật, Công tác đảng, công tác chính trị, trong
các giờ thảo luận ở tổ học tập; đặc biệt, quan sát học viên tham gia các buổi
học thực hành xử trí tình huống, quan sát học viên duy trì, điều hành hoạt
động của trung đội, đại đội trong quá trình thực tập tại đơn vị.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Điều tra ở giảng viên, cán bộ
quản lí và học viên về các nội dung liên quan đến sẵn sàng tâm lí với hoạt
động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự.
Phương pháp phỏng vấn: Nhằm định tính, kiểm tra kết quả nghiên cứu
thu được từ phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Phương pháp chuyên gia: Trưng cầu ý kiến các chuyên gia Tâm lí học
và giảng viên chuyên ngành về cấu trúc sẵn sàng tâm lí, về các yếu tố ảnh
hưởng đến sẵn sàng tâm lí, về tiêu chí đánh giá sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động để đánh giá mức độ sẵn
sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học viên các trường đại học quân
sự hiện nay thông qua kết quả học tập, rèn luyện, thực hành, thực tập.


10
Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm tác động nâng cao rèn luyện
sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp của học viên nhằm chứng minh tính đúng đắn
của giả thuyết khoa học và tính khả thi của các biện pháp tâm lí - sư phạm.
Phương pháp thống kê toán học: Các số liệu điều tra, khảo sát, thực

nghiệm được xử lí chủ yếu trên chương trình SPSS 20.0 làm tăng thêm độ tin
cậy và tính chính xác của các kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận án
6.1. Về lí luận
Luận án đã xác định rõ khái niệm sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay; chỉ ra bốn thành
phần trong cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp; xác định
những yếu tố ảnh hưởng đến sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của
học viên các trường đại học quân sự hiện nay. Kết quả nghiên cứu đã cụ thể
hóa và làm phong phú thêm lí luận về sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay trong Tâm lí học sẵn
sàng hoạt động và Tâm lí học sư phạm quân sự.
6.2. Về thực tiễn
Phát hiện thực trạng sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của học
viên các trường đại học quân sự còn ở mức độ trung bình; chỉ ra mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong đến sẵn sàng tâm lí
với hoạt động nghề nghiệp của học viên.
Đề xuất được hệ thống các biện pháp tâm lí - sư phạm nâng cao sẵn
sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp cho học viên các trường đại học quân
sự thông qua tác động hình thành các thành phần trong cấu trúc, cải thiện các
yếu tố ảnh hưởng. Đồng thời, tác giả luận án xây dựng và tiến hành một
chương trình thực nghiệm tác động nâng cao sẵn sàng kĩ năng nghề nghiệp


11
cho học viên thông qua dạy học lí thuyết và thực hành xử trí tình huống.
Chương trình thực nghiệm bước đầu đã mang lại kết quả nâng cao sẵn sàng kĩ
năng nghề nghiệp cho học viên, được đội ngũ giảng viên ở cơ sở tiến hành
thực nghiệm đánh giá tốt, có tính thực tiễn cao.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong

nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học ở các trường đại học quân sự, trong
huấn luyện chuyên môn nghiệp vụ cho các đối tượng liên quan.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
Luận án bổ sung, làm phong phú thêm lí luận Tâm lí học về sẵn sàng
tâm lí với hoạt động nói chung, sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của
học viên các trường đại học quân sự hiện nay nói riêng; cung cấp thêm cơ sở
Tâm lí học cho việc hình thành, nâng cao sẵn sàng tâm lí, góp phần nâng cao
chất lượng đào tạo đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ở các trường
đại học quân sự hiện nay và trong tương lai.
8. Cấu trúc của luận án
Luận án có cấu trúc gồm: mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3
chương với 11 tiết, kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình đã công bố
của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.


12
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN SẴN SÀNG TÂM LÍ
VỚI HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
QUÂN SỰ HIỆN NAY

Vấn đề sẵn sàng tâm lí với hoạt động đã được nhiều nhà tâm lí học
nghiên cứu. Muốn nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của
học viên các trường đại học quân sự hiện nay, luận án phải dựa vào các kết
quả nghiên cứu đó.
Các công trình nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với hoạt động có thể khái
quát thành 4 hướng chủ yếu: hướng nghiên cứu bản chất của sẵn sàng tâm lí
với hoạt động; hướng nghiên cứu cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động;
hướng nghiên cứu tiêu chí đánh giá sẵn sàng tâm lí với hoạt động; hướng
nghiên cứu giải pháp, biện pháp hình thành sẵn sàng tâm lí với hoạt động.

1.1. Hướng nghiên cứu bản chất của sẵn sàng tâm lí với hoạt động
Trong Tâm lí học đã xuất hiện các thuật ngữ: tâm thế, thái độ, trạng thái
sẵn sàng... để chỉ tính tích cực có hướng quy định sự khởi phát và kết quả của
hoạt động được Tâm lí học hiện đại gọi là sẵn sàng tâm lí với hoạt động.
1.1.1. Nghiên cứu của các nhà tâm lí học nước ngoài
Các nhà Tâm lí học Gestalt khi nghiên cứu tính toàn vẹn của tri giác đã
đồng nhất sẵn sàng tâm lí với một dạng hoạt động nhận thức lí tính. Ngay từ
năm 1917, Kohler W, một đại biểu xuất sắc của trường phái Tâm lí học
Gestalt, đã cho rằng: hoạt động của con người là do kích hoạt của “sự bừng
hiểu”. Ông lí giải, con người hoạt động là do chợt nhận ra ý nghĩa, giá trị của
kết quả [38], [73].
Các nhà Phân tâm học mà đại biểu là Freud S. (1856-1939) quan niệm
về sẵn sàng tâm lí với hoạt động từ một góc độ khác, góc độ bản năng vô
thức, coi đó là động lực cơ bản của hành vi con người. Trong các công trình


13
nghiên cứu của mình, các nhà Phân tâm học cho rằng: sẵn sàng tâm lí với hoạt
động của con người là sự phức hợp mâu thuẫn của các tầng “cái tôi” bị dồn
nén ở tất cả các cá nhân được “giải phóng” [29], [38].
Nhà tâm lí học nhân văn Maslow A. (1908-1970) năm 1943 đã nghiên
cứu và xây dựng hệ thống thứ bậc nhu cầu của con người và cho rằng, sẵn
sàng tâm lí với hoạt động là trạng thái tự do của hệ thống nhu cầu của con
người, trong đó nhu cầu “tự khẳng định, tự thể hiện” giữ vai trò chủ đạo [38].
Khác với các nhà Phân tâm học, các tác giả thuộc trường phái Tâm lí
học Hành vi, tiêu biểu như: Watson J.B, Thorndike E.L, Skinner B.F, Apellcor
W... lại chủ trương nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với hoạt động thông qua nghiên
cứu và điều khiển hành vi con người theo công thức S - R (kích thích - phản
ứng), bằng phương pháp “thử - sai”. Các nhà Tâm lí học Hành vi cho rằng,
sẵn sàng tâm lí với hoạt động là chương trình hành vi, sơ đồ hành vi hợp lí, có

sẵn đáp ứng lại kích thích, cao hơn là những kích thích có giá trị, hoặc trạng
thái sẵn sàng về mặt tư tưởng, tình cảm và hành động của con người nhằm
hướng vào một khách thể xã hội nào đó [38], [117].
Vấn đề sẵn sàng tâm lí với các dạng hoạt động khác nhau trong đời
sống xã hội là vấn đề được nghiên cứu rộng rãi, thúc đẩy Tâm lí học Liên xô
phát triển và hình thành một phân ngành mới là Tâm lí học sẵn sàng hoạt
động. Các nhà Tâm lí học Liên xô cho rằng, trước khi bước vào thực hiện
nhiệm vụ hay một hoạt động cụ thể, ở chủ thể bao giờ cũng diễn ra quá trình
chuẩn bị tâm lí cho hành động. Do sự chuẩn bị này, trong đời sống tâm lí của
chủ thể diễn ra các tâm thế đi vào hoạt động (Zaparogiev, 1958; Uznadze
N.D, 1961; Basin P.V, 1966, 1973; Asmalov A.G, 1974...) hay xuất hiện các
trạng thái sẵn sàng hoạt động (Levitov N.D, 1963, 1964, 1967; Striukov G.A,
1970; Frangivili A.Z, 1972...).
Vấn đề sẵn sàng tâm lí và sẵn sàng tâm lí với các lĩnh vực hoạt động cụ
thể được các nhà tâm lí học Liên Xô quan tâm đặc biệt và triển khai nghiên


14
cứu rộng rãi trong những năm 1940 - 1970. Việc tiếp cận nghiên cứu sẵn sàng
tâm lí với tư cách là một trạng thái của nhân cách, quan hệ chặt chẽ với nhân
cách và được hình thành từ tác động bên ngoài là một đóng góp vô cùng quan
trọng cho nền khoa học tâm lí hiện đại khách quan, phản ánh lập trường duy
vật biện chứng trong nghiên cứu, lí giải các hiện tượng tâm lí người.
Các công trình nghiên cứu tâm lí học sẵn sàng hoạt động ở Liên Xô cũ
được triển khai theo ba hướng tiếp cận: tiếp cận chức năng, tiếp cận nhân
cách, tiếp cận nhân cách - hoạt động đối với vấn đề này.
Các tác giả theo hướng tiếp cận chức năng quan niệm sẵn sàng tâm lí
với hoạt động nói chung, hoạt động nghề nghiệp nói riêng là hệ thống chức
năng cơ động của các trạng thái tâm lí nhằm chuẩn bị ý thức cho hoạt động
lao động sắp tới và tạo ra tính tích cực hoạt động khi chủ thể thực hiện các

nhiệm vụ lao động. Đại biểu theo hướng tiếp cận này là Levitov N.D, 1963,
1967; Pushkin V.N, 1969; Alatoroev V.A, 1970; Illin E.P, 1970; Genov F,
1971; Ganjashkin A.D, 1972 và những người khác [117].
Levitov N.D là người đầu tiên trực tiếp bàn về vấn đề sẵn sàng tâm lí
của con người với hoạt động, coi đó là một trong những trạng thái tâm lí quan
trọng. Ông đã phân chia sẵn sàng tâm lí thành: sẵn sàng lâu dài và sẵn sàng
nhất thời. Ông chỉ ra sự phụ thuộc của những trạng thái đó vào những đặc
điểm nhân cách, vào kiểu hoạt động thần kinh cấp cao của con người, vào
điều kiện mà hoạt động diễn ra [142].
Các tác giả theo hướng tiếp cận nhân cách quan niệm sẵn sàng tâm lí
với hoạt động nhất định, với hoạt động nghề nghiệp là tổ hợp các thuộc tính
của nhân cách làm tiền đề tâm lí cho hoạt động, đảm bảo cho chủ thể thực
hiện tốt các nhiệm vụ lao động ngay từ đầu và trong toàn bộ quá trình lao
động. Các tác giả tiêu biểu theo hướng này gồm: Puni A.C, 1969; Covaliov
A.G, 1971; Frangivili A.Z, 1972; Xtoliarenko A.M, 1972; Gasparjan R.A,
1974; Diatrenco M.I và Kandubovich L.A, 1976... [117].


15
Xtoliarenco A.M (1972) đã đề cập đến sẵn sàng tâm lí với hoạt động
chiến đấu, coi đó là trạng thái bên trong của cá nhân và tập thể quân nhân, là
khả năng thực hiện những hành động tích cực, kiên quyết và có hiệu quả
nhằm đánh bại kẻ thù trong mọi tình huống. Ông cho rằng, sẵn sàng bên trong
của con người có hai mặt: sẵn sàng chung hay sẵn sàng thường xuyên (trong
thời gian dài) và trạng thái sẵn sàng trước khi hành động hay sẵn sàng nhất
thời, sẵn sàng tình huống. Ông cũng đã chỉ ra những đặc trưng ổn định của
người chiến sĩ sẵn sàng bước vào chiến đấu đó là: những quan điểm rõ ràng,
những phẩm chất, kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen nhất định. Mặt khác,
Xtoliarenco cũng chỉ ra mối quan hệ giữa các phẩm chất chính trị, tư tưởng,
với sẵn sàng tâm lí trong chiến đấu [120].

Diatrenco M.I và Kandubovic L.A (1976) trong công trình Những vấn
đề tâm lí học sẵn sàng hoạt động đã nêu khá đầy đủ lí luận về sẵn sàng tâm lí
với hoạt động và quá trình hình thành nó. Theo hai ông, tính sẵn sàng đối với
một loại hoạt động này hay hoạt động khác là sự biểu hiện có mục đích của
nhân cách bao gồm: niềm tin, quan điểm, thái độ; động cơ, tình cảm, những
phẩm chất ý chí và trí tuệ, những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, tâm trạng đối với
một hành vi nhất định. Sự sẵn sàng đó đạt được trong quá trình đào tạo, về
mặt tư tưởng đạo đức, chính trị, tâm lí nghề nghiệp và thể lực, là kết quả của
sự phát triển toàn diện của nhân cách có tính đến những yêu cầu do các đặc
điểm của hoạt động nghề nghiệp đặt ra [138].
Bên cạnh đó, một số nhà tâm lí học theo hướng tiếp cận nhân cách hoạt động trong nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp cho
rằng: sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp như là sự tích hợp nội dung
tâm lí của một dạng hoạt động nghề nghiệp nhất định. Chúng vừa có chức
năng phát động, định hướng, vừa có chức năng duy trì hoạt động đó đạt đến
kết quả. Tiêu biểu là Zaparogiev, 1958; Uznadze N.D, 1961; Basin P.V, 1966,


16
1973; Asmalov A.G, 1974 [117]; Leontiev A.N, 1974 [53]; Lomov B.F, 2000
[57] và những người khác.
Như vậy, theo các công trình nghiên cứu trên, sẵn sàng tâm lí với tư
cách là một trạng thái của con người trước một hoạt động cụ thể, chẳng hạn,
như sẵn sàng tâm lí tham gia luyện tập, thi đấu, sẵn sàng tâm lí trước khi bước
vào trận đánh. Khi đề cập đến trạng thái sẵn sàng tâm lí, các nhà tâm lí học
luôn luôn đặt nó trong mối quan hệ chặt chẽ biện chứng với các phẩm chất
nhân cách, thể lực trước khi tham gia một hoạt động nhất định.
1.1.2. Nghiên cứu của các nhà tâm lí học Việt Nam
Ở Việt Nam, nhiều tác giả đã nghiên cứu những khía cạnh khác nhau
của sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp, tiêu biểu như: Nguyễn Ngọc
Bích [3]; Hoàng Đình Châu [8]; Phạm Tất Dong [15], [16], [17]; Phạm Hoàng

Gia [31]; Phạm Minh Hạc [34], [35]; Đỗ Duy Môn [59]; Chu Thanh Phong
[70]; Nguyễn Ngọc Phú [71], [72], [74]; Nguyễn Văn Sơn [81]; Hoàng Văn
Thanh [84], [85]; Trần Trọng Thuỷ [87], [90], [91]; Đỗ Mạnh Tôn [92], [93],
[94]; Ngô Minh Tuấn [108], [109]; Nguyễn Quang Uẩn [111], [112], [114];
Phạm Ngọc Uyển [116], [117]...
Kế thừa có phê phán thành tựu của Tâm lí học nước ngoài, đặc biệt là
những thành tựu của Tâm lí học Xô viết, các nhà tâm lí học Việt Nam đã triển
khai nghiên cứu theo phương pháp tiếp cận hoạt động - nhân cách trong
nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với hoạt động nói chung, sẵn sàng tâm lí với hoạt
động nghề nghiệp nói riêng.
Các nhà tâm lí học Việt Nam quan niệm: sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp là tổ hợp các thuộc tính (phẩm chất) nhân cách của chủ thể (giáo
viên, học sinh, sinh viên, học viên, công nhân, người lao động...) phù hợp và
đáp ứng được yêu cầu tâm lí của lĩnh vực nghề nghiệp mà chủ thể lựa chọn,
tham gia. Các công trình trên đã có đóng góp rất quan trọng cho nền Tâm lí
học Việt Nam.


17
Như vậy, có thể tiếp cận nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự hiện nay theo hướng này.
1.2. Hướng nghiên cứu cấu trúc của sẵn sàng tâm lí với hoạt động
1.2.1. Nghiên cứu của các nhà tâm lí học nước ngoài
Các nhà tâm lí học xô viết như: Levitov N.D, 1963 [142]; Covaliov
A.G, 1971 [12]; Xtoliarenco A.M, 1965, 1972 [120]... đã xác định trạng thái
sẵn sàng tâm lí với hoạt động của con người gồm hai thành phần: sẵn sàng
tâm lí thường xuyên (sẵn sàng chung) và sẵn sàng tâm lí tình huống (sẵn sàng
tâm lí nhất thời, lúc xảy ra hành động).
Trong tác phẩm Bàn về những trạng thái tâm lí của con người (1963),
Levitov N.D cho rằng, nếu thiếu trạng thái sẵn sàng tâm lí, con người không

thể thực hiện hoạt động được. Trong cuộc sống, con người thực hiện nhiều
hoạt động kế tiếp hoặc đan xen nhau, do đó cần có sự chuyển tiếp giữa hoạt
động này sang hoạt động khác, thậm chí là sự chuyển tiếp giữa các hành động
của một hoạt động nhất định. Vì vậy, ông xác định trạng thái sẵn sàng tâm lí
của con người gồm hai thành phần có chức năng tương đối độc lập với nhau:
sẵn sàng lâu dài và sẵn sàng nhất thời. Ông cũng chỉ ra sự phụ thuộc của từng
trạng thái đó vào những đặc điểm của nhân cách, vào những kiểu hoạt động
thần kinh cao cấp cũng như vào điều kiện diễn ra hoạt động [142].
Xtoliarenco A.M trong tác phẩm Tâm lí học trực ban chiến đấu và trực
chiến trên hạm tàu (1972) đồng tình với các nhà tâm lí học về sự phân biệt hai
mặt của sự sẵn sàng bên trong của con người khi thực hiện một hoạt động
nhất định, đó là: sự sẵn sàng chung (trong thời gian dài) và trạng thái sẵn sàng
hành động (tình huống ngay lúc xảy ra hành động). Mỗi mặt này có chức
năng khác nhau đối với hoạt động của người chiến sĩ. Ông khẳng định, các
yếu tố hợp thành sự sẵn sàng chung của bộ đội là trình độ đào tạo người đó về
chính trị - tinh thần, tâm lí, nghề nghiệp và sức khỏe [120].


18
Trên cơ sở lí thuyết tâm lí học hoạt động, một số nhà tâm lí học như
Leontiev A.N (1974), Lomov B.F (1981)… đã chỉ ra cấu trúc trạng thái sẵn
sàng tâm lí với hoạt động của con người bao gồm: thành phần nhận thức (ý
nghĩa của hoạt động, đối tượng, điều kiện của hoạt động), thành phần động
lực (động cơ tạo ý nhân cách, mục đích, cảm xúc - tình cảm), thành phần
phương thức hoạt động (cách thức, mô hình thao tác) [53], [57].
Một số nhà tâm lí học xô viết khác tiếp cận theo hướng dựa trên các
phẩm chất nhân cách nghề nghiệp đã xác định cấu trúc sẵn sàng tâm lí với
hoạt động bao gồm: niềm tin, quan điểm, thái độ; động cơ, tình cảm, những
phẩm chất ý chí; trí tuệ, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, tâm trạng (Diatrenco M.I,
1952, 1969; Kandubovich L.A, 1973, 1982) hoặc: hứng thú nghề nghiệp;

hứng thú môn học; tri thức và kĩ năng tổng hợp; năng lực kĩ thuật; ý thức
chính trị, tư tưởng, đạo đức (Trebusheva V.V, 1978) hay: tri thức; năng lực kĩ
thuật; hứng thú; xu hướng nghề nghiệp (Trebacov L.M, 1979). Chẳng hạn,
Diatrenco M.I và Kandubovich L.A trong tác phẩm Những vấn đề tâm lí học
sẵn sàng hoạt động (1976) đã chỉ ra cấu trúc cơ động của trạng thái sẵn sàng
tâm lí với những hoạt động phức tạp bao gồm các thành phần có quan hệ qua
lại với nhau đó là: ý thức về những nhu cầu của mình; ý thức và mục đích và
việc giải quyết chúng; sự xem xét đánh giá các điều kiện của hành động, hoạt
động; các quá trình trí tuệ, cảm xúc, động cơ và ý chí của con người [138].
Trong những năm gần đây, do sự phát triển của khoa học công nghệ,
nhiều nhà tâm lí học nước ngoài chú trọng nghiên cứu sẵn sàng tâm lí với các
dạng hoạt động nhất định. Họ khá thống nhất trong việc xác định cấu trúc sẵn
sàng tâm lí với hoạt động gồm hai thành phần chính là nhận thức (tri thức,
kiến thức) và kĩ năng (Dmitrieva O.B, 1997 [137]; Denhisova O.P, 2007
[136]; Pravad N.V.V, 2011 [130] và những người khác).
Tác giả Pravad N.V.V (2011) cho rằng, để hoạt động trên một lĩnh vực
nhất định có hiệu quả, chủ thể cần phải có sự hiểu biết (understanding) về lĩnh


19
vực hoạt động của mình và phải được trang bị những kĩ năng quan trọng (key
skills). Trong những kĩ năng đó, ông chia thành hai loại: kĩ năng cứng (hard
skills) và kĩ năng mềm (soft skills) [130].
Tác giả David T. Conley (2011) trong công trình nghiên cứu Hình
thành sẵn sàng học tập nghề nghiệp đã xác định bốn thành phần chủ yếu: có
phương pháp nhận thức cơ bản; hiểu biết nội dung chủ yếu; kĩ năng hành vi
chủ yếu; hiểu biết về điều kiện nghề nghiệp [125].
Nghiên cứu của các nhà Tâm lí học trong nước
Tác giả Phạm Hoàng Gia đã xác định cấu trúc sẵn sàng tâm lí đối với
lao động gồm hai tiểu cấu trúc: yếu tố chủ quan và khách quan quan hệ biện

chứng với nhau. Các yếu tố chủ quan được xác định là: quan niệm đúng về
mục đích học tập và lao động; tiêu chuẩn tâm - sinh lí, đặc điểm cảm giác động tác, hiểu biết, kĩ xảo, kĩ năng; thái độ của cá nhân với đối tượng, quá
trình và kết quả lao động, thái độ đối với tập thể lao động, yêu cầu đối với bản
thân; năng lực vạch kế hoạch lao động và tổ chức lao động hợp lí. Các yếu tố
khách quan quy định các thành phần trong cấu trúc gồm: sự phù hợp nghề với
các đặc điểm của nhân cách; tính sáng tạo và thúc đẩy sự phát triển của hoạt
động lao động của nghề; quan hệ tốt giữa mọi người trong đơn vị sản xuất;
phẩm chất của tổ chức sản xuất [31].
Tác giả Phạm Tất Dong đã xác định sẵn sàng tâm lí đi vào lao động là
một hệ thống có cấu trúc hoàn chỉnh, được cấu thành bởi bốn hệ thống nhỏ
với các thành tố: thành phần nhận thức (tri thức lao động kĩ thuật tổng hợp
chung, tri thức về thế giới nghề nghiệp, sự hiểu biết về yêu cầu của nghề đó
đối với con người, tri thức về cách chọn nghề, cách xác định phù hợp nghề,
hiểu biết về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với lao động xã hội); thành phần
động cơ (thái độ đối với lao động, hứng thú đối với lao động kĩ thuật, động cơ
chọn nghề, động cơ đi vào nghề trong sáng, lí tưởng nghề nghiệp và tâm thế


20
muốn thỏa mãn nhu cầu bằng lao động); thành phần tâm lí cần thiết cho hoạt
động (ý chí quyết tâm vươn tới một nghề nhất định, các kĩ xảo và kĩ năng lao
động kĩ thuật, năng lực kĩ thuật); phẩm chất nhân cách cần thiết cho lao động
(đạo đức, lương tâm, lí tưởng nghề nghiệp, năng lực kĩ thuật nghề nghiệp,
tính tổ chức, tính kỉ luật, tính tập thể, tinh thần tự chủ, sáng tạo trong lao
động, khiêm tốn, thật thà, đồng cảm, khả năng giữ vững bầu không khí tâm lí
trong tập thể...) [15], [16], [17].
Tác giả Trần Trọng Thuỷ chỉ ra các thành tố của sự sẵn sàng tâm lí đối
với hoạt động của sinh viên sư phạm bao gồm: phẩm chất trí tuệ, tri thức
chung, tri thức nghề, sự hiểu biết đặc điểm tâm - sinh lí của mình và của
nghề; động cơ, tình cảm, nguyện vọng nắm vững nghề; ý chí, kĩ xảo, kĩ năng,

tâm thế đối với một hành vi nhất định; mục đích, quan điểm, niềm tin, thái độ
đối với lao động [87].
Tác giả Phạm Ngọc Uyển cho rằng sự sẵn sàng tâm lí là một cấu trúc
chức năng cơ động bao gồm bốn tiểu cấu trúc: sẵn sàng động cơ, sẵn sàng trí
tuệ, sẵn sàng ý chí và sẵn sàng đạo đức [117].
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn (2010) đã chỉ ra mô hình nhân cách sinh
viên đại học sư phạm lúc tốt nghiệp - khi họ đã sẵn sàng tâm lí bước vào hoạt
động nghề nghiệp - là tổ hợp những phẩm chất nhân cách đáp ứng với yêu cầu
của nghề nghiệp bao gồm ba nhóm: phẩm chất chung; phẩm chất nghề
nghiệp; năng lực và kĩ năng [111].
Trong công trình Nghiên cứu sự thích ứng với học tập và rèn luyện của
học viên các trường sĩ quan Quân đội (1996), tác giả Đỗ Mạnh Tôn đã đề
xuất một mô hình cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp gồm ba
khối: khối động lực (động cơ, xu hướng nghề nghiệp); khối kĩ năng, kĩ xảo;
khối thói quen [92].


21
Tác giả Nguyễn Ngọc Phú cho rằng, để bộ đội sẵn sàng chiến đấu, cần
làm cho họ có: niềm tin vào vũ khí - kĩ thuật, chỉ huy, đồng đội, khả năng
chiến đấu của ta; biểu tượng đúng đắn về các kiểu chiến tranh, biểu tượng
chính xác về kẻ thù; quen với các khó khăn của điều kiện hoàn cảnh chiến
đấu, thói quen sẵn sàng vượt qua khó khăn; các phẩm chất nghề nghiệp
chuyên môn quân sự đáp ứng yêu cầu của chiến đấu [74].
Tác giả Đỗ Duy Môn khẳng định, chuẩn bị tâm lí sẵn sàng chiến đấu
cho bộ đội là hình thành ở họ các phẩm chất như: niềm tin và ý chí quyết
chiến, quyết thắng; biểu tượng đúng về các kiểu chiến tranh, về kẻ thù; các
phẩm chất tâm lí, các thói quen nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của chiến đấu;
tâm thế sẵn sàng chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ được giao [59].

Hoàng Đình Châu cùng những người khác (2005) trong công trình
nghiên cứu Cơ sở tâm lí sẵn sàng chiến đấu của các quân nhân ở phân đội
cho rằng: Nội dung của sẵn sàng chiến đấu chung bao gồm một hệ thống bền
vững các phẩm chất của nhân cách quân nhân. Trong đó, nổi bật lên là thế
giới quan Mác - Lênin, niềm tin cộng sản chủ nghĩa; sự hiểu biết sâu sắc về
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, sự giác ngộ cao về trách nhiệm
và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; có xu hướng nghề nghiệp quân sự cũng như thái
độ tích cực đối với hoạt động chiến đấu; có tri thức, kĩ xảo, kĩ năng cần thiết
cho hoạt động chiến đấu; có các phẩm chất cảm xúc, ý chí phù hợp. Còn tâm
thế sẵn sàng chiến đấu là sự huy động ở mức độ cao các hoạt động chức năng
tâm lí và sự vững vàng tâm lí là những nội dung cơ bản của trạng thái tâm lí
sẵn sàng chiến đấu của quân nhân [7].
Tác giả Đào Thị Oanh (2008) trong công trình Tâm lí học lao động chỉ
ra cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp bao gồm các thành tố:
hứng thú và tình yêu nghề nghiệp; nhận thức đúng về lợi ích xã hội của nghề;
kĩ năng, kĩ xảo và năng lực kĩ thuật [65].


22
Các tác giả Hoàng Anh, Đỗ Thị Châu, Nguyễn Thạc trong công trình
Hoạt động - Giao tiếp - Nhân cách (2009) cho rằng, cấu trúc sẵn sàng tâm lí
với hoạt động nghề nghiệp gồm ba nhóm thành tố: nhóm động cơ, mục đích
của hoạt động; nhóm kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo; thói quen [2].
Khái quát những công trình nghiên cứu trên đây, có thể thấy: cấu trúc
sẵn sàng tâm lí với hoạt động nhất định đều xuất hiện các thành phần: động
cơ, mục đích (động lực); kiến thức; cảm xúc - ý chí; kĩ năng, kĩ xảo. Đây là
cơ sở rất quan trọng để xác định cấu trúc sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề
nghiệp của học viên các trường đại học quân sự.
1.3. Hướng nghiên cứu tiêu chí của sẵn sàng tâm lí với hoạt động
1.3.1. Nghiên cứu của các nhà tâm lí học nước ngoài

Theo Diatrenco M.I (1969), để đánh giá được mức độ sẵn sàng tâm lí
cần xác định hệ thống các tiêu chí cụ thể, có thể lượng hóa. Ông cho rằng, để
đánh giá mức độ sẵn sàng tâm lí thường xuyên cần đánh giá được: thái độ tích
cực của chủ thể đối với hoạt động nghề nghiệp; mức độ phù hợp của những
nét tính cách, năng lực, khí chất, động cơ với yêu cầu hoạt động nghề nghiệp;
những đặc tính của tri giác, chú ý, tư duy, xúc cảm và bền vững của ý chí. Với
trạng thái sẵn sàng tâm lí nhất thời, cần xác định mức độ: nhận thức nhu cầu
cá nhân, yêu cầu xã hội; mục đích hoạt động; khả năng đánh giá được điều
kiện hoạt động; xác định phương pháp hành động; sử dụng kinh nghiệm,
phương tiện và kĩ năng; dự kiến được kết quả hành động; huy động sức lực
thực hiện hành động [theo 59].
Tác giả Xtoliarenco A.M (1972) dựa vào cấu trúc sẵn sàng tâm lí chung
đã đưa ra các tiêu chí đánh giá sẵn sàng tâm lí chung của quân nhân trong trực
ban chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, đó là: trình độ giác ngộ về chính trị tinh thần; trình độ thành thạo tay nghề; thể lực tốt; vững vàng về tâm lí.
Nhưng để đánh giá được mức độ sẵn sàng tâm lí trong tình huống chiến đấu
(trạng thái sẵn sàng), ông dựa vào những biểu hiện của các phẩm chất tâm lí


23
như: sự tập trung chú ý; tốc độ của phản ứng; hành động ý chí kiên quyết;
thao tác chính xác; hiệu quả chiến đấu cao [120].
Dmitrieva O.B (1997) chỉ ra rằng, để đánh giá được mức động sẵn sàng
tâm lí với hoạt động nghề nghiệp cần đánh giá được cấp độ của động cơ, nhận
thức và các thành phần khác hoạt động. Theo đó, một người được cho là đã
sẵn sàng tâm lí với hoạt động nghề nghiệp phải thể hiện rõ mức độ hình thành
hệ động cơ thông qua tính chất sâu sắc của những nội dung cụ thể, đặc biệt là
nhóm động cơ tạo ý nhân cách; nhận thức chung và nhận thức chuyên môn
sâu rộng; hệ thống kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp phát triển...[137].
1.3.2. Nghiên cứu của các nhà tâm lí học Việt Nam
Các nhà tâm lí học Việt Nam chủ yếu dựa trên cấu trúc của sẵn sàng

tâm lí với hoạt động nghề nghiệp để đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ sẵn
sàng của chủ thể.
Tác giả Trần Trọng Thuỷ (1982) chỉ ra các tiêu chí đánh giá sẵn sàng
tâm lí với hoạt động nghề nghiệp của sinh viên sư phạm thông qua: Niềm tin,
quan điểm, thái độ, động cơ, tình cảm, các phẩm chất ý chí và trí tuệ, kĩ xảo,
kĩ năng, tâm thế [87].
Tác giả Phạm Tất Dong (1982) nêu lên các tiêu chí đánh giá mức độ
sẵn sàng tâm lí với hoạt động theo các thành phần trong cấu trúc:
Thành phần nhận thức: tri thức chung, tri thức nghề nghiệp, hiểu rõ yêu
cầu của nghề nghiệp, hiểu cách chọn nghề, hiểu trách nhiệm và nghĩa vụ.
Thành phần động cơ: thái độ cá nhân đối với lao động, hứng thú với lao
động, lí tưởng nghề nghiệp, tâm thế muốn thỏa mãn nhu cầu bằng lao động
nghề nghiệp.
Thành phần phẩm chất tâm lí cần thiết cho hoạt động: ý chí quyết tâm
cao, kĩ năng, kĩ xảo hành động phù hợp với lao động nghề nghiệp.


24
Phẩm chất nhân cách cần thiết: đạo đức, lương tâm nghề nghiệp; xu
hướng nghề vững chắc; năng lực nghề; tính tổ chức, tính kỉ luật; tính tập thể,
tự chủ, sáng tạo; khiêm tốn, thật thà, đồng cảm [16], [17].
Tác giả Phạm Ngọc Uyển (1988) cho rằng: mỗi thành phần trong cấu
trúc sẵn sàng tâm lí được biểu hiện bằng các dấu hiệu cụ thể. Ông cho đây
chính là những tiêu chí để đánh giá mức độ sẵn sàng tâm lí với hoạt động
nghề nghiệp:
Sự sẵn sàng động cơ: thái độ, tâm thế, muốn tham gia lao động; xu
hướng lí tưởng nghề nghiệp rõ; nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng lao động.
Sẵn sàng trí tuệ: tri thức nghề nghiệp (tri thức kĩ thuật, nhận thức); tư
duy kĩ thuật; kĩ năng, kĩ xảo.
Sẵn sàng ý chí: rèn luyện các phẩm chất nghề nghiệp; tự giác, kiên

quyết lao động; giải quyết mâu thuẫn nội tại khi chọn nghề.
Sẵn sàng đạo đức: dễ đồng cảm, sẵn sàng giao lưu; sẵn sàng tham gia
hoạt động tập thể; có kinh nghiệm tạo và giữ bầu không khí tâm lí tập thể[117].
Tác giả Đỗ Mạnh Tôn (1996) đã đề xuất tiêu chí đánh giá mức độ sẵn
sàng tâm lí trên cơ sở cấu trúc của nó. Tiêu chí đó bao gồm: động cơ học tập,
rèn luyện đúng đắn; xu hướng nghề nghiệp quân sự rõ ràng, ổn định; kĩ năng,
kĩ xảo học tập, rèn luyện tốt; thói quen học tập, rèn luyện phù hợp [92].
Tác giả Đỗ Duy Môn (2004) dựa trên các thành phần cấu trúc sẵn sàng
tâm lí với hoạt động chiến đấu của quân nhân đã xác định ba nhóm tiêu chí
đánh giá mức độ sẵn sàng tâm lí với hoạt động chiến đấu của bộ đội phòng
không trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Cụ thể như sau:
Nhóm 1: Mức độ vững vàng, sẵn sàng của nhận thức, gồm ba tiêu chí:
mức độ linh hoạt trong nhận dạng nhanh, chính xác mục tiêu; mức độ hiểu
tính năng, tác dụng của các loại vũ khí, khí tài; mức độ linh hoạt trong phán
đoán, đánh giá diễn biến của tình huống.


25
Nhóm 2: Sự bền vững của cảm xúc, gồm hai tiêu chí: khả năng khắc
phục căng thẳng, mệt mỏi của bản thân; mức độ bình tĩnh, tự tin.
Nhóm 3: Mức độ bền vững của các phẩm chất chuyên môn nghiệp vụ
quân sự, gồm các tiêu chí: mức độ ổn định, bền vững của các động tác; mức
độ thuần thục của hành động; mức độ sáng tạo trong xử trí tình huống [59].
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn (2010) dựa trên các thành phần trong mô
hình nhân cách sinh viên đại học lúc tốt nghiệp đã xác định hệ thống tiêu chí
đánh giá theo ba nhóm. Nhóm các phẩm chất chung gồm: phẩm chất chính trị
- tư tưởng; phẩm chất đạo đức; phẩm chất cá nhân. Mỗi phẩm chất đó được
đánh giá bằng những tiêu chí cụ thể:
Phẩm chất chính trị - tư tưởng: có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, yêu nước;
có quan điểm khoa học về các hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người, phù

hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; có niềm tin
vào sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ; có thái độ lao động chân chính.
Phẩm chất đạo đức: có nếp sống văn hóa; yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình,
hăng hái; có lòng nhân đạo xã hội chủ nghĩa; có lối sống sinh hoạt lành mạnh,
giản dị thể hiện trong học tập, quan hệ với mọi người.
Phẩm chất cá nhân: có óc quan sát nhanh, nhạy bén; biết hành động ứng
xử mau lẹ, chính xác, hợp lí, sáng tạo; khiêm tốn, trung thực, công bằng, liêm
chính; tự rèn luyện những phẩm chất độc lập, sáng tạo về trí tuệ, chiều sâu,
rộng của tư duy.
Nhóm các phẩm chất nghề nghiệp sư phạm thể hiện ở: tin yêu học sinh,
có thể xây dựng được nhân cách tốt; lạc quan, yêu đời, biết tạo không khí vui
tươi, lành mạnh, cởi mở, chân thành, tin tưởng lẫn nhau trong lớp học, với
học viên học sinh; có ý thức tự giác tự bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, nghiệp vụ, nghiên cứu khoa học, trở thành giáo viên giỏi; biết
đánh giá đúng những những diễn biến về nhận thức môn học, tình cảm, năng
lực của học sinh để có biện pháp giáo dục hiệu quả.


×