Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN tưởng hồ chí minh về đảng cộng sản việt nam đảng cầm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.3 KB, 16 trang )

Đề tài : Tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng

cầm quyền
Bài làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là một nguồn tài sản vô giá
của Đảng ta và của cả dân tộc ta, đã soi sáng và chỉ đạo Đảng ta vượt qua
muôn vàn thử thách hơn 77 năm qua, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành
được nhiều thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Tư tưởng của Người về
Đảng tiếp tục là bó đuốc soi đường cho Đảng ta trưởng thành, phát huy
được thời cơ, khắc phục được nguy cơ trong thời kỳ mới, để đưa nước ta
phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh.
I/ QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ BẢN CHẤT
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Sự ra đời của Đảng
Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản,xuất phát từ hoàn cảnh
cụ thể của nước Nga và của phong trào công nhân châu Âu, V.I.Lênin nêu
lên 2 yếu tố, đó là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.
Khi đề cập sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam,bên cạnh hai yếu
tố chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến
yếu tố thứ ba đó là phong trào yêu nước . Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn
của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam và đối với quá trình
hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời,Người cũng đánh giá cao vị
trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam trong sắp xếp lực
lượng cách mạng. Phong trào yêu nước cũng là yếu tố hình thành Đảng cộng
sản Việt Nam bởi vì:


Một là phong trào yêu nước có vị trí,vai trò cực kì to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Vịêt Nam.
Hai là phong trào công nhân kết hợp với phong trào yêu nước bởi vì hai


phong trào đó đều có mục tiêu chung.
Ba là phong trào công nhân kểt hợp với phong trào nông dân.
Bốn là phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2 Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy được khi tập hợp, đoàn kết và
được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dânlao động
là rất to lớn, là vô cùng vô tận.Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo
mới chắc chắn thắng lợi”,giai cấp mà không có đảng lãnh đạo thì không làm
cách mạng được.Trong cuốn sách Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh viết
“Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh,để
trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mạng mới thành công,
cũng như người cầm laí có vững thuyền mới chạy’.Hồ Chí Minh cho rằng:
“Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để
nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.
Đảng tổ chức và giáo dục nhân dân thành đội quân thật mạnh,để đánh đổ
kẻ đich, tranh lấy chính quyền.
“Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Vịêt Nam, tính quyết định hàng đầu
từ sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được thực tế lịch
sử chứng minh, không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được..


Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định như một tất yếu lịch sử:
Nhân dân tìm thấy ở Đảng người dẫn đường trong đấu tranh cách mạng;
Đảng tìm thấy ở nhân dân chỗ dựa vững chắc trong 2 cuộc cách mạng nối
tiếp nhau, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng
XHCN trong cả nước.

1.3. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp
công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp
công nhân.
Những quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh hoàn toàn tuân thủ những quan
điểm của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.Nhưng
Hồ Chí Minh còn có một cách thể hiện khác về vấn đề “đảng của ai”. Trong
báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ II của đảng (tháng 2
năm 1951), Hồ Chí Minh nêu rõ : “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng
lao đọng Việt Nam Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.Năm
1953, Hồ Chí Minh khẳng định: đảng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc.Trong thời kỳ miền bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1961, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định:
Đảng ta là đảng của giai cấp đồng thời cũng là đảng của dân tộc, không thiên
tư, thiên vị. Năm 1965, Hồ Chí Minh cho rằng: đảng ta xứng đáng kà đội
tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và
của cả dân tộc.
Tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau như vậy nhưng quan đỉêm nhất quán
của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng là Đảng ta mang bản chất giai cấp
công nhân. điều này cũng giống như Đảng ta mang tên là Đảng Lao Động


nhưng bản chất giai cấp của Đảng chỉ là bản chất giai cấp công nhân.Trong
báo cáo chính trị tại đại hội II, khi nêu lên Đảng ta còn là đảng của dân tộc,
hồ chí minh cũng nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận và các nguyên tắc tổ chức,
sinh hoạt Đảng mà những nguyên tắc này tuân thủ một cách chặt chẽ học
thuyết về kiểu đảng mới của giai cấp vô sản của V.I.Lênin.
Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp công nhân của đảng ta dựa trên

cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Bản chất giai cấp của Đảng là bản chất giai cấp công nhân nhưng quan
niệm đảng không những là đảng của giai cấp công nhân còn là đảng của
nhân dân lao động và của toàn dân tộc có ý nghĩa lớn đến đối với cách mạng
Vịêt Nam. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc cho nên nhân dân Việt
Nam coi đảng cộng sản là đảng của chính mình. Đảng ta cũng đã khẳng định
rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và toàn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của cách mạng. Hồ Chí
Minh rèn luyện Đảng luôn luôn chú trọng thống nhất giữa giai cấp và yếu tố
dân tộc.
II.QUAN NIỆM VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẢNG CẦM
QUYỀN
2.1. Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền trở thành đảng cầm
quyền
Qua những năm tháng thực tiễn tìm tòi học hỏi, nghiên cứu lý luận, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy con đường cách mạng ở chủ nghĩa Mác-Lênin và quyết
định đi theo con đường của cách mạng tháng mười vĩ đại. Hồ Chí Minh
người cộng sản đầu tiên của Việt Nam đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt nam
Từ lý tưởng cao cả ấy, Hồ Chí Minh thấy cần phải có một đảng lãnh đạo
phong trào cách mạng để thực hiện mục tiêu trên. Chính vì vậy, từ những


năm 1920 trở đi, Người tích cực chuẩn bị cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ
chức để tiến tới thành lập đảng. Hồ Chí Minh nhất quán cho rằng cách
mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng Cộng Sản Việt Nam là Đảng cách mạng chân chính, mang bản
chất của giai cấp công nhân. Đảng không bao giờ “ hy sinh quyền lợi của
giai cấp công nhân và nông dân cho giai cấp khác”. Đảng dìu dắt giai cấp vô
sản, lãnh đạo giai cấp vô sản, lãnh đạo cách mạng Việt Nam là để đem lại

cuộc sống tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc. Đảng không phải là một tổ
chức tự thân và vì vậy, mục đích, tôn chỉ của Đảng là “tận tâm”, “tận lực”,
“phụng sự” và “trung thành” với lợi ích của dân tộc Việt Nam; ngoài lợi ích
của giai cấp, của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam, Đảng không còn
lợi ích nào khác.
Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập cho dân tộc, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh cho đất nước và đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo
toàn thể dân tộc giành chính quyền, thành lập nước Việt Nam trở thành
Đảng cầm quyền.
Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua 2 thời kỳ: từ năm 1930 đến
năm l945 là thời kỳ chưa giành được chính quyền; từ năm 1945 đến nay là
thời kỳ Đảng lãnh đạo nhân dân xóa bỏ được chính quyền thực dân phong
kiến để xây dựng chính quyền nhân dân, từ đó trở thành Đảng cầm quyền.
2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
“Đảng cầm quyền” là khái niệm khoa học dung trong khoa học chính trị, chỉ
một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính
quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp
mình.


Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng nhân dân giành
được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để
tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục,
vận động tổ chức quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền.
Theo Hồ Chí Minh, bản chất của Đảng không thay đổi. Mục đích, lý tưởng
của Đảng vẫn là giải phóng giai cấp, triệt để giải phóng con người, xây dựng

cuộc sống ấm no cho nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với chủ tịch Hồ
Chí Minh, “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Đó là điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu “ Đảng
cầm quyền”
2.2.1. Mục đích lý tưởng của đảng cầm quyền
Theo Hồ Chí Minh đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của tổ
quốc, của nhân dân. Đó là mục đích, lý tưởng cao cả không bao giờ thay đổi
trong suốt quá trình lãnh đạo Việt Nam. Người chỉ rõ: “những người cộng
sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là
phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn
thắng lợi trên đất nước và trên toàn thế giới”. khi trở thành đảng cầm quyền
mục đích. Lý tưởng đó không thay đổi mà còn có thêm những điều kiện và
sức mạnh nhằm hiện thực hoá mục đích, lý tưởng ấy.
2.2.2. Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân.
“Là người lãnh đạo”, theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải bằng giáo dục,
thuyết phục, nghĩa là Đảng phải làm cho dân tin, dân phục để dân theo.
Đảng lãnh đạo, nhưng quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cho nên Đảng
“Phải đi đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép


nhân dân”, mà phải giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh
họ. Đồng thời, Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống
nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động. Vì vậy, chức năng lãnh
đạo và sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm trên tất cả các mặt, các lĩnh vực
của đời sống xã hội, phải quan tâm chăm lo đến đời sống nhân dân từ việc
nhỏ đến việc lớn: “Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và
văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như
tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân”.
Đảng là người lãnh đạo, nhưng Hồ Chí Minh cũng chỉ rất rõ: Đảng phải

sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn
học hỏi nhân dân và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân, bởi “ Sự lãnh đạo
trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở
lại nơi quần chúng”. Đảng phải thực hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân
chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy được mọi khả năng trí tuệ sáng tạo của
quần chúng; lãnh đạo nhưng phải chống bao biện, làm thay, phải thông qua
chính quyền nhà nước “của dân, do dân và vì dân” để Đảng thực hiện quyền
lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Do đó, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước
một cách toàn diện, mà trong đó và trước hết là lãnh đạo xây dựng luật pháp
để quản lý, điều hành xã hội; đồng thời Đảng phải thường xuyên coi trọng
công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức hoạt động
trong bộ máy nhà nước, luôn bảo đảm cho Nhà nước thực sự trong
sạch,vững mạnh, thực sự là Nhà nước “ của dân, do dân và vì dân”.
Để thực hiện đầy đủ chức năng của Đảng với tư cách người lãnh đạo, Hồ
Chí Minh còn đề cập một cách sâu sắc đến việc Đảng phải thực hiện chế độ
kiểm tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của
Đảng.


Với tư cách là người lãnh đạo, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cũng
có nghĩa bao hàm cả trách nhiệm “là người đầy tớ” của dân. Song, “đầy tớ”
ở đây không có nghĩa là “tôi tớ, tôi đòi hay theo đuôi quần chúng” mà là tận
tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân
dân. Người nhấn mạnh: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra
trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho nhân dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì
hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Người sử dụng cụm từ “đầy tớ trung
thành” là để nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng
viên trong mọi hoạt động của mình đều phải quan tâm thực sự đến lợi ích
của nhân dân: “khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, tận tụy với công việc,
gương mẫu trước nhân dân, phải thường xuyên “tự kiêm điểm, tự phê bình,

tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Phải làm cho dân tin, dân phục để
dân hết lòng ủng hộ, giúp đỡ. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”.
Mặt khác, ý nghĩa cụm từ “đầy tớ trung thành của nhân dân”, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tri thức khoa học,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng: “ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Không chỉ nắm vững và
thực hiện tốt quan điểm, đường lối của Đảng, mà còn phải biết tuyên truyền,
vận động lôi cuốn quần chúng đi theo Đảng đưa sự nghiệp cách mạng đi đến
thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, “ là người lãnh đạo”, “ là người đầy tớ” tuy là hai khái niệm
nhưng đều được Hồ Chí Minh sử dụng và chỉ ra sự gắn bó thống nhất, quan
hệ biện chứng giữa hai khái niệm đó với nhau. Dù là “người lãnh đạo” hay “
người đầy tớ”, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đều cùng chung một mục
đích: vì dân. Làm tốt chức năng “ lãnh đạo” và làm tròn nhiệm vụ “đầy tớ”


cho nhân dân là cơ sở vững chắc nhất bảo đảm uy tín và năng lực lãnh đào
của Đảng không những được ăn sâu, bám chắc trong lòng giai cấp công
nhân, mà còn trong cả các tầng lớp quần chúng nhân dân lao động và trong
toàn thể dân tộc Việt Nam.
2.1.3. Đảng cầm quyền, dân là chủ
Hồ Chí Minh đẵ nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận của các cuộc cách mạng
trên thế giới và kết luận: “Cách mạng rồi thì chính quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay bọn ít người”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh,
quyền lực phải thuộc về tay nhân dân. Người đã đề cập xây dựng một nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, Đảng lãnh đạocách mạng là để thiết lập và
củng cố quyền làm chủ của nhân dân. Dân làm chủ, Đảng lãnh đạo, Đảng

phải lấy “dân làm gốc”. Mặt khác, dân muốn làm chủ thực sự thì phải theo
Đảng. Mỗi người dân phải biết lợi ích và bổn phận của mình tham gia vào
xây dựng chính quyền.
III/ VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN Ở NƯỚC TA
Ở nước ta, trong suốt 60 năm qua không phải chỉ có một Đảng Cộng
sản là Đảng duy nhất có mặt trên chính trường Việt Nam. Trong năm đầu
tiên của chính quyền cách mạng, từ tháng 9/1945 đến giữa năm 1946 đã có
thêm 4 đảng phái khác tham gia chính quyền, trong đó có 2 đảng phái dân
chủ là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam ủng hộ Đảng
cộng sản và 2 đảng phản động là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam
Cách mạng đồng minh hội (gọi tắt và ''Việt Quốc'', ''Việt cách'') chống Đảng
cộng sản. Từ giữa năm 1946 đến năm l988, ngoài Đảng Cộng sản lãnh đạo
chính quyền chỉ còn 2 đảng phái dân chủ tiếp tục tham gia chính quyền Đảng Dân chủ Việt Nam là đảng của giới công chức cũ và tư sản dân tộc và
Đảng Xã hội Việt Nam là đảng của giới trí thức cũ đi theo cách mạng. Trong


những năm tồn tại của mình cả hai Đảng này đều thừa nhận sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam và đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và
mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, vào thắng lợi của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, kháng chiến chống ngoại xâm và bước đầu của cách
mạng XHCN trên phạm vi cả nước. Từ tháng 11 năm 1988 đến nay, trên
chính trường Việt Nam chỉ còn lại một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt
Nam-Đảng cầm quyền.
Thực tiễn xây dựng Đảng cầm quyền ở Việt Nam trong những năm
đổi mới gần đây:
Ở Việt Nam, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần
khẳng định: "Đảng ta là đảng cầm quyền". Điều đó không phải tự nhiên mà
có; đây là thành quả của bao nhiêu năm đấu tranh cách mạng của toàn đảng,
toàn dân Việt Nam. Được thành lập năm 1930, phải 15 năm sau, trải qua biết

bao hy sinh, thử thách, hàng loạt cán bộ, đảng viên, nhân dân, trong đó có rất
nhiều lãnh tụ xuất sắc của Đảng hy sinh, Đảng Cộng sản Việt Nam mới
giành được chính quyền. Rồi tiếp sau đó, ròng rã suốt 30 năm kháng chiến
gian khổ và anh dũng, Việt Nam mới giải phóng được toàn bộ đất nước và
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền trong cả nước thống
nhất, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành quả mà nhân dân
đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng khiến cho nhân dân thấy rõ rằng, ở Việt
Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo nhân dân
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; lợi ích của nhân dân gắn liền
với sự nghiệp của Đảng; mục đích lý tưởng của Đảng cũng là ước mơ,
nguyện vọng của nhân dân. Ngày nay, với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhận rõ trách nhiệm của mình trước đất nước và dân tộc
để vạch ra đường lối xây dựng phát triển đất nước, trên cơ sở đó phát huy


sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị, của cả xã hội, tổ chức thực
hiện thắng lợi đường lối đó; đồng thời xác định đúng nội dung và phương
thức hoạt động của Đảng, phát huy mặt thuận lợi, hạn chế mặt khó khăn,
ngăn ngừa và khắc phục những nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, Đảng chẳng những phải lo những việc
lớn như biến đổi nền kinh tế và văn hóa, mà còn lo đến cả những việc nhỏ
như "tương cà, mắm muối" là những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày
của nhân dân. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, Đảng càng có điều kiện đại
biểu cho lợi ích của giai cấp mình là giai cấp công nhân đồng thời đại biểu
cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội tiên phong chính trị
của cả dân tộc. Điều quan trọng quyết định là đảng phải luôn luôn giữ được
bản chất cách mạng và khoa học của mình, không biến chất và có phương
thức lãnh đạo đúng.
Từ thực tiễn đổi mới của Việt Nam trong gần 20 năm qua, có thể rút ra
một kết luận quan trọng là: Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới,

phải luôn luôn kiên định vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng; đồng
thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn
Đảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm cho công cuộc
đổi mới thành công, đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đại hội VI của Đảng (12-1986) khẳng định: "Phải xây dựng Đảng
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân
dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa". Ngay sau Đại hội VI, với
phương hướng "đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới
phong cách lãnh đạo và công tác", các cấp ủy và tổ chức đảng đã triển khai
thực hiện sâu rộng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tính ra, từ năm 1987 đến nay,
Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị
quyết chuyên đề quan trọng về xây dựng Đảng, và đã chỉ đạo khá tập trung


công tác này. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, từ năm 1992 đến năm 1996
tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng giai đoạn 1975-1995 trên các
lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo của
Đảng, phục vụ thiết thực cho việc chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Mới đây,
Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX) trên cơ sở kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực
hiện Nghị quyết Đại hội IX và căn cứ vào yêu cầu thực tiễn đã quyết định
trong những năm tới phải chỉ đạo tập trung và quyết liệt hơn nữa công tác
xây dựng Đảng nhằm tạo cho được sự chuyển biến sâu sắc hơn trên lĩnh vực
này, từng bước đẩy lùi, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nâng
cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Trong nhiều nghị quyết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng; thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển
của Đảng. Trong công tác xây dựng Đảng, phải luôn luôn kiên định và phát

triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; chống các khuynh hướng bảo thủ, cơ hội, cực đoan.
Đổi mới nhưng không phủ nhận thành tựu của quá khứ, không dao động trên
những vấn đề nguyên tắc, không lẫn lộn những vấn đề chiến lược với sách
lược. Mặt khác, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng luôn luôn
đổi mới sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng
Đảng trong thời kỳ đổi mới là phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững
bản chất cách mạng và khoa học của Đảng. Đây là vấn đề mà Đảng đặc biệt
quan tâm. Nói truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng và khoa học là nói
truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc, ý chí


kiên định, trí tuệ tiên phong, đạo đức vị tha và ý thức tổ chức chặt chẽ của
giai cấp công nhân. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân có
nghĩa là Đảng phải kiên định quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân,
tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc; phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng luôn luôn xác định phải lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng gắn
bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, lãnh đạo xây dựng và làm nòng cốt
trong khối đại đoàn kết toàn dân; chống tư tưởng phường hội, cục bộ, bản vị,
phân tán.Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính, kế thừa và phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại. Đảng phấn đấu hy sinh không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà
còn vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc. Đảng chẳng những thường
xuyên giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân mà còn chú ý học
tập, tiếp thu, phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy
bản sắc Việt Nam. Chính truyền thống dân tộc đã nhân lên sức mạnh của
Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước đã đề ra được
và từng bước bổ sung, phát triển, hoàn thiện dần đường lối đổi mới, hình
thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tiếp
theo những đổi mới bộ phận, đổi mới từng bước, đến Đại hội VI (năm 1986)
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, Đại hội VII đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, và các
Đại hội tiếp sau đó của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, đến nay đã hình
thành một hệ thống các quan điểm chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đảng luôn luôn có ý thức đổi mới sáng tạo, dám từ bỏ những cái cũ không
còn thích hợp, cả trên lĩnh vực kinh tế cũng như trên lĩnh vực văn hóa, xã


hội; cả đối nội và đối ngoại; giải quyết tốt mối quan hệ giữa giai cấp và dân
tộc, quốc gia và quốc tế, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế, tập trung sức cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Nói cách khác,
Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì nắm vững nguyên tắc và phương pháp
biện chứng duy vật; không phiến diện, cực đoan, hoặc giản đơn từ cực này
nhảy sang cực kia.
Trước mỗi bước ngoặt và trước những diễn biến phức tạp của tình hình
thế giới và trong nước, Đảng đã kịp thời chỉ đạo, làm tốt công tác tư tưởng
chính trị, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, phê phán những quan điểm và
khuynh hướng không đúng, tạo sự nhất trí cao và sự vững vàng về tư tưởng
trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân.
Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên coi
trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ luôn luôn
đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao. Xây dựng, củng cố Đảng về tổ
chức bao gồm nhiều việc, trong đó phải đặc biệt quan tâm thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ và chấn chỉnh hệ thống tổ chức của Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề trọng yếu bảo đảm cho
Đảng thật sự chặt chẽ về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu

cao.
Những năm gần đây, Đảng đã nhấn mạnh việc thực hiện nghiêm túc chế
độ tự phê bình và phê bình, chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu
đồng chí. Tập trung giải quyết tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi. Kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng kèn cựa, địa vị, tranh
giành ngôi thứ, lợi lộc, cũng như đầu óc cục bộ, bản vị là nguyên nhân quan
trọng gây ra tình trạng mất đoàn kết.


Trong việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng và hệ
thống chính trị, Đảng luôn quán triệt tinh thần tích cực, khoa học, đồng bộ,
bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ
chức cơ sở đảng có vị trí rất quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng
việc chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng, bố trí đúng cán bộ cốt cán những người thật sự có năng lực, giữ gìn phẩm chất đạo đức, được nhân dân
tín nhiệm; đồng thời làm tốt công tác đảng viên, kể cả việc phát triển đảng
viên mới đúng tiêu chuẩn, thật sự có chất lượng.
Trong nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính
trị, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chỉ ra những phương hướng, nhiệm vụ công tác cán bộ trong điều
kiện mới, nhấn mạnh phải đổi mới tư duy trong công tác cán bộ, làm tốt hơn
nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Đồng
thời đổi mới phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân
chủ, tập thể, kết hợp với tập trung thống nhất theo một quy trình chặt chẽ.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra các chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi
các loại cán bộ ở các thành phần kinh tế, đào tạo, vun trồng và trọng dụng
nhân tài của đất nước, kể cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Có chính sách thu hút nhân tài, tránh lãng phí chất xám. Chú trọng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về phẩm chất, trình độ, năng lực; cả cán bộ

lãnh đạo, cán bộ quản lý, các chuyên gia, các nhà doanh nghiệp, trước hết là
cán bộ chủ chốt ở các cấp. Xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm kỷ
luật, pháp luật; thay thế kịp thời những người yếu kém, không hoàn thành
nhiệm vụ. Phát huy tốt đội ngũ cán bộ hiện có; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ
theo yêu cầu mới; tạo nguồn cán bộ cho lâu dài. Hơn bảy mươi năm lãnh
đạo nhân dân tiến hành cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn gắn


bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân cưu mang, che chở, giúp đỡ hết
lòng. Và chính nhờ thế mà Đảng có đủ khả năng và sức mạnh lãnh đạo cách
mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù hung
bạo nhất. Liên hệ mật thiết với nhân dân là một truyền thống tốt đẹp của
Đảng, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có thêm điều kiện thuận lợi để mở
rộng và tăng cường mối liên hệ với nhân dân. Đảng liên tục có những chủ
trương và biện pháp tăng cường công tác quần chúng của Đảng, tích cực làm
những gì có thể làm được để củng cố, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa
Đảng và nhân dân. Các Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết Trung ương 8
(khóa VI), Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) và nhiều nghị quyết chuyên
đề của Bộ Chính trị về công tác vận động quần chúng, xây dựng Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã đề cập sâu sắc, toàn diện
vấn đề này. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định xây
dựng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh
tổng hợp, thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, coi đây là động lực chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng một đảng cách mạng chân chính là công việc không đơn
giản, trái lại, cực kỳ phức tạp khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện Đảng
cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hiện nay. Đảng chẳng
những phải đối phó với những âm mưu của các thế lực thù địch mà còn phải
tự vượt qua những hạn chế của chính mình. Tuy nhiên, với những gì đã làm

được trong hơn 70 năm qua, với những triển vọng tốt đẹp trong thời kỳ mới,
được nhân dân tin cậy và ủng hộ, chúng ta có thể tin tưởng rằng Đảng Cộng
sản Việt Nam sẽ từng bước vươn lên hoàn thiện bản thân mình, đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và sự mong đợi của nhân dân, xứng
đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền.



×