Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học tư TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT học của HÊRACLIT GIÁ TRỊ và hạn CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.62 KB, 26 trang )

3

MỞ ĐẦU
Khởi điểm từ thời cổ đại, đến nay, phép biện chứng đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực
tiễn. Tuy nhiên, để đạt đến trình độ rực rỡ, toàn diện, hoàn thiện như phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin thì không thể không kể đến sự
hình thành manh nha của phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại.
Điều này được thể hiện rõ nét trong triết học Ấn Độ cổ đại, Trung Quốc cổ
đại và đặc biệt là trong triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại.
Triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại, trong dòng chảy xuyên suốt của lịch sử
tư tưởng nhân loại, đã khẳng định mình với những đặc trưng rất riêng so với
những trường phái triết học khác trong lịch sử xét trên nhiều phương diện.
Trong đó, phép biện chứng nói chung, tư tưởng biện chứng trong triết học
Hêraclít nói riêng mang một dấu ấn riêng của thời đại, nó đã trở thành một
trong những cơ sở tiền đề quan trọng mà C.Mác, Ph.Ăngghen kế thừa, phát
triển để xây dựng nên phép biện chứng duy vật trong triết học Mác.
Nghiên cứu phép biện chứng trong triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại nói
chung, tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít nói riêng có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, đặc biệt là trong giáo
dục và đào tạo. Nó là cơ sở khoa học cho việc xem xét các sự vật, hiện tượng
đúng hiện thực đang tồn tại, trong mối liên hệ với nhau, trọng trạng thái động
và trong khuynh hướng chung là phát triển.




4

NỘI DUNG
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA SỰ HÌNH


THÀNH TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC HÊRACLÍT
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của sự hình thành tư tưởng biện
chứng trong triết học Hêraclít
Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Ban
Căng thuộc Châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êgiê và cả miền ven biển bán đảo
Tiểu á. Điều kiện địa lý thuận lợi cho nên từ rất sớm ngành nông nghiệp, thủ
công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại đã phát triển.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ IX trước công nguyên, chế độ cộng sản nguyên
thuỷ ở Hy Lạp cổ đại tan rã và hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ
này xảy ra biến động lớn về kinh tế và thiết chế trong xã hội. Quá trình lịch sử
đó gắn liền với sự hình thành và phát triển kinh tế xã hội và tư tưởng triết học
của Hy Lạp thời kỳ cổ đại.
Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã hội cũ bị
đảo lộn. Nếu như trước đây các tổ chức xã hội cũ như bộ tộc, bộ lạc mang
tính cộng đồng cao. Triết học Hy lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI
tr.CN. Cơ sở kinh tế của triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất và người nô lệ. Nếu như trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ,
cuộc sống của mỗi người “hoà tan” vào cuộc sống cộng đồng, thì giờ đây khi
xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu của cải, buộc mỗi người cần phải ý thức về
bản thân mình, cần phải có một quan điểm sống phù hợp với hoàn cảnh mới.
Nhu cầu đó đòi hỏi triết học ra đời. Xôcrát đã nhận thấy điều đó khi ông coi
triết học là sự tự ý thức của con người về chính bản thân mình.
Xã hội phân chia thành giai cấp, có sự phân công giữa lao động trí thức và
lao động chân tay, dẫn tới sự hình thành một bộ phận các nhà trí thức chuyên
nghiên cứu triết học khoa học, làm phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo
nguyên thuỷ thống trị thời đó vì thế ngay từ khi ra đời các tư tưởng triết học đã


5


mang tính giai cấp sâu sắc. Các thế giới quan của giai cấp chủ nô, các trí thức
triết học dần dần trở thành các nhà tư tưởng thống trị trong xã hội nô lệ.
Tuy nhiên tất cả những điều đó được thể hiện ở các tư tưởng triết học
thời cổ một cách tự phát, chúng không được các nhà triết học cổ đại ý thức
một cách tự giác. Dưới con mắt của họ triết học ra đời từ nhu cầu hiểu biết
của con người. Lúc đầu họ ngạc nhiên bởi những điều trực tiếp làm họ băn
khoăn, sau đó họ dần dần đặt ra những vấn đề cơ bản hơn, chẳng hạn như về
sự thay đổi vị trí của mặt trăng, mặt trời và các vì sao và cả nguồn gốc vũ trụ.
Quan niệm trên mặc dù thể hiện dưới hình thức ngây thơ, phù hợp với nhận
thức con người thời cổ, nhưng nó đề cập một khía cạnh sâu sắc về cơ sở nhận
thức luận của việc hình thành triết học cổ đaị Hy Lạp.
Nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp và hàng hải ở Hy lạp cổ đại quyết định sự phát sinh và phát
triển của những tri thức về thiên văn, khí tượng, toán học và vật lý học. Chính
sự xuất hiện các tri thức khoa học sơ khai (phát hiện ra lịch, những phát kiến
về toán học của Talet, Pitago. Hình học của Ơclit; vật lý học của Acsimet) đã
tạo điều kiện rất lớn hình thành triết học - tự nhiên. Khoa học lúc đó chưa
phân nghành, các nhà triết học đồng thời là các nhà toán học, vật lý học, thiên
văn học. Như vậy từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã gắn với nhu cầu
thực tiễn và gắn liền với khoa học. Chúng làm cho quan niệm thần thoại truyền
thống và các tôn giáo nguyên thuỷ vào thế kỷ VI - V tr.CN đã không còn đáp
ứng và lý giải được các vấn đề thuộc thế giới quan. Những khám phá khoa học
đầu tiên của người cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ và nhân
sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, đòi hỏi con người phải có cách lý giải
về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình, sự quan sát các hiện tượng tự
nhiên một cách trực tiếp như một khối duy nhất và lòng mong muốn giải thích
chúng một cách khoa học đã góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan
duy vật tự phát và biện chứng sơ khai của triết học Hy lạp cổ đại.



6

Hêraclit (khoảng 540-475 tr.CN) xuất thân từ nhà nước thị thành Ephèse
thuộc vùng Tiểu Á của Hy Lạp - mộ trung tâm triết học lớn sao Milet. Ông
sống trong thời kỳ lịch sử căng thẳng của các nhà nước thị thành Hy Lạp, khi
mà dân thường đã dành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh gay gắt với tầng
lớp quý tộc dòng dõi. Ông trưởng thành và sự nghiệp sáng tác của ông rơi vào
giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm
trọng đại của lịch sử Plada cổ đại. Sinh thời Hêraclít là một nhà đại quý tộc
thuộc dòng dõi Côđơriđốp. Theo luật, ông là con trai đầu nên được thừa kế
chức Badin, nhưng ông đã nhường đặc quyền ấy cho em trai của mình để đi
du lịch khắp nơi và dành thời gian nghiên cứu về triết học. Như vậy, Hêraclít
vốn là người có nguồn gốc đại quý tộc nhưng ông đã tự tách mình ra, lựa
chọn một con đường đi riêng biệt. Tuy nhiên, ông cũng không thuộc giai cấp
đang lên. Tư tưởng triết học của ông thể hiện sự tiến bộ ở chỗ có phản ánh
phong trào nhân dân, có nội dung nhân dân thông qua những mâu thuẫn chia
rẽ của giai cấp quý tộc.
Ông trưởng thành và sự nghiệp sáng tạo của ông rơi vào giai đoạn đầu
cuộc chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm trọng đại của lịch sử
Elada cổ đại. Để bảo vệ nềm độc lập và sự tự do của mình, các nhà nước thị
thành Hy Lạp nhỏ bé đã tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng chống lại đế
quốc Ba Tư. Ông là người tích cực ủng hộ cho cuộc kháng chiến chống lại
người Ba Tư, vì chủ quyền của nhà nước - thị thành Hy Lạp. Và chính điều đó
đã giúp ông có được nguồn cảm hứng để ca ngợi về cái chết vinh quang nơi
chiến trường, ca ngợi sự tự do chiến tranh mà có và nói lên lòng căm thù chế
độ nô lệ. Hêraclit say mê nghiên cứu khoa học, tính ông trầm lặng, là người
trung thực, ghét những gì giả tạo không thực chất. Theo ông, người thông
minh phải là người nắm bắt được bản chất và tính tất yếu của những sự vật,
hiểu được cái Logos - tức quy luật thế giới. Ông viết nhiều, có nhiều phát biểu
nhưng tới nay người ta vẫn không tìm thấy một tác phẩm nào nguyên vẹn mà



7

chỉ sưu tầm, ghi chép được 130 đoạn. Bởi sau khi phái chủ nô dân chủ thắng
thế, Hêraclit từ chối tham gia hoạt động nhà nước, về sống đơn độc. Trong
thời kỳ này, ông nhờ đền thờ Di-an, bảo quản toàn bộ tác phẩm của mình
nhưng ở đó người ta đã không giữ được để truyền lại cho thế hệ sau. Đó là
những đoạn viết về triết học tự nhiên và những quan niệm bản chất rất khó
hiểu. Vì thế, người đương thời gọi ông là nhà triết học tối nghĩa. Thực ra,
những lời phát biểu của ông đã có chứa đựng những tư tưởng lớn của phép
biện chứng mà bằng con mắt trực quan người ta không thể hiểu được tại sao
cái một và cái nhiều lại thống nhất, cái này vừa lại là nó lại không phải là nó,
cùng một vật vừa tốt lại vừa không tốt, vừa đẹp lại vừa xấu. Nghĩa là tất cả
đều vừa tồn tại vừa không tồn tại. Những tư tưởng biện chứng sơ khai đó của
Hêraclit đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập
triết học macxit đánh giá cao.
Như vậy, với xuất thân từ tầng lớp quý tộc và bộ óc thông minh cùng
niềm say mê đã giúp Hêraclit tập trung được vào việc nghiên cứu khoa học,
đặc biệt là triết học mà nổi bật là tư tưởng biện chứng sơ khai.
1.2. Tiền đề lý luận của sự hình thành tư tưởng biện chứng trong
triết học Hêraclít
Trong giai đoạn cộng sản nguyên thủy, ở Hy Lạp cổ đại, mặc dù chưa có
triết học nhưng đã có những mầm mống của những tư tưởng triết học thể hiện
trong văn học dân gian, trong thần thoại, tín ngưỡng và diễn ra sự phân công
lao động trí óc và lao động chân tay. Triết học ra đời phải có những điều kiện
tất yếu về mặt xã hội và mặt tư duy. Xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành những
điều kiện khách quan cần thiết cho sự ra đời của triết học. Với tư cách là hệ
thống những quan điểm của con người về thế giới, chỉ thực sự ra dời vào
khoảng thế kỷ VI tr.CN khi chế độ chiếm hữu nô lệ đã được xác lập và ổn

định, tức là lúc mà những tiền đề kinh tế, xã hội, nhận thức cần thiết cho nó
đã chín muồi.


8

Nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ côn nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp và hàng hải ở Hy Lạp cổ đại đã quyết định sự phát sinh và phát triển
những tri thức về thiên văn, khí tượng, toán học, vật lý học. Những tri thức
này ở trạng thái sơ khai đều được trình bày trong một hệ thống triết học tự
nhiên của các nhà triết học cổ đại. Các nhà triết học này đồng thời cũng là nhà
toán học, vật lý học, thiên văn học… Sự xuất hiện và phát triển của triết học
Hy lạp cổ đại có liên hệ mật thiết và chịu ảnh hưởng của triết học Phương
Đông cổ đại. Có thể nói, triết học Phương Đông là một trong những tiền đề
của triết học Hy Lạp cổ đại. Vào lúc khoa học phát sinh ở Hy Lạp thì Phương
Đông đã tích lũy được những tri thức đáng kể về thiên văn học, hình học, đại
số, y học. Các nhà bác học lớn của Hy Lạp phần nhiều đã tới một số nước
phương Đông nghiên cứu và học tập. Vào thời kỳ đó, ở Ai Cập đã có một nền
văn hóa gắn liền với yêu cầu giải phóng những vấn đề do đời sống xã hội đặt
ra. Nền kinh tế Ai Cập cổ đại đòi hỏi phải phát triển khoa học. Sự cần thiết
phải chống lụt do nước sông Nin gây ra đã làm xuất hiện thiên văn học. Lần
đầu tiên, người Ai Cập đã tính được lịch: 1 năm có 12 tháng, mỗi tháng có 30
ngày và 5 ngày phụ nữa thành 365 ngày. Mỗi khi nước phù sa sông Nin phủ
kín bờ ruộng xá nhòa ranh giới đồng ruộng đã phát sinh ra mô hình học
(géométrie, theo nghĩa nguyên thủy là khoa học do đất). Những tri thức khoa
học ở Ai Cập đã được các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiếp thu và có ảnh
hưởng tích cực tới nền văn hóa Hy Lạp đương thời. Ở Babilon, cũng như ở Ai
Cập thời kì đó, các tri thức về thiên văn học, toán học cũng có những thành
tựu đáng kể. Hệ thống số của Babilon là tiền thân của hệ thống số Ả Rập đã
được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay trên toàn thế giới. Cũng như ở Ai

Cập cổ đại, triết học ở Babilon đã hình thành và phát triển từ quan niệm duy
vật và vô thần. Như vậy, triết học Ai Cập và Babilon có ảnh hưởng tích cực
tới sự phát triển của triết học khoa học ở Hy Lạp cổ đại. Quá trình hình thành
và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh giữa


9

tri thức khoa học và mê tín, giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm tôn
giáo. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tinh thần, tư tưởng trong xã
hội chiếm hữu nô lệ của Hy lạp, cuộc đấu tranh gay gắt nhất trong lĩnh vực
này là cuộc đấu tranh trường kỳ giữa hai phái: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Cuộc đấu tranh này phản ánh khá trung thực cuộc đấu tranh giữa 2
tầng lớp trong giai cấp chủ nô: phái chủ nô qúy tộc gồm những người chủ nô
là chủ ruộng đất - đại biểu cho xu hướng phản tiến bộ, phản động, bảo vệ mê
tín, muốn duy trì thiết lập chế độ độc tài chuyên chế trong xã hội Hy lạp cổ
đại và phái dân chủ chủ nô gồm những chủ nô là công thương, đại biểu cho
xu hướng tiến bộ của lịch sử, ra sức xây dựng một chế độ cộng hòa dân chủ
(tất nhiên là dân chủ cho chủ nô) có tác động tích cực tới việc phát triển lực
lượng sản xuất. Vì thế có thể nói: Trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, chủ
nghĩa duy vật là hệ thống quan niệm triết học của phái dân chủ chủ nô, còn
chủ nghĩa duy tâm thường là những quan niệm triết học của phái chủ nô quý
tộc phản động.
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại ngày nay từ khi ra đời đã gắn liền với
thực tiễn, gắn liền với khoa học tự nhiên và nhu cầu phát triển của tự nhiên.
Xuất hiện trong điều kiện các tri thức khoa học sơ khai, triết học Hy Lạp cổ
đại đã có mầm mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này. Và trong điều
kiện còn rất hạn chế đó, các nhà triết học có xu hướng tiến bộ của Hy Lạp
cũng đã có những đóng góp nhất định trong lịch sử triết học trong đó có tư
tưởng biện chứng sơ khai của nhà triết học Hêraclít.

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG
TRIẾT HỌC HÊRACLÍT - GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít
Hêraclít là người có công đóng góp những giá trị to lớn về phép biện
chứng Hy lạp cổ đại. Ông là đại biểu điển hình nhất của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng trong giai đoạn đầu của triết học. Cống hiến lớn nhất và nổi


10

tiếng của ông là triết học duy vật với rất nhiều yếu tố biện chứng có giá trị,
tuy ông chưa trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học như
sau này, mặc dù là biện chứng sơ khai nhưng đã chứa đựng những tư tưởng có
giá trị về sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới vật chất, về sự
tồn tại phổ biến của mâu thuẩn, về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập. Những giá trị to lớn đó được các nhà triết học cổ điển Đức sau này kế
thừa và các nhà triết học mácxít đánh giá cao.
2.1.1. Tư tưởng biện chứng về bản nguyên của thế giới
Đứng vững trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề về bản
nguyên của thế giới, Hêraclít cho rằng, bản nguyên của thế giới chính là lửa,
thế giới vật chất cái không do một thần và một người nào tạo ra tức là không
phải do thần thánh hay con người sáng tạo ra mà là do chính vật chất sinh ra,
giới tự nhiên bắt nguồn từ bản thân tự nhiên. Theo ông, dạng vật chất đầu tiên
sinh ra các dạng vật chất khác, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự
vật, hiện tượng tự nhiên chính là lửa. Hêraclít lấy lửa để giải thích mọi sự vật,
hiện tượng tự nhiên, ông cho rằng: “Bất cứ sự vật nào, cũng như hàng hóa nào
cũng có thể biến thành vàng và vàng cũng có thể biến thành bất cứ hàng hóa
nào”1. Như vậy, chính sự trao đổi hàng hóa ở Hy Lạp vào thời kỳ này đã giúp
cho Hêraclít có căn cứ để so sánh. Theo ông các dạng vật chất, phần lớn là đất
sinh ra từ lửa. Dưới tác động của lửa, đất trở thành nước, nước trở thành không

khí và ngược lại. Như vậy là từ lửa và do tác động của lửa mà vật chất chuyển
hóa thành các thể hơi, thể lỏng, thể rắn và các dạng vật chất ấy lại chuyển hóa
theo con đường ngược lại, quay về với lửa.
Theo Hêraclít, tùy thuộc theo nhiệt độ của lửa mà mọi vật có thể chuyển
hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác theo hai cấp độ, còn gọi là theo hai
con đường: “Con đường đi xuống” (chính là sự phát sinh ra vũ trụ từ lửa)
đồng thời là “sự thiếu hụt lửa” được chuyển hóa theo trật tự: thể hơi (không
1

PTS Đinh Ngọc Thạch, Triết học Hy Lạp cổ đại, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 37.


11

khí) - thể lỏng (nước) - thể rắn (đất). Nhưng “con đường đường đi xuống” đó
phải được bù đắp bằng “con đường đi lên” (chính là quá trình tất thảy vũ trụ
biến thành lửa bởi một đám cháy trên quy mô toàn vũ trụ) được chuyển hóa
theo trật tự: lửa - thể rắn (đất) - thể lỏng (nước) - thể hơi (không khí).
Lửa là bản chất của mọi sự vật, của trạng thái vật chất, lửa tác động vào
sự chuyển hóa của vật chát từ trạng thái này sang trại thái khác theo hai con
đường nói trên. Lửa của Hêraclít không phải là hiện tượng tự nhiên, tự phát
xa lạ vói logos, không tuân thủ một độ nào, không phải là một lực lượng
không được điều hành nào đó, không biết mình sáng tạo ra gì.
Toàn bộ thế giới theo cách gọi của Hêraclít là vũ trụ, đều tồn tại ở ngoài
ý thức của con người, đều là sản phẩm biến đổi của lửa. Vũ trụ không phải do
một lực lượng siêu nhân thần bí nào sáng tạo ra, mà nó “mãi mãi đã, đang và
sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi” hay vũ trụ
này là một đối với mọi cái hiện tồn, không do thần nào, người nào tạo dựng,
mà mãi mãi, đã đang và sẽ là ngọn lửa sống vĩnh cửu, bốc cháy và tắt đi theo
“độ”. Như vậy, vũ trụ theo ông là không do ai sáng tạo ra, mà là ngọn lửa

sống động vĩnh cửu, bùng cháy và tắt đi theo quy luật của mình. Lửa bao trùm
và thiêu đốt vạn vạn, phán xét tất cả. Đám cháy vũ trụ sẽ là sự phán xét vũ trụ,
hiện tượng vật lý đồng thời là hiện tượng đạo lý.
Như vậy, lửa theo quan niệm của Hêraclít không phải là lửa theo nghĩa
thong thường mà là lửa vũ trụ, sản sinh ra không chỉ các sự vật vật chất mà cả
những hiện tượng tinh thần, kể cả linh hồn con người.
2.1.2. Tư tưởng biện chứng về sự vận động vĩnh viễn của vật chất
Trong tư tưởng biện chứng của Hêraclít, quan niệm về sự vận động vĩnh
viễn của vật chất được coi là giá trị nổi bật nhất. Với ông, lửa, không khí chỉ
là nguyên nhân sinh ra mọi vật mà lửa còn chính là gốc của mọi sự thay đổi.
Tùy theo nhiệt độ của lửa mà vật chất có thể chuyển từ trạng thái này sang
trạng thái khác. Ông nói: Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra


12

từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí và ngược lại. Dựa
vào những nghiên cứu tự nhiên, bằng quan sát trực tiếp và căn cứ vào kinh
nghiệm cảm tính, Hêraclít đã khái quát thành một kết luận nổi tiếng về vật
chất vận động: Mọi vật đều trôi đi, chảy đi, không có cái gì đứng nguyên tại
chỗ, tất cả đều vận động không có cái gì tồn tại lại cố định. Theo Hêraclít thì
vận động và đứng im là một sự thống nhất giữa các mặt đối lập, vừa đấu
tranh, vừa hài hòa với nhau, không thể thiếu nhau và thể hiện ra thông qua
nhau. Dưới con mắt của Hêraclít, mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều
thay đổi, vận động, phát triển không ngừng. Ông cho rằng “Chúng ta không
thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước sông không ngừng chảy”.
Như vậy, có nghĩa là dòng sông chính là dòng sông (chúng ta tắm trên dòng
sông đó) và đồng thời nó cũng không phải dòng sông đó (do vậy nên chúng ta
dường như không tắm ở dòng sông đó). Đương nhiên dòng sông đó luôn luôn
chảy, song điều đó không hoàn toàn có nghĩa trong nó không có gì là ổn định,

bất biến loại trừ bản thân sự chảy và sự biến đổi. Với luận điểm này của
Hêraclít, Hêghen nhận xét: “Khi nói rằng mọi cái đang trôi đi, Hêraclít coi
sinh thành là phạm trù cơ bản của mọi tồn tại”2.
Bên cạnh quan niệm về dòng sông luôn đổi mới thường xuyên và liên
tục. Hêraclít cũng khẳng định rằng mặt trời cũng mỗi ngày một mới. Theo
ông, vạn vật trong vũ trụ không có gì là ổn định và bất biến hơn là dòng sông
luôn chảy và mặt trời luôn chiếu sáng. Tức là sự đứng im cũng là một tính
biến đổi của dòng sông, nhờ cái sự đứng im đó mà là dòng sông là ổn định,
xác định và bất biến. Điều này như chính chúng ta có thể nói, sự vận động là
cái mà nhờ đó mà dòng sông là không xác định, biến đổi và bất ổn định, trong
sự đứng im và tính bất ổn của dòng sông, không loại trừ sự vận động (hay
chính là dừng chảy) của dòng sông. Với Hêraclít, khi biến đổi, nó đứng im
(nghỉ ngơi), nếu ngược lại “nó đứng im (nghỉ ngơi), nó biến đổi”. Hình ảnh
2

Các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại, Nxb. Tư tưởng, Mátxcơva, 1955, tr.48.


13

dòng sông của Hêraclít gắn liền với một nội dung triết học trừu tượng, hình
ảnh nghĩa đó là một ý niệm triết học, là cái được suy từ đoạn trích khi ông so
sánh dòng sông với cuộc sống con người: “chúng ta lội xuống và không lội
xuống cùng một dòng sông; chúng ta tồn tại và không tồn tại”. Với ông mọi
sự vật, hiện tượng đều thay đổi “đều chảy như nó chảy trong dòng sông”. Như
vậy, có thể nói rằng trong ta mọi thứ đều là biến đổi và không có cái gì là ổn
định và bất biến.
2.1.3. Tư tưởng biện chứng về sự thống nhất của lôgíc khách quan và
lôgíc chủ quan
Trong tư tưởng biện chứng của mình, Hêraclít khẳng định rằng, chuẩn

mực của chúng phải tuân theo “logos”. Ở người Hy Lạp “logos” tùy thuộc
vào văn cảnh ngôn ngữ đã có ý nghĩa rất khác nhau, trong đó đại đa số đều
thống nhất với nghĩa “từ ngữ”. Trong triết học của mình thuật ngữ logos được
Hêraclít sử dụng với tư cách là một trong các khái niệm triết học cơ bản và trở
nên rất phổ biến trong toàn bộ triết học cổ đại, đó là “thuật ngữ”. Theo
Hêraclít, logos cũng chính là lửa, nhưng dưới góc độ xem xét của trí tuệ. Vì
vậy, giữa logos và lửa không thể tách rời nhau, bởi thế giới chính là ngọn lửa
cháy vĩnh viễn, mà logos là trật tự thống trị thế giới, là quy luật của tồn tại,
bảo đảm cho sự phát triển hài hòa của thế giới.
Theo cách hiểu của Hêraclít, logos tồn tại cả dưới dạng khách quan và
chủ quan. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra
trong thế giới, biến cả thế giới thành một chỉnh thể thống nhất đầy sống động.
Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, được Hêraclít hiểu như là
chuẩn mực của mọi hoạt động tư tưởng, suy nghĩ của con người. Người nào
càng tiếp cận được nó bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Nhà biện
chứng lỗi lạc thời cổ đã tiếp cận được với quan niệm đúng đắn cho rằng về
nguyên tắc thì logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan, nhưng nó
biểu hiện ở từng người có khác nhau. Phù hợp vói logos khách quan tức là


14

những quy luật vận động khách quan của thé giới được coi là tiêu chuẩn đánh
giá mọi hoạt động, suy nghĩ của con người.
Xuất phát từ quan điểm tư duy vốn có ở mọi người, mọi người đều có
khả năng nhận thức bản thân và suy xét . Ông cho rằng mọi sự vận động, phát
triển không ngừng của thế giới do quy luật khách quan (mà ông gọi là logos)
quy định. Cả hai logos - logos khách quan và logos chủ quan cấu thành
nguyên lý hợp lý và chi phối mọi thứ, giống như logos của vũ trụ, logos của
tâm hồn là vũ trụ. Và theo ông dẫu sao thì logos của những người tốt nhất,

những người mà trong tâm hồn có yếu tố lửa (“ánh sáng khô”) chiếm ưu thế
đối với các yếu tố ẩm ướt, logos lửa của thế giới sự vật là không có sự khác
biệt về chất. Nếu logos của tâm hồn con người và logos của thế giới sự vật
giống nhau, trùng hợp nhau, nếu logos chủ quan của người tốt nhất một cách
nào đó là đồng nhất với logos khách quan của các sự vật thì từ đó suy ra rằng
có thể bằng con đường tự nhận thức “tôi nghiên cứu bản thân mình”. Bằng sự
nỗ lực của chính bản thân là cái duy nhất tạo ra thành phẩm, công lao (asete)
cá nhân và nhận thức được logos của thế giới bên ngoài. Việc tự nhận thức sẽ
đưa con người từ thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài và cũng từ đó tâm hồn
con người sẽ ngày một phong phú, mở rộng hơn. Logos tự phát triển là vốn có
ở tâm hồn. Mặt khác, sau khi có quan hệ với thế giới bên ngoài, con người sẽ
hít vào mình logos thần thánh và chúng ta trở nên có “lý tính”. Vì logos của
tâm hồn con người (chủ quan) và logos của thế giới (khách quan) đồng nhất
trong sự khác biệt, tạo nê sự thống nhất của cái bên trong và cái bên ngoài mà
cả hai phương thức (bằng con đường tự nhận thức và hít vào logos của thế
giới) khiến chúng ta trở nên lý tính không loại trừ nhau mà phụ thuộc và giả
định lẫn nhau. Trong quan niệm về logos chủ quan, Hêraclít coi một cái gọi là
sinh động và phát triển nội tại luôn có mối liên hệ khăng khít với logos khách
quan, chứ không phải một cách đứng im nghĩa là logos thế giới con người
(logos chủ quan) phải phù hợp với logos thế giới (logos khách quan), mặc dù


15

sự phù hợp ấy diễn ra không phải thường xuyên, liên tục và nó biểu hiện ở
từng người khác nhau. Từ đó, khi đánh giá về biểu hiện của logic khách quan
ở con người nhận thấy: “Người nào càng tiếp cận được với logos khách quan
bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu”, tức là nhờ tính tích cực này thì con
người mới có thể có lối thoát khỏi thế giới sự vật bên ngoài. Khi cảm thấy
trong mình có logos sáng tạo (“tự phát triển”, “tự nhân mình lên”) và thông

qua logos đó thì con người sẽ nhận được logos của thế giới. Logos là phổ
biến, là vốn có ở sự vật nhưng cũng nằm ở bên ngoài chúng, siêu thoát khỏi
chúng cũng giống như nghĩa của một câu nói nằm ở mỗi từ, nhưng lại không
phải ở mỗi từ nằm riêng biệt. Nghĩa của một câu là cái toàn vẹn, không tách
biệt. Và thế giới với tư cách vũ trụ - chỉnh thể hài hòa và duy nhất. Tính cân
đối hài hòa của thế giới được quy định bởi logos thần thánh là cái thống trị và
chiếm ưu thế đối với một sự vật. Như vậy có thể nhận thấy, trong sự thống
nhất, mâu thuẫn giữa logos và sự đa dạng của sự vật, biện chứng của cái đơn
nhất và cái số nhiều nói chung thì “Hêraclít đã vạch ra một cách rất độc đáo”.
2.1.4. Tư tưởng biện chứng về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của
các mặt đối lập
Nếu như ở Hy Lạp cổ đại các nhà triết học thuộc trường phái Milê và đặc
biệt là Anaximenđrơ đã có công đầu trong việc xây dựng những tư tưởng sơ
khai đầu tiên về sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập, sự phân đôi
thống nhất của các mặt đối lập, thì Hêraclít là là người nói đến sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập nhiều nhất. Ở Hêraclít quan điểm của ông về
sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập được thể hiện rõ ở
những điểm sau.
Thứ nhất, sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự
hài hòa của các mặt đối lập “bất đồng với nhau”.
Đồng ý với quan điểm của hầu hết các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho
rằng thế giới là một chỉnh thể “tuyệt đẹp” bao gồm các sự vật đa dạng phong


16

phú, thì Hêraclít đã nhìn nhận sự thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng.
Tuy nhiên, Hêraclít còn khác với phần đông các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
còn cho rằng sự thống nhất không chỉ đơn giản là sự đồng nhất của cái đa
dạng mà trong sự thống nhất luôn bao hàm trong nó các mặt đối lập “bất

đồng” với nhau. Theo Hêraclít có những sự thật hiển nhiên, hết sức rõ ràng
mà ai cũng biết như ngày và đêm, thiện và ác; hòa bình và đấu tranh… song
giống như mọi sự đối lập khác chúng tạo thành một chỉnh thể thì lại là điều
không phải ai cũng biết.
Như vậy, ở đây Hêraclít mới chỉ nêu ra các ví dụ từ hiện thực cuộc sống
để so sánh, minh hoạ các mặt đối lập và sự thống nhất của các mặt đối lập.
Còn những khái niệm: mặt đối lập, khái niệm đồng nhất, khái niệm mâu thuẫn
thì ông chưa đi tới rõ ràng.
Không chỉ cho rằng các mặt đối lập tồn tại khách quan trong mỗi sự vật,
hiện tượng, Hêraclít còn thấy được rằng, trong sự thống nhất của các mặt đối
lập, các mặt đối lập còn có mối quan hệ giả định lẫn nhau và không thể có
được nếu thiếu nhau. Chúng là điều kiện cho nhau tồn tại, sự tồn tại của mặt
này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề, chúng tồn tại thông qua nhau.
Hêraclít còn cho rằng các mặt đối lập giả định lẫn nhau và không thể có
được nếu thiếu nhau. Ông cũng đưa ra ví dụ minh họa: không thể quý sức
khỏe nếu không biết mặt đối lập của nó là bệnh tật “bệnh tật làm cho sức khỏe
trở nên quý giá và ngọt ngào, đói - no, mệt mỏi - nghỉ ngơi”.
Hêraclít cho rằng trong vũ trụ bao hàm sự đa dạng của các sự vật thì
tính tương đối các thuộc tính của sự vật cần phải được xét trong mối quan hệ
của nó. Các thuộc tính của sự vật trực tiếp đối lập với nhau tùy thuộc vào
công việc của chúng có quan hệ với chất nào, vật nào. Ông nói: “Con vượn
đẹp nhất nhưng xấu xí so với loài người. Con người sáng suốt nhất nhưng
cũng chỉ là con vượn so với thượng đế xét về sự anh minh, sắc đẹp và về
mọi thứ khác”.


17

Thứ hai, mỗi sự vật, hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các
trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.

Vẫn là lối văn phong giàu hình ảnh, ông đã làm rõ quan điểm này của
mình bằng những ví dụ: sống trở thành chết; thức trở thành ngủ; trẻ trở thành
già… nhưng cũng có thể nói ngược lại rằng: chết thành sống; ngủ thành thức;
già trở thành trẻ. Ông nói: “cùng ở một thứ trong ta như sống và chết; thức và
ngủ; già và trẻ vì sau khi biến đổi cái này trở thành cái kia, và ngược lại”.
Thứ ba, đấu tranh của các mặt đối lập là sự liên hệ thống nhất của các
mặt đối lập. Đấu tranh là phổ biến, là điều kiện của sự tồn tại.
Sự hoàn hảo, tính hài hoà này của vũ trụ theo quan niệm của Hêraclít, là
sự thống nhất nội tại, là sự hoà hợp, sự cân bằng các mặt đối lập cấu thành
chỉnh thể. Chính sự hoàn hảo và hài hoà ấy đã đem lại cho mọi sự vật, hiện
tượng và cả vũ trụ này tính xác định, tính vững chắc và tính ổn định: sẽ không
có âm thanh hài hoà nếu thiếu sự kết hợp thống nhất giữa các âm cao và âm
thấp cũng như không có chỉnh thể hài hoà thống nhất vũ trụ, nếu thiếu các bộ
phận khác nhau, và ngược lại không có các bộ phận ở bên ngoài vũ trụ thống
nhất… Những sự kết hợp hình thành từ tất cả và không phải tất cả, cái giống
nhau và khác nhau, cái hoà nhịp và cái không hoà nhịp, cái thống nhất xuất
hiện từ tất cả và tất cả từ cái thống nhất”.
Trái với quan điểm đương thời xem cuộc đấu tranh như một hiện tượng
hoàn toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất đồng
mang tính chất phá huỷ thì Hêraclít lại cho rằng đấu tranh là vốn có ở bản
chất của các sự vật, là quy luật phổ biến của sự tồn tại của chúng. Đấu tranh là
nguồn gốc của sự sống là chân lý, là lẽ phải của sự sống. Ông có một câu nói
rất hay: con người sẽ không cảm thấy tốt hơn nếu mọi ý nguyện của mình sẽ
trở thành hiện thực.
Tư tưởng này của Hêraclít hoàn toàn khác biệt và đối lập với quan niệm
của liên minh Pitago. Khi Pitago và liên minh Pitago thừa nhận thế giới bao


18


gồm một số mặt đối lập, thừa nhận sự thống nhất cuả các mặt đối lập. Tuy
nhiên sự thống nhất của các mặt đối lập, sự hài hoà hoàn toàn loại trừ sự đấu
tranh, theo đó sự hài hoà là bất biến không đổi mới. Họ cho rằng không phải
là sự đấu tranh tạo ra sự hài hoà mà do sự thiếu hụt của mặt đối lập tạo ra sự
hài hoà,vũ trụ là sự hoà bình, hoà hợp. Hêraclít khẳng định: ở đâu không có
sự khác biệt thì không có sự thống nhất, không có sự bất hoà thì không có gì
phải hoà hợp.
Trên quan điểm về sự thống nhất (hài hoà) và đấu tranh của các mặt đối
lập, Hêraclít đã có những quan điểm về con người, xã hội. Con người theo
Hêraclít là một thực thể gồm phần thể xác và linh hồn. Trong phần linh hồn
của con người được cấu thành từ yếu tố lửa (năng động), mỗi linh hồn đều có
phần “ẩm ướt” và phần “khô ráo”. “Ẩm ướt” và “khô ráo” là hai mặt đối lập
thống nhất trong linh hồn của con người. Nếu trong linh hồn của một người
nào đó yếu tố “khô ráo” chiếm ưu thế thì người đó sẽ có được trí tuệ thông
minh, sẽ dễ dàng hiểu được cái Logos - quy luật của thế giới.
Xã hội trong quan niệm của Hêraclít cũng chứa đựng những mặt đối lập,
những mặt trái ngược nhau và do đó xã hội vận động theo xu thế đấu tranh,
bài trừ của các mặt đối lập. Ông cho rằng trong xã hội con người sẽ không
cảm thấy tốt hơn nếu mọi ý nguyện của mình trở thành hiện thực. Cũng trên
quan điểm đó Hêraclít diễn đạt tư tưởng của ông về “chiến tranh”; “chiến
tranh là cha đẻ của mọi thứ, là hoàng đế của mọi thứ. Chiến tranh có thể biến
một số người thành thần thánh, số khác là người, nó biến một số người thành
nô lệ, số khác là người tự do”. Chiến tranh tạo ra một trật tự hài hoà mới.
Có thể nói rằng trong tư tưởng của Hêraclít về thống nhất (hài hoà) và
các mặt đối lập, ông đã làm nổi rõ những quan điểm sau: thống nhất là sự hoà
hợp của cái bất đồng của các mặt đối lập; trong quá trình biến đổi của sự vật
đều trải qua các trạng thái đối lập và chuyển hoá thành các mặt đối lập. Đấu
tranh của các mặt là phổ biến, là điều kiện của tồn tại. Với Hêraclít thế giới là



19

sự hài hoà của các mặt đối lập, là sự thống nhất (hài hoà) và đấu tranh của các
mặt đối lập là quy luật phổ biến của thế giới, nhận thức thế giới là nhận thức
quy luật đó, nhận thức là sự phân đôi nội tại của quy luật.
2.2.5. Tư tưởng biện chứng trong quan điểm về nhận thức
Hêraclít được thừa nhận với tư cách là người sáng lập ra phép biện
chứng không chỉ bởi những quan niệm về vũ trụ, tính thống nhất của vũ trụ,
về vận động phổ biến, về tính thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà
còn bởi quan niệm độc đáo của ông về nhận thức.
Theo Hêraclít, người ta chỉ có thể nhận biết được cái chung, cái phổ biến
khi tìm ra được những biểu hiện đa dạng, cụ thể của nó ở các sự vật, hiện
tượng đơn nhất, cá biệt bằng cách so sánh, đối chiếu các sự vật, hiện tượng
đơn nhất cá biệt này với cái chung, cái phổ biến. Nhiều nhà triết học có tên
tuổi trong đó có những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã coi đó là phương
pháp “đằng sau cây nhận thấy rừng” - đằng sau hiện tượng nhận thấy bản
chất, còn đằng sau bản chất nhận thấy hiện tượng. Ông có một câu châm ngôn
nổi tiếng: “biết nhiều thứ chưa làm cho người ta thông minh, người thông
minh phải là người nắm được bản chất và tính tất yếu của sự vật, hiểu được
cái logos của vũ trụ”. Theo quan điểm của ông, người biết nhiều thứ, đa tri
thức của một người mà không hiểu được cái logos của vũ trụ thì nhiều lắm
cũng chỉ được coi là người hiểu biết chứ chưa phải là người thông minh, chưa
phải là nhà thông thái. Biết nhiều thứ đa tri thức, theo ông cũng chỉ là những
mánh lới của nhận thức, mà mánh lới của nhận thức thì ai cũng có, “mọi
người ai cũng có khả năng nhận thức”. Người thông minh, nhà thông thái
không chỉ là những người biết nhiều, đa tri thức mà còn phải nắm được cái
Logos của vũ trụ, nắm được cái quy luật tất yếu của vũ trụ.
Theo Hêraclít, Êể nắm được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật,
hiện tượng, nắm được bản chất quy luật phổ biến của thế giới, nắm được
logos của vũ trụ, chủ thể nhận thức trước hết phải có năng lực quan sát và sự



20

sáng suốt của trí tuệ. Sự sáng suốt của trí tuệ không phải là một cái gì thần bí
mà nó là cái logos vốn có ở mỗi con người, là năng lực nhận thức độc lập của
con người về bản chất của các sự vật, hiện tượng mà họ đang quan sát chiêm
nghiệm. Sự sáng suốt của trí tuệ đó có khả năng nhận thức được tính thống
nhất của vũ trụ, nhận thức được sự thống nhất của các mặt đối lập, nhận thức
được logos của vũ trụ.
Với quan niệm đó, Hêraclít coi sự sáng suốt của trí tuệ, cái logos chủ
quan, sự thông thái của con người cũng là đối tượng của nhận thức lý tính.
Hêraclít đã chỉ ra những đặc trưng của cái logos chủ quan đó là: tính khách
quan, tính vĩnh hằng, là quy luật bất biến, là cái linh hồn vốn có tự nó phát
triển. Chính do tính chất khách quan, do cái phổ biến nên nó có ở mọi người
và là cái có thể nhận thức, và một khi con người nhận thức được nó con người
sẽ trở nên thông thái.
Nét độc đáo trong quan niệm của Hêraclít đó là đã coi logos chủ quan
cũng là đối tượng của nhận thức, của con người. Song sự khác biệt của
Hêraclít so với các nhà triết học đương thời còn ở chỗ ông luôn coi tự nhiên
mới là đối tượng của nhận thức, nhận thức của thế giới phải là cái nhận thức
được cái Logos khách quan.
Ưu điểm lớn nhất của trí tuệ là nói lên được chân lý và hành động theo
tự nhiên, nghe theo tiếng nói của tự nhiên. Song không phải ai cũng nhận thức
được thế giới tự nhiên, không phải ai cũng nhận thức được Logos khách quan
của thế giới, bởi lẽ “tự nhiên yêu thích sự ẩn dấu mình”. Chỉ có những người
có trí tuệ “sáng sủa” nhất, có “linh hồn khô ráo” nhất mới có thể nhận thức
được cái Logos khách quan của tự nhiên. Và để có được sự nhận thức đúng
đắn này thì nhận thức của con người kể cả những người có trí tuệ anh minh
nhất phải bắt đầu từ nhận thức cảm tính, “bởi mắt và tai là những người thầy

tốt nhất”. Song mắt và tai lại là những nhân chứng tồi nhất đối với con người
nếu người đó có linh hồn “ẩm ướt”. Điều đó cũng có nghĩa là, để nhận thức


21

được cái Logos khách quan của tự nhiên thì con người phải đi từ trực quan
cảm tính đến trực giác trí tuệ, từ sự nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Đây là một quan điểm hết sức tiến bộ của Hêraclít. Sau này các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác cũng khẳng định: con đường của nhận thức là đi từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở lại với thực tiễn.
Từ sự trình bày nói trên có thể thấy được rằng Hêraclít đã có những quan
điểm biện chứng trong nhận thức, đặc biệt khi ông xây dựng nguyên lý sự
thống nhất giữa Logos khách quan và Logos chủ quan, mối quan hệ giữa nhận
thức thế giới và khả năng nhận thức thế giới của con người, biện chứng giữa
cái chung và cái đơn nhất. Mặc dù những tư tưởng đó còn chưa thật rõ ràng
nhưng đó là những tư tưởng biện chứng hết sức có ý nghĩa cho việc phát triển
phép biện chứng sau này.
2.2. Giá trị và hạn chế của tư tưởng biện chứng trong triết học
Hêraclít
Mặt dù còn chất phác, thô sơ nhưng tư tưởng biện chứng trong triết học
Hêraclít về căn bản là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Ông đã đưa
triết học duy vật Hy lạp cổ đại phát triển lên một bước mới, góp phần đấu tranh
chống các quan điểm duy tâm, siêu hình của các nhà duy tâm thời kỳ cổ đại.
Dưới góc độ phép biện chứng nhìn chung những giá trị triết học Hy lạp
thời kỳ cổ đại có ý nghĩa rất to lớn, trong đó phải nói đến Hêraclít, triết học
của ông rất nhiều yếu tố biện chứng có giá trị được các nhà triết học mácxít
đánh giá cao. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng chỉ
cốt nâng cao nghệ thuật tranh luận, nghệ thuật hùng biện để bảo vệ những
luận điểm triết học của mình và để tìm ra chân lý. Kết quả của quá trình

nghiên cứu này nhiều nhà triết học đã nhận thức được và phát hiện ra nhiều
yếu tố của phép biện chứng như mối liên hệ giữa các hiện tượng và sự vật, sự
vận động vĩnh viễn của vật chất; tính thống nhất của những mặt đối lập của sự
vật… Những yếu tố biện chứng đó chính là sự phỏng đoán thiên tài về những


22

nguyên lý và quy luật của phép biện chứng mà C.Mác, Ph.Ănghen gọi là phép
biện chứng tự phát, ngây thơ.
Có thể nhận xét chung rằng, trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử nhân
loại với cách nhìn biện chứng về thế giới thì trên phương diện thế giới quan,
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nói chung, tư tưởng biện chứng trong triết học
Hêraclít đã vượt bỏ những ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại và tôn giáo,
đem lại cho loài người một phương pháp tư duy mới - tư duy triết học. Tư
tưởng biện chứng trong triết học của ông đã mở đầu cho sự phát triển những
tư tưởng biện chứng phương Tây, là những viên đá tảng tạo tiền đề cho sự
phát triển tư tưởng biện chứng trong triết học sau này.
Mặc khác, với phương pháp tư duy độc đáo của mình, với cách nhìn biện
chứng, mà hình thức đầu tiên là nhìn nhận thế giới trong sự thống nhất,
Hêraclít đã truy tìm nguồn gốc của thế giới, tính thống nhất của thế giới từ
một dạng vật chất cụ thể. Hêraclít là người đầu tiên trình bày quy luật thống
nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập. Trong đó, ông cho rằng thế
giới là một chỉnh thể thống nhất tuyệt đẹp bao gồm các mặt đối lập. Hơn thế
nữa, ông còn khẳng định được rằng đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật
phổ biến của thế giới, là điều kiện để tồn tại. Nhận thức thế giới là nhận thức
quy luật thống nhất ( hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập. Trong “Bút ký
triết học”, V.I.Lênin đã đánh giá rằng, tư tưởng này của ông khiến nhà triết
học lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại là Arixtốt phải nát óc “đấu tranh” lại.
Ông cũng là người đưa ra khái niệm logos chủ quan và logos khách quan,

theo đó, logos chủ quan của con người có mối quan hệ biện chứng với logos
khách quan của thế giới. Nhận thức của con người là một quá trình đi từ logos
chủ quan đến logos khách quan hay nói cách khác nhận thức là một quá trình đi
từ nhận thức cảm tính đến tư duy trí tuệ. Bản chất của nhận thức thế giới là
nhận thức logos khách quan. Trong học thuyết về dòng chảy phổ biến, Hêraclít
cũng đưa ra những tư tưởng biện chứng của mình. Một câu nói nối tiếng của


23

ông là: “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Điều này khẳng định
vận động, biến đổi là phổ biến, vĩnh cửu. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định vận
động và đứng im là sự thống nhất mâu thuẫn của các mặt đối lập. Tư tưởng vận
động của ông đã được Ph.Bêcơn kế thừa và phát triển trong triết học của mình.
Có thể thấy rằng, tư tưởng biện chứng của Hêraclít và triết học của ông có một
vai trò nhất định trong nền triết học nói chung và lịch sử phát triển phép biện
chứng nói riêng. Qua thời gian, giá trị những tư tưởng biện chứng trong triết
học của ông vẫn được khẳng định và ông sẽ còn được nhắc đến nhiều hơn nữa.
Bên cạnh những đóng góp đối với lịch sử phát triển của phép biện chứng
thì tư tưởng biện chứng của Hêraclít vẫn còn những hạn chế nhất định. Ở
Hêraclít, thống nhất mới chỉ được quan niệm ở nguồn gốc chung của sự vật
mà vẫn chưa thấy được sự thống nhất giữa các sự vật trong những mối liên hệ
cụ thể, hay như sự vận động cũng chỉ là vận động trong một vòng khép kín.
Vận động trong quan niệm của ông còn đơn giản, chưa đi đến được quan
niệm vận động tạo nên sự đa dạng và phong phú của các sự vật và hiện tượng,
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng theo nấc thang đi lên.
Mặc khác, tư tưởng biện chứng của Hêraclít hầu hết được thể hiện qua
những câu văn giàu hình ảnh, châm ngôn nhiều ẩn dụ, đa nghĩa. Điều này tạo
nên tính không nhất quán trong các tư tưởng, quan điểm, luận điểm của ông.




24

KẾT LUẬN
Nghiên cứu tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít chúng ta có
thể kết luận rằng ông là nhà triết học duy vật có nhiều yếu tố biện chứng ngây
thơ, chất phát có giá trị lớn trong lịch sử triết học của nhân loại. Tư tưởng
biện chứng của ông là hình thức đầu tiên của lịch sử phép biện chứng, nó đã
đưa ra nhiều quan niệm có tính trực quan và biện chứng chất phát về sự vận
động và phát triển của vạn vật. Mặc dù chưa đạt tới mức là một hệ thống các
nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng nhưng về cơ bản những
phỏng đoán về tính biện chứng của Hêraclít đã giữ vai trò là người đặt nền
tảng đầu tiên cho lý luận biện chứng. Khi nói về giá trị tư tưởng biện chứng
của ông, Ph.Ăngghen đã coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại. Ph.Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy,
ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của nhà triết học Hy Lạp
thời cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Hê-ra-clít:
mọi vật tồn tại, nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi
vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn luôn ở trong quá trình xuất
hiện và biến đi”3.
Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cách mạng ở nước ta đã chứng minh rằng,
chỉ khi nào chúng ta nhận thức và nắm vững phép biện chứng cũng như lịch
sử phát triển của nó và biết cách vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp trong
điều kiện hoàn cảnh cụ thể như Hồ Chí Minh nói: “Dĩ bất biến, ứng vạn bất
biến” thì khi đó con người mới có thể hoàn thiện bản thân, cải tạo tự nhiên,
biến đổi xã hội theo hướng có lợi cho mình. Muốn làm được điều đó đòi hỏi
phải nắm rõ bản chất của từng vấn đề khi áp dụng vào thực tiễn. Do đó, mỗi
chúng ta cần phải tích cực học tập, rèn luyện và nghiên cứu ngay từ khi còn
ngồi trên ghế nhà trường. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng là thế hệ trẻ đi


3

Ph.Ăngghen, Chống Đuy rinh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.33.


25

đầu trong việc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, xứng đáng với bè
ban “Năm châu” như lời Bác Hồ dạy.
Bản thân là một học viên chuyên ngành triết học đang học tập, nghiên
cứu ở trình độ thạc sỹ, khi nghiên cứu lịch sử triết học, chúng ta cần có quan
điểm nhận thức đúng đắn các vấn đề. Thấy được những cống hiến, đóng góp
của các nhà triết học trong lịch sử, cả những giá trị và những hạn chế của họ.
Có quan điểm đánh giá thẩm định phù hợp. Đặc biệt phải biết vận dụng
những điểm tích cực, tiến bộ của các quan điểm triết học trong lịch sử để cắt
nghĩa các vấn đề của triết học Mác, và chứng minh triết học Mác là sự kế thừa
những giá trị tinh hoa trong dòng chảy phát triển của triết học nhân loại. Với
triết học của Hêraclit phải thấy được đó là trường phái triết học khá tiến bộ
trong lịch sử triết học phương Tây cổ đại, với những đóng góp hết sức giá trị
về tư tưởng biện chứng.
Trong nghiên cứu triết học Mác, phải thấy được tư duy biện chứng duy
vật mácxít có quá trình hình thành và phát triển tuân theo những quy luật của
sự phát triển tư duy triết học nhân loại, nghĩa là phép biện chứng duy vật Mác
là đỉnh cao của tư duy triết học nhân loại. Trong sự phát triển, có sự kế thừa,
sự chọn lọc những tinh hoa của tư duy triết học nhân loại. Là người giảng
viên phải có nhận thức đúng đắn, đánh giá đúng từng trường phái, từng nhà
triết học sát với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội đương thời mà
họ đã sống đã có những cống hiến cho nhân loại, thật sự bảo đảm nguyên tắc
khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Tránh đánh giá một cách

chung chung, hời hợt, phiến diện một chiều dẫn đến phê phán thiếu cơ sơ
khoa học. Tư duy của những người làm công tác sư phạm đòi hỏi có sự mô
phạm một cách khái quát, chính xác đánh giá một cách công bằng đối với
từng giai đoạn lịch sử, tạo sức hút cho người học sau này.
Nghiên cứu triết học Hêraclit nói chung, tư tưởng biện chứng nói riêng
phải thấy được vai trò của tư tưởng biện chứng trong sự phát triển tư duy sư


26

phạm. Trong giảng dạy và học tập muốn có một phán đoán đúng, một kết luận
chính xác thì phải đi tìm đủ các căn cứ, thông tin tài liệu, các dữ liệu khoa học
và có khả năng khái quát tình hình thực tiễn tốt, phải đặt những vấn đề nhận
thức trong mối quan hệ thống nhất với hiện thực. Người giảng viên sau này
muốn tư duy đúng phải có phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng,
tư duy lôgíc. Làm được điều đó người học phải tăng cường tích luỹ tri thức,
kinh nghiệm, có khả năng phán đoán cao, khả năng tưu duy trừu tượng lớn, có
cách nhìn, cách tổng hợp, khái quát hoá gắn lý luận vào thực tiễn sinh động.
Chính từ ý nghĩa đó người học, người làm công tác giảng dạy sau này để có
khả năng tư duy khoa học, tư duy biện chứng cao phải có quá trình tích luỹ
kiến thức, thông qua các giai đoạn nhận thức, chống tư tưởng nóng vội đốt
cháy giai đoạn, tăng cường học hỏi, tích luỹ kiến thức khoa học của nhận loại,
tính luỹ kinh nghiệm trong thực tiễn giảng dạy là con đường đúng đắn nhất để
cũng cố, hoàn thiện phương pháp tư duy khoa học nâng cao chất lượng giảng
dạy sau này.
  


27


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
2. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng
hợp,Thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
3. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình triết học Mác Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014.
4. Bùi Thanh Quất, Lịch sử triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
5. GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Văn Vui (đồng chủ
biên), Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2006.
6. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội, Khoa
Triết học, Tập bài giảng triết học Mác - Lênin, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000.
7. Ngô Đức Thịnh, Giáo trình triết học Mác - Lênin, NXB. Chính trị
Hành chính, H., 2009. 10. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học Phương
Đông, tập I, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1991.
8. PGS, TS. Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Giáo trình triết học, Nxb. Lý
luận Chính trị, H., 2006.
9. Đặng Hữu Toàn, “Quan niệm của Hêraclít về sự hài hoà và đấu tranh
của các mặt đối lập”, Tạp chí Triết học, số 1 (131), 2002.
10. Đặng Hữu Toàn, “Khái niệm “Logos trong triết học của Hêraclít”
Tạp chí Triết học, số 4 (146), 2002.
11. Đặng Hữu Toàn, “Học thuyết về nhận thức trong triết học Hêraclít”,
Tạp chí Triết học, số 7 (146), 2003.
12. Tổng cục Chính trị, Giáo trình lịch sử triết học, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 2014.
13. Tổng cục Chính trị, Lịch sử triết học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 2003.



×