Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học sự CHUYỂN hóa của các mặt đối lập TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.12 KB, 30 trang )

SỰ CHUYỂN HÓA CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
TRONG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Phép biện chứng là một khoa học triết học, xét trên nhiều phương
diện, nó là hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn như bản thân triết
học. Như vậy, lịch sử phép biện chứng hình thành, phát triển từ khi triết
học ra đời, mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng mácxít. Phép biện chứng
duy vật mácxít dựa trên truyền thống tư tưởng biện chứng của nhiều thế kỷ,
vạch ra những đặc trưng chung nhất của biện chứng khách quan, nghiên
cứu những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên,
của xã hội và của tư duy. Nó là chìa khoá để giúp con người nhận thức và
chinh phục thế giới. Nắm vững những nguyên tắc, phương pháp luận của
phép biện chứng duy vật không những là một nhân tố cơ bản để hình thành
thế giới quan khoa học, mà còn là điều kiện tiên quyết cho sự sáng tạo của
chính đảng cách mạng. Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cách mạng cho ta
thấy, khi nào chúng ta nắm vững lý luận phép biện chứng, biết vận dụng
các nguyên tắc, phương pháp của nó một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể, biết lấy “cái bất biến” ứng vào “cái vạn biến” - như Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói - thì vai trò và hiệu lực cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội
được tăng cường. Ngược lại, cách nghĩ, cách làm chủ quan duy ý chí, siêu
hình sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết điểm quan trọng, gây tổn thất cho cách
mạng và quá trình phát triển xã hội nói chung. Vì vậy, học tập nghiên cứu
sự hình thành và phát triển phép biện chứng trong lịch sử là một nhu cầu
hết sức cần thiết. Nó không những cho phép chúng ta nắm vững phép biện
chứng duy vật, thấu suốt những nguyên tắc phương phương luận của nó,
mà còn giúp chúng ta nắm được bức tranh toàn cảnh, hiểu được nguồn gốc
ra đời, sự hình thành phát triển qua quá trình đấu tranh gay gắt với những


2


tư tưởng của phép siêu hình, cũng như phép biện chứng duy tâm để khẳng
định vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Trong lịch sử triết học đã tồn tại hai phương pháp đối lập nhau trong
việc xem xét thế giới. Đó là, phương pháp biện chứng và phương pháp siêu
hình. Phương pháp siêu hình xem xét các sự vật, hiện tượng, quá trình
trong thế giới một cách riêng rẽ, biệt lập, không có liên hệ giàng buộc lẫn
nhau; và nếu có thì chỉ là sự liên hệ giản đơn, hời hợt, bên ngoài. Phương
pháp biện chứng xem xét các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới trong
mối liên hệ hữu cơ, chằng chịt với nhau và tác động ảnh hưởng lẫn nhau, là
cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng trong thế giới - đó chính là
biện chứng khách quan của thế giới. Biện chứng khách quan này được phản
ánh vào bộ óc người diễn ra biện chứng chủ quan.
Như vậy, phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế
giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với
lôgíc biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng
trong phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so
với các phương pháp tư duy trước đó; là “phương pháp mà điều căn bản là
nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong
mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự
phát sinh và sự tiêu vong của chúng”1. Phép biện chứng duy vật có khả năng
đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm
của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự
nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù
của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học.
Theo Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự
nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là
phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua
1

Mác - Ăngghen: toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004, t20, tr.38.



3

những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên
của chúng và sự chuyển hoá cuối cùng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia, tương tự với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự
nhiên”2.
Quan điểm triết học cho rằng, biện chứng chủ quan là cái có trước,
quyết định biện chứng khách quan - đó là phép biện chứng duy tâm. Còn phép
biện chứng duy vật thì khẳng định rằng, biện chứng khách quan có trước,
quyết định biện chứng chủ quan. Mặc dù bị biện chứng khách quan quyết
định, nhưng biện chứng chủ quan có tính độc lập tương đối và có quy luật
riêng của mình. Dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại và thực tiễn
xã hội, phép biện chứng duy vật hình thành một hệ thống những nguyên lý,
quy luật và phạm trù để phản ánh thế giới khách quan. Ph. Ăngghen khẳng
định: “phép biện chứng…môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy.” 3. Đó là một
học thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất, cách mạng nhất về sự liên hệ phổ biến
và sự phát triển.
Nội dung của phép biện chứng duy vật hết sức phong phú, trong đó bao
gồm rất nhiều vấn đề cơ bản, song trong phạm vi bài viết tiểu luận này do
điều kiện thời gian, và trình độ nghiên cứu còn hạn chế…nên chúng tôi không
thể đề cập tới tất cả các nội dung của phép biện chứng mà chủ yếu tập trung
làm rõ một số vấn đề thuộc phạm trù về “chuyển hoá” của các mặt đối lập và
sự vận dụng của nó trong hoạt động thực tiễn cách mạng cũng như trong
công tác quản lý, giáo dục đào tạo, rèn luyện học viên tại các học viện, nhà
trường trong Quân đội ta hiện nay.
Trong phép biện chứng, khái niệm chuyển hoá được dùng hết sức phổ
biến. Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình là ở chỗ nó khẳng định rằng

2
3

Sđd, tập 20, tr. 694.
Ph. Ăng-ghen, chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1994, trang 235.


4

mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới không cố định, không đứng im một chỗ,
không bất biến mà luôn vận động biến đổi không ngừng, luôn chuyển hoá từ
dạng này sang dạng khác. Lênin đã từng khẳng định: “Biểu tượng thông
thường nắm được sự khác nhau và mâu thuẫn, nhưng không nắm được sự
chuyển hoá từ cái này sang cái kia mà chính điều đó mới quan trọng nhất” 4.
Và trong sự phát triển, đồng thời Lênin cũng đã làm rõ sự đối lập giữa hai
quan điểm trên về sự chuyển hóa là: “Hai quan niệm cơ bản… về sự phát
triển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp
lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân
đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối
quan hệ lẫn nhau giữa những mặt đối lập ấy)… Quan niệm thứ nhất là
chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có
quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự “tự vận động” của tất thảy
mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước
nhảy vọt", của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hoá
thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới” 5.
Khái niệm chuyển hoá ở đây dùng để chỉ sự biến đổi của sự vật này sang sự
vật khác, của hiện tượng này thành hiện tượng khác. Điều này về mặt khoa
học tự nhiên, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng đã chứng minh đó
là năng lượng không những luôn được bảo toàn mà còn luôn luôn có sự
chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác (từ cơ năng sang nhiệt năng, từ nhiệt

năng sang điện năng..v.v). Trong giới tự nhiên có sự chuyển hoá từ giới vô cơ
thành giới hữu cơ, từ động vật thấp đến động vật cao .v.v... Khi chứng minh
sự vận động phát triển của xã hội loài người, Ăngghen đã khẳng định về vai
trò của lao động trong sự chuyển hoá từ vượn thành người. Nhưng “sự

4
5

Lnin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, trang 151.
Sđd, tập 29, tr. 379.


5

chuyển hoá” như thế rất phổ biến. Đó là một nguyên lý quan trọng của phép
biện chứng khách quan.
Trong tư duy phép biện chứng lại nói đến sự chuyển hoá của những
khái niệm. điều này chính Hêghen là người đã đưa ra phép biện chứng của
những khái niệm, nhưng đó là phép biện chứng duy tâm. Khắc phục những
thiếu sót của Hêghen, chắt lọc những “hạt nhân hợp lý” trong phép biện
chứng đó, Lênin đã viết: “Trong sự thay thế, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả
các khái niệm, trong tính đồng nhất của tất cả các mặt đối lập của chúng,
trong những chuyển hoá của những khái của một khái niệm này sang một
khái niệm khác, trong sự thay thế, sự vận động vĩnh viễn của những khái
niệm, Hêghen đã đoán được một cách tài tình chính mối quan hệ như vậy,
của sự vật, của giới tự nhiên…sự chuyển hoá của những khái niệm từ cái này
sang cái kia. Sự chuyển hoá của tất cả mọi khái niệm không trừ khái niệm
nào…”6.
Qua đây lần nữa cho chúng ta thấy rằng sự chuyển hoá của những khái
niệm chẳng qua chỉ là sự phản ánh những chuyển hóa của các sự vật hiện

tượng trong hiện thực khách quan. Sự vận động chuyển hoá của thế giới vật
chất được tư duy con người phản ánh vào trong não của mình. Đây cũng là
sự khác nhau căn bản về chất trong quan niệm về sự chuyển hoá của tư duy
giữa triết học Mác Lênin và các dòng triết học trước đó, khẳng định tính
đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Như vậy có thể khẳng định sự chuyển hoá là vô cùng, vô tận diễn ra
trong mọi điều kiện hoàn cảnh đối với mọi lĩnh vực của thế giới cả vật chất
lẫn tinh thần. Ở đây không bàn đến sự chuyển hoá của các sự vật và hiện
tượng nói chung, hay sự chuyển hoá của những khái niệm trong lĩnh vực tư
duy. Mà chủ yếu tập trung bàn đến sự chuyển hoá của các mặt đối lập trong
các quy luật, các cặp phạm trù của phép biện chứng. Để từ đó có cái nhìn
6

Sđd, tập 29, tr. 209 - 210.


6

đúng hơn về phép biện chứng trong sự vận động phát triển của thế giới. Trên
cơ sở đó thấy được sự vận dụng của phong trào cách mạng thế giới trong giai
đoạn vừa qua, đấu tranh với những xuyên tạc của kẻ thù trên lĩnh vực tư
tưởng. Đồng thời làm cơ sở cho việc vận dụng giải quyết những mâu thuẫn,
những vấn đề nảy sinh trong công tác giáo dục, quản lý học viên ở các học
viện, nhà trường trong Quân đội Nhân dân Việt Nam.
1. Nguyên lý về sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong phép biện
chứng duy vật
Nguyên lý về sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong phép biện chứng
nói chung cũng như trong sự phân tích những mâu thuẫn cụ thể của các sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội là vô cùng phong phú và linh hoạt.
Điều này đã được Mác và Ăngghen ví dụ, chứng minh một cách sâu sắc và cụ

thể. Khi nghiên cứu về lĩnh vực tự nhiên, Ăngghen đã viết: “ Nếu người ta cắt
một thanh nam châm làm đôi, thì khoảng giữa trước là trung hòa, nay bị
phân cực, nhưng phân cực sao cho những cực cũ vẫn y nguyên. Trái lại nếu
ta cắt đôi một con sâu, thì nó giữ lại ở cực dương cái miệng để ăn, và tạo ra
ở đầu kia một cực âm mới có hậu môn để bài tiết; nhưng cái cực âm cũ ( hậu
môn ) bây giờ trở thành cực dương nghĩa là trở thành cái miệng và ở chỗ bị
cắt lại thành ra một cái hậu môn mới hay là cực âm. Đó là sự chuyển hóa từ
cực dương sang cực âm”7.
Với chúng ta vấn đề có ý nghĩa thực tiễn quan trọng là vận dụng những
nguyên lý này vào việc phân tích những mâu thuẫn trong xã hội. Lịch sử loài
người đã chứng minh rằng, cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ phát
triển đến mức độ nào đó thì cả hai giai cấp đều biến đi, nhường chỗ cho sự ra
đời của hai giai cấp khác là địa chủ và nông dân. Trong xã hội phong kiến , ở
một số nước phương tây cuộc đấu tranh giữa địa chủ và nông dân đã diễn ra
hàng nghìn năm, nhưng cuối cùng không đưa lại một chế độ xã hội mới, vì
7

PH. Ăng ghen;’ chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 332.


7

giai cấp nông dân không đại diện cho một phương thức sản xuất mới. Để giải
thích sự vận động của xã hội phong kiến ở những nước đó, Ở đây ta phải phân
tích một mâu thuẫn khác: mâu thuẫn giữa một bên là địa chủ phong kiến với
một bên là ba giai cấp tư sản, vô sản và nông dân. Trong ba giai cấp này thì
giai cấp tư sản đóng vai trò lãnh đạo. Nên khi mâu thuẫn được giải quyết thì
có sự chuyển hóa về vị trí của hai giai cấp phong kiến và tư sản. Giai cấp
phong kiến từ chỗ là giai cấp lãnh đạo trở thành giai cấp bị trị còn giai cấp tư
sản từ chỗ là giai cấp bị trị lại trở thành giai cấp thống trị. Ở Việt Nam cuộc

đấu tranh giữa địa chủ phong kiến và nông dân cũng diễn ra hàng nghìn năm,
có lúc giai cấp nông dân đã lật đổ được ách thống trị của phong kiến (cuộc
cách mạng Tây Sơn) nhưng cuối cùng rồi cũng lập lại chế độ phong kiến. ở
đây sự chuyển hóa của hai mặt đối lập không mang lại một chế độ xã hội mới.
Điều này do tính chất đặc thù của hai mặt đối lập trong chế độ xã hội đó và do
điều kiện lịch sử của xã hội ta lúc bấy giờ.
Trong xã hội tư sản, cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp tư sản và vô sản
cũng đi đến chỗ chuyển hóa lẫn nhau. Nhưng ở đây không được hiểu một
cách máy móc là giai cấp tư sản trở thành vô sản còn giai cấp vô sản trở thành
giai cấp tư sản. Mà ở đây với một ý nghĩa nào đó thì có thể nói giai cấp tư sản
từ chỗ là giai cấp thống trị trở thành giai cấp bị trị, còn giai cấp vô sản từ chỗ
là giai cấp bị tri sau khi thực hiện cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa trở
thành giai cấp thống trị khi thực hiện nhiệm vụ chuyên chính vô sản của
mình. Thực ra nói như vậy không phản ánh hết thực tế khách quan diễn ra.
Bởi sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp tư sản không còn là một
giai cấp như cũ nữa và bản thân giai cấp vô sản cũng không còn là giai cấp “
vô sản” nữa mà đã có sự thay đổi hẳn về địa vị, họ đã trở thành giai cấp cùng
với nhân dân lao động làm chủ xã hội, làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội. Mác và Ăng ghen đã viết “… Sau khi giành được thắng lợi, giai
cấp vô sản không hề trở trở thành mặt tuyệt đối của xã hội, vì nó giành thắng


8

lợi chỉ bằng cách tự thủ tiêu mình và thủ tiêu cả mặt đối lập của mình. Với
thắng lợi của giai cấp vô sản, bản thân giai cấp vô sản cũng như mặt đối lập
chế ước nó, chế độ tư hữu - sẽ biến mất ”8.
Trong thực tiễn cách mạng, Đảng ta đã vận dụng nguyên lý về sự
chuyển hóa của các mặt đối lập vào rất nhiều trường hợp khác nhau, ở mỗi
thời điểm lịch sử khác nhau, mỗi tình huống cách mạng khác nhau, Đảng ta

đều căn cứ vào tình hình thực tế và xem xét, giải quyết sự chuyển hóa giữa
các mặt đối lập một cách hài hòa, linh hoạt và đem lại thắng lợi vẻ vang.
Trong cuộc chiến tranh chống mỹ cứu nước, chúng ta nói là cuộc đấu tranh
một mất, một còn. Là nói lên tính chất khốc liệt của cuộc chiến tranh giữa
hai mặt đối lập: một bên là đế quốc Mỹ xâm lược cùng bọn tay sai bán nước,
với một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh chính nghĩa chống lại sự
xâm lược của bọn phản động. Chúng ta phải đấu tranh cách mạng đánh đổ
toàn bộ ý đồ xâm lược của tập đoàn tay sai phản động Hoa Kỳ và bọn bán
nước. Song không phải như thế là một mặt đối lập sẽ mất đi và chỉ còn lại
một mặt đối lập mà khi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc được hoàn
thành, mâu thuẫn cơ bản được giải quyết, một mặt đối lập mất đi thì đồng
thời mặt kia cũng không còn nữa, vì khi sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời
thì cũng xuất hiện những mâu thuẫn mới với những mặt đối lập mới. Ở
trường hợp trên, khi đế quốc Mỹ đã bị thất bại hoàn toàn, sự nghiệp giải
phóng dân tộc cơ bản đã hoàn thành thì về phía cách mạng nước ta, sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta cũng không còn nguyên như cũ nữa mà
đã có sự thay đổi về chất, các mặt đối lập mới lại được thiết lập, sự chuyển
hóa của các mặt đối lập mới lại hình thành. Vận dụng vào trong học tập và
công tác, nghiên cứu của người học viên sau đại học là phải thường xuyên
tiến hành phê bình và tự phê bình để giải quyết những mâu thuẫn giữa hai mặt
ưu điểm và khuyết điểm. Vậy, có nên nói là phải bỏ mặt khuyết điểm và giữ
8

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, tr 13.


9

lại mặt ưu điểm hay không? Thực tế trong cuộc đấu tranh tư tưởng, hai mặt
đối lập ưu điểm và khuyết điểm chuyển hóa lẫn nhau không có nghĩa là một

còn, một mất một cách máy móc. Điều này, không có nghĩa là chúng ta chỉ bỏ
khuyết điểm và giữ nguyên ưu điểm nguyên như cũ. Mà sau khi sửa chữa
khuyết điểm rồi thì ưu điểm sẽ cũng không còn nguyên như trước nữa mà có
sự hoàn thiện và phát triển hơn. Nên có thể nói là, các mặt ưu và khuyết điểm
thực hiện chuyển hóa trong cơ chế khắc phục khuyết điểm và phát huy ưu
điểm mới đúng trong cơ chế chuyển hóa.
Những ví dụ nói trên về sự chuyển hóa khác nhau của các mặt đối lập
trong các sự vật khác nhau, chính là “sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối
lập” Ăngghen đã tổng hợp sự chuyển hóa muôn vẻ đó như sau: “…tức là
những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển
hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, hoặc lên
những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên” 9. Ở đây,
chúng ta thấy Ăng ghen đã khái quát thành hai hình thức chuyển hóa: một là,
hai mặt đối lập nhằm vào nhau mà chuyển hóa từ mặt này thành mặt kia; hai
là, cả hai mặt đều biến đi trở thành những mặt khác cao hơn.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một nguyên lý rất quan trọng của
phép biện chứng. Nếu hiểu không đúng, vận dụng không đúng nguyên lý đó,
có thể dẫn đến thuật ngụy biện, phản lại phép biện chứng. Thuật ngụy biện, là
lối nói xuất phát từ chủ quan, bề ngoài có vẻ biện chứng nhưng thực ra là
xuyên tạc hiện thực khách quan.
Ví dụ: như xấu và tốt là hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, xấu trở
thành tốt và ngược lại. Đúng là trong thực tế xã hội có người tốt trở thành
người xấu, có người xấu trở thành người tốt, đó là sự thay đổi bình thường.
Nhưng nếu đi đến kết luận “ càng xấu càng tốt” thì lại là ngụy biện. Trong

9

PH. Ăng ghen;’ biện chứng của tự nhiên, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 321.



10

thực tế không phải càng xấu bao nhiêu thì lại chuyển thành tốt bấy nhiêu. Một
người quá xấu thì khó cải tạo thành tốt được.
Hay như trong chiến tranh và hòa bình chuyển hóa lẫn nhau. Nếu nói
trong lịch sử xã hội, tình hình thay đổi có khi đang hòa bình lại xẩy ra chiến
tranh rồi chiến tranh kết thúc hòa bình lại trở lại thì điều đó dễ hiểu. Nhưng
nói một cách chung chung rằng hoà bình và chiến tranh là hai mặt đối lập bao
giờ cũng chuyển hóa lẫn nhau, chiến tranh trở thành hòa bình, hòa bình tất
yếu trở thành chiến tranh thì ở đây phép biện chứng đã bị xuyên tạc. Có phải
trong lịch sử xã hội, bao giờ hòa bình cũng tất yếu chuyển thành chiến tranh
đâu? Chúng ta thừa nhận rằng: Còn chủ nghĩa đế quốc thì còn nguy cơ chiến
tranh, nhưng sau khi chủ nghĩa đế quốc mất đi, chiến tranh sẽ không còn là
một hiện tượng tất yếu nữa. Hiện nay, chúng ta đang đấu tranh để bảo vệ hòa
bình trên toàn thế giới. Với sức mạnh của chính nghĩa và lực lượng yêu
chuộng hòa bình, kết hợp với xu hướng quốc tế hóa và hợp tác hóa toàn cầu
chúng ta có thể ngăn chặn được chiến tranh để bảo vệ hoà bình trên thế giới,
đẩy lùi được nguy cơ chiến tranh.
Qua đây, đồng thời cũng phê phán thuật ngụy biện, cần phải phân biệt
và đấu tranh kiên quyết với những luận điệu giả danh biện chứng với phép
biện chứng chân thực. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là một vấn đề rất
phức tạp. Dễ bị xuyên tạc và bị thay thế bằng thuật ngụy biện. Vì vậy, muốn
hiểu và thực hiện đúng phép biện chứng chúng ta phải phân tích cụ thể sự vật
khách quan để phản ánh đúng sự chuyển hóa cụ thể của các mặt đối lập.
Một khía cạnh nữa cần được giải quyết là sự chuyển hóa đó xảy ra lúc
nào trong quá trình đấu tranh của các mặt đối lập? Có ý kiến cho rằng: sự
chuyển hóa đó diễn ra ngay từ đầu và trong suốt quá trình đấu tranh của các
mặt đối lập. Quan điểm này cho rằng quá trình đấu tranh của các mặt đối lập
cũng là quá trình chuyển hóa giữa chúng. Nói như vậy là không đúng. Ở đây
có sự lẫn lộn khái niệm chuyển hóa với khái niệm biến đổi nói chung. Sự



11

chuyển hóa cũng là sự biến đổi nhưng không phải bất cứ sự biến đổi nào cũng
là sự chuyển hóa. Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập, với sự tác
động qua lại lẫn nhau, hai mặt đó biến đổi dần dần về lượng, nhưng sự biến
đổi đó chưa phải là sự chuyển hóa về chất, khái niệm chuyển hóa của hai mặt
đối lập chỉ dùng khi nào hai mặt đối lập trở thành “đồng nhất”, khi sự đấu
tranh đã lên tới cực độ, tức là giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh, khi mâu
thuẫn được giải quyết. Trong câu trích ở trên, chúng ta thấy Ăng ghen nói tới
sự chuyển hóa cuối cùng của chúng, Người còn chỉ rõ: “sự chuyển hóa từ mặt
này sang mặt khác khi các mặt đó lên tới cực độ”…”ở một điểm nhất định,
cực này chuyển thành cực kia”10. Về vấn đề này, Lênin cũng đã nói: “Phép
biện chứng là học thuyết vạch ra rằng những mặt đối lập làm thế nào mà có
thể và thường là (trở thành) đồng nhất - trong những điều kiện nào chúng là
đồng nhất, bằng cách chuyển hóa lẫn nhau-”11.
2. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập trong các quy luật và các cặp
phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
* Sự chuyển hoá các mặt đối lập trong các quy luật của chủ nghĩa
duy vật biện chứng
Với tư cách là khoa học triết học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu
những quy luật cơ bản, phổ biến tác động trong mọi sự vật, hiện tượng, quá
trình,…của thế giới khách quan. Những quy luật này phản ánh quá trình vận
động, biến đổi và phát triển của cả giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy
con người. Trong đó, quy luật mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập) làm sáng tỏ nguồn gốc và động lực của mọi sự vận động, biến
đổi và phát triển; quy luật lượng - chất (chuyển hoá từ những thay đổi về
lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại) phản ánh phương thức và
trạng thái của quá trình vận động, biến đổi và phát triển; quy luật phủ định

10
11

PH. Ăng ghen;’ biện chứng của tự nhiên, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971 tr. 306.
Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, tr. 116.


12

của phủ định chỉ rõ khuynh hướng của quá trình vận động, biến đổi và phát
triển của thế giới khách quan.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Mâu thuẫn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học. Không
phải ngẫu nhiên mà ngay từ thời cổ đại, Denon (490 - 430 trước công nguyên)
đã đưa ra những Aporia nổi tiếng: “Achille và con rùa”, “Mũi tên bay”. Sau
này Cantơ lại day dứt trước những Antinômi (nghịch lý) của lý trí. Còn nhà tư
tưởng bách khoa Hêghen đã kiến trúc nên phép biện chứng của mâu thuẫn
một cách tài tình trong “thế giới ý niệm”. Trong triết học mácxít, vấn đề mâu
thuẫn đã trở thành cội nguồn sinh động của toàn bộ phép biện chứng. Lênin
viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống
nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,
nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”12.
Sự vật (hiện tượng, quá trình…) trong thế giới vô cùng đa dạng, phong
phú. Các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng cũng vô cùng phong phú
và đa dạng. Vì vậy sự chuyển hoá của các mặt đối lập là rất phong phú và
nhiều vẻ. Lênin viết: “không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập
mà còn là chuyển hoá của mỗi quy định, chất đặc trưng, mặt, thuộc tính sang
mỗi cái khác (sang cái đối lập với nó)”13.
Không nên hiểu sự chuyển hoá của các mặt đối lập một cách đơn giản
máy móc như là sự đổi chỗ cho nhau của các mặt đối lập, hoặc cái nọ thành

cái kia…; mà đây chính là sự chuyển hoá của các mặt đối lập biện chứng gắn
liền với việc giải quyết mâu thuẫn biện chứng làm biến đổi về chất của sự vật.
Đặc trưng cơ bản của sự chuyển hoá này là ở chỗ: Mâu thuẫn biện chứng
được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời với những mặt đối lập và
mâu thuẫn biện chứng mới. Trong khi phân tích quá trình tiến hoá của các sự
12
13

Sđd, tập 29, tr. 240.
Sđd, tập 29, tr. 379.


13

vật (hiện tượng, quá trình…) trong giới tự nhiên, Ăngghen đã chỉ ra rằng
những mặt đối lập “thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự
chuyển hoá cuối của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, hoặc
nên những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”14.
Vấn đề đặt ra là hiểu sự “chuyển hoá” đó như thế nào cho đúng? Mà ở
đây, chúng ta cần chú ý rằng “chuyển hoá” là một phạm trù triết học với tính
chất trừu tượng cao, nó khái quát những hiện tượng chuyển hóa muôn hình
muôn vẻ của sự vật khách quan. Nên không được hiểu khái niệm đó một cách
đơn giản máy móc. Sự chuyển hóa diễn ra đa dạng, tuỳ theo từng sự vật có
mâu thuẫn khác nhau mà sự chuyển hoá của các mặt đối lập cũng diễn ra một
cách khác nhau. Ở mỗi trường hợp riêng biệt lại phải giải thích sự chuyển hoá
cụ thể của những mặt đối lập đúng như trong thực tế diễn ra. Tuyệt đối không
được coi mọi sự chuyển hoá đồng loạt như nhau, mà ở những trường hợp cụ
thể có những sự chuyển hoá cụ thể. Phương thức, tính chất chuyển hoá là hết
sức phong phú và đa dạng. Vì, một mặt là do tính chất của mâu thuẫn, mặt
khác là do tính chất của điều kiện lịch sử trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa

các mặt đối lập quy định. Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng hướng tới sự
phá vỡ sự thống nhất cũ để thiết lập sự thống nhất mới cao hơn, và vì thế, bất
cứ sự chuyển hoá nào cũng không phải là sự chuyển đổi vị trí giản đơn giữa
hai mặt đối lập. Tuy nhiên suy đến cùng tất cả đều là sự chuyển hóa của các
mặt đối lập trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Song trong
mỗi cách tiếp cận. Và khai thác khác nhau, trong những quy luật và phạm trù
khác nhau…thì các mặt đối lập có sự chuyển hóa khác nhau. Tư tưởng về
mâu thuẫn biện chứng với tính cách là quá trình thống nhất, đấu tranh và
chuyển hoá của các mặt đối lập trong một chỉnh thể được thể hiện rõ trong bộ
“tư bản” của Mác. Trong khi phân tích thuộc tính của hàng hoá, C. Mác chỉ
ra: “Sản phẩm với tư cách là giá trị sử dụng mâu thuẫn với chính bản thân
14

Ph. Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, Nxb, sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 312.


14

mình với tính cách là giá trị”. Ở một chỗ khác, C. Mác đã vạch ra mâu thuẫn
của chính quá trình xuất hiện tư bản: “Tư bản xuất hiện trong lĩnh vực lưu
thông và đồng thời lại ở ngoài lĩnh vực lưu thông”.
Đấu tranh của các mặt đối lập biện chứng là quá trình trong đó các
mặt đối lập liên hệ, tác động, bài trừ, phủ định lẫn nhau làm cho sự vật
luôn vận động, biến đổi và phát triển. Chính nhờ sự đấu tranh này mà các
sự vật vận động, chuyển hoá lẫn nhau làm cho thế giới trở nên vô hạn, vĩnh
viễn và bất diệt.
Trong lĩnh vực quân sự, tồn tại một hệ thống các mâu thuẫn: mâu
thuẫn của chiến tranh; mâu thuẫn của đấu tranh vũ trang và mâu thuẫn của
xây dựng quân đội. Trong mâu thuẫn của các cuộc chiến tranh có mâu thuẫn
cơ bản và không cơ bản. Thực chất mâu thuẫn cơ bản của chiến tranh là các

bên tham chiến đều muốn đạt mục đích chính trị, kinh tế của mình bằng các
phương tiện vũ trang.
Do bản chất của chiến tranh là sự kế tục chính trị bằng thủ đoạn bạo
lực, cho nên đặc thù mâu thuẫn cơ bản của chiến tranh trước hết là do tính
chất kinh tế - xã hội của nhà nước quy định, nó xuất hiện dưới dạng khả năng
ngay trong thời bình. Điều đó được thể hiện rõ nét trong điều kiện hiện nay,
khi chủ nghĩa đế quốc đang hy vọng giải quyết mâu thuẫn cơ bản của cuộc
chiến tranh tương lai bằng tiến hành cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí công
nghệ cao, bằng ưu thế của sức mạnh đồng đô la.
Là sự đấu tranh giữa hai lực lượng đối lập, đấu tranh vũ trang là một
mâu thuẫn gay gắt. Khi tiến hành xây dựng quân đội phải chú ý đến tính đặc
thù của hoạt động quân sự là một quá trình hai mặt. Xây dựng quân đội về
chính trị bao gồm hai quá trình đối lập: tăng cường củng cố bản chất giai cấp
công nhân và chống "phi chính trị hoá quân đội".


15

Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại. (quy luật lượng - chất)
Là quy luật phản ánh cơ chế, cách thức của quá trình phát triển đi từ
những biến đổi dần dần về lượng đến giới hạn nhất định, vượt quá điểm nút, phá
vỡ độ của sự vật thực hiện bước nhảy về chất đưa sự vật phát triển lên một chất
lượng mới. Cơ sở phương pháp luận cho mọi cơ chế của sự phát triển với các
yêu cầu cơ bản, là phải thường xuyên tích luỹ về lượng để tạo điều kiện cho sự
thay đổi về chất, chống chủ quan duy ý chí; khi lượng tích luỹ đạt đến độ, cần
kiên quyết thực hiện bước nhảy, chống bảo thủ, trì trệ và cần vận dụng linh hoạt
các hình thức bước nhảy để đẩy nhanh quá trình phát triển.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá
về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Xét về bản

chất, bước nhảy chính là sự đứt đoạn tính tiệm tiến về lượng, là sự tích hợp
giữa tính liên tục và tính gián đoạn trong sự phát triển.
Kế thừa những hạt nhân hợp lý của Hêghen trong khi lý giải về sự thay
đổi về chất phải thông qua bước nhảy, Lênin đã nhấn mạnh: “tính tiệm tiến
mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả”... “phân biệt
bằng cách nào, một sự chuyển hoá biện chứng với một sự chuyển hoá không
biện chứng? bằng bước nhảy vọt ... bằng sự gián đoạn của tính tiệm tiến”15.
Đồng thời chất mới sau khi ra đời cũng có sự tác động to lớn trở lại đối
với lượng. Lênin đã khẳng định: “sự chuyển hoá lượng thành chất và ngược
lại”16. Sở dĩ như vậy là vì, nói đến chất mới, là nói đến những thuộc tính mới,
những quan hệ mới của sự vật, hiện tượng. Những thuộc tính và quan hệ mới
này, đến lượt nó, sẽ tạo ra những khả năng mới và những khả năng này, trong
những điều kiện, hoàn cảnh mới sẽ thúc đẩy quy mô, tính chất, nhịp điệu vận
động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, nước đến nhiệt độ 100 0C thì
15
16

Sđd, tập 29, tr. 133.
Sđd, tập 29, tr. 240.


16

chuyển từ nước lỏng thành hơi nước. Ở trạng thái hơi các phân tử nước vận động
với tốc độ rất cao và tạo nên áp lực lớn hơn rất nhiều ở thể lỏng.
Đối với lịch sử xã hội, hình thái xã hội sau so với hình thái xã hội trước
bao giờ cũng là một chất mới tiến bộ hơn, nó mở đường, tạo ra những điều kiện
mới, khả năng mới cho lực lượng sản xuất phát triển, với nhịp độ mới cao hơn.
Khi nói về phương thức thống trị tư bản chủ nghĩa như một chất mới so với
phương thức thống trị của các giai cấp trước đó trong lịch sử phát triển xã hội,

trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản C. Mác so sánh: “Giai cấp tư sản trong
quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”17
Bàn về vấn đề này, Lênin cho rằng để chủ nghiã xã hội chiến thắng
chủ nghĩa tư bản thì trước hết phải bằng năng suất lao động. Hay chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng đã từng nói muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có
con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong các văn kiện của Đảng vấn đề xác
định đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng cũng có nhiều
điểm mới phù hợp với tình hình thực tiễn hơn, hoặc trong khi xác định thời
kỳ quá độ Đảng ta cũng đã chỉ rõ đó là thời kỳ chuẩn bị đầy đủ mọi cơ sở
vật chất cần thiết để chủ nghĩa xã hội ra đời…
Như vậy, việc nắm vững nội dung quy luật chuyển hoá từ những thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại cũng như phương
luận của nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc xem xét và giải quyết
hững vấn đề cơ bản và cấp bách của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
hiện nay. Có thể nói một cách khái quát rằng, đổi mới là quá trình mang
tính cách mạng sâu sắc và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Quá trình đó đòi hỏi, một mặt chúng ta phải tiến hành tích luỹ về
lượng một cách kiên trì, thường xuyên và liên tục trên toàn xã hội, chuẩn bị
cho những bước nhảy vọt cục bộ trong từng lĩnh vực (kinh tế, chính trị, xã
17

C Mac và PhĂng ghen toàn tâp NXB CTQG H. 1999 tập 4 trang 357


17

hội, văn hoá, tinh thần) để từng bước tiến đến bước nhảy vọt toàn bộ - xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở đây, mọi biểu hiện bảo thủ,
trì trệ, “hữu khuynh” và bất kỳ sự nóng vội chủ quan, ảo tưởng nào đều có

thể gây tổn thất cho cách mạng, cản trở công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã
hội.
Trong giáo dục đào tạo hay trong quản lý bộ đội cũng vậy, để có một
sự trưởng thành nhất định của học viên đòi hỏi phải có một quá trình giáo
dục, huấn luyện lâu dài, phải tích lũy đầy đủ về lượng kiến thức của một
người lính, một người học viên sĩ quan đảm bảo khi ra trường người ta có
thể đảm đương mọi công việc của người cán bộ. Tuyệt đối tránh sự nóng
vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn trong đào tạo. Qua đây cũng đồng thời
phê phán quan điểm coi nhẹ công tác giáo dục, huấn luyện, đào tạo, “quản
lý cốt thực hiện đúng giờ giấc hành chính còn chất lượng sao cũng mặc
kệ”.
Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật.
Phủ định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái
tích cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của
sự vật, hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình phủ định của phủ định tạo
thành sự vận động, phát triển không ngừng mang tính chu kỳ của thế giới khách
quan. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại nhưng
giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát triển không đi theo
đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. Lênin viết: “Sự phát triển hình như
diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ
cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn
ốc chứ không theo đường thẳng”18. Khi bàn về vấn đề này, Ăngghen cho rằng:
“Hai cực của một sự đối lập nào đó, cái khẳng định và cái phủ định, vừa
18

Lêni toàn tập, tập 26, Nxb, tiến bộ, Mácxcơva, 1980, tr.65.


18


không thể lìa nhau, vừa đối lập nhau, và dù đối lập đến mấy đi chăng nữa,
hai cái dó vẫn thâm nhập nhau”19. Như vậy, mọi sự vật trong thế giới đều
bao hàm trong mình những mặt đối lập nhau. Sự tác động biện chứng giữa
các mặt đối lập làm cho sự vật vận động, phát triển đến một trình độ nhất
định, khi có điều kiện chúng phủ định lẫn nhau (phủ định lần thứ nhất) làm
cho sự vật cũ mất đi nhường chỗ cho sự vật mới. Sự vật mới ra đời lại bao
hàm trong mình những mặt đối lập mới và các mặt đối lập này lại tác động
biện chứng với nhau đến một trình độ nhất định, khi có điều kiện chúng lại
phủ định lẫn nhau (phủ định lần thứ hai) làm cho sự vật cũ mất đi nhường
chỗ cho sự vật mới hơn…
Lịch sử phát triển xã hôi loài người đã chứng tỏ rằng, chế độ cộng
sản nguyên thuỷ không có gai cấp, không có bóc lột. Nó đã bị phủ định bởi
các chế độ xã hội có giai cấp và bóc lột (nô lệ, phong kiến, chủ nghĩa tư
bản). Và đến lượt mình, các chế độ này lại bị chủ nghĩa cộng sản phủ định.
Chủ nghĩa cộng sản văn minh dường như giống với xã hội cộng sản nguyên
thuỷ ở chỗ không có giai cấp, không có bóc lột; nhưng nó ở trình độ cao
hơn về chất so với xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Trong lĩnh vực tư duy
nhân loại, cũng có sự phát triển theo chu kỳ như vậy. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng chất phát thời cổ đại bị chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII
- XVIII phủ định (phủ định lần thứ nhất). Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy
vật biện chứng lại phủ định chủ nghĩa duy vật siêu hình (phủ định của phủ
định). Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thành tựu rực rỡ của tư tưởng triết
học nhân loại; nó đã và đang được bổ sung và phát triển phong phú cùng
với sự phát triển của thực tiễn xã hội và khoa học công nghệ hiện đại.
Thực hiện quy luật đó, Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng
đã vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của
lịch sử và điều kiện hoàn cảnh Việt Nam. Đó là bằng mọi giá phải giành
19


PH. Ăng ghen;’ chống Đuy-rinh, nhà xuất bản sự thật, Hà Nội 1971, trang 36.


19

cho được độc lập, phải thay thế xã hội thối nát nửa thực dân phong kiến
bằng một xã hội mới và chúng ta đã thực hiện bước quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Song vấn đề bỏ
qua ở đây được hiểu là chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với tính
cách là một xã hội bóc lột, xã hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng kế thừa và tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng
sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đồng thời từng bước xây dựng và
hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài và phức tạp, có sự
đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa tư bản, cho nên phải có quan điểm, hình thức, bước đi, sự kế
thừa của phủ định biện chứng với tính chất quá độ.
Đại hội X của Đảng xác định: đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa,
có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng
ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia;

chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là sự chuyển hóa của các
mặt đối lập trong quy luật phủ định của phủ định phù hợp với tình hình
thực tiễn của cách mạng nước ta đã được lịch sử lựa chọn.


20

Trong xây dựng quân đội cần tính đến những đặc điểm của phủ định
biện chứng. Trước hết, đó là sự phủ định của cái mới đối với cái cũ trên cơ sở
vì lợi ích của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thứ hai,
tốc độ và quy mô của quá trình phủ định biện chứng trong xây dựng quân đội
phụ thuộc trực tiếp vào trình độ phát triển của sản xuất và khoa học công
nghệ. Thứ ba, quá trình phủ định biện chứng trong xây dựng quân đội dựa
trên cơ sở sự nhận thức và tính toán của các chủ thể về cuộc chiến tranh tương
lai. Thứ tư, chu kỳ thay thế cái cũ bằng cái mới của quá trình phủ định biện
chứng trong xây dựng quân đội ngày càng rút ngắn.
Như vậy, trong quá trình vận động của một mâu thuẫn sự chuyển hóa
của các mặt đối lập chỉ xảy ra với những điều kiện nhất định, chứ không phải
lúc nào cũng có sự chuyển hóa. Những điều kiện đó chín muồi khi sự đấu
tranh giữa hai mặt đối lập lên tới điểm nút, nghĩa là chỉ ở giai đoạn cuối cùng
của mâu thuẫn mà thôi. Khi hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, là lúc mâu
thuẫn được giải quyết. Trong quá trình đấu tranh của hai mặt đối lập, lúc đầu
là sự thay đổi về lượng, khi lượng đạt tới điểm nút, đạt tới điều kiện chín
muồi thì hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, sự vật thay đổi nhảy vọt về
chất. Ở đây có hai hiện tượng chuyển hóa xảy ra: Một là, hai mặt đối lập của
mâu thuẫn trong sự vật cũ chuyển hóa lẫn nhau. Hai là, sự vật cũ chuyển hóa
thành sự vật mới, mâu thuẫn cũ được giải quyết, mâu thuẫn mới lại xuất hiện
với những mặt đối lập mới. Hiện tượng thứ nhất là nguyên nhân của hiện
tượng thứ hai. Như mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản diễn ra
trong một quá trình lâu dài, hai mặt đối lập đó đấu tranh lẫn nhau từ thấp đến

cao, nhưng chỉ đến khi cuộc đấu tranh trở thành quyết liệt, có điều kiện chín
muồi thì cách mạng vô sản mới xẩy ra. Khi đó hai giai cấp mới chuyển hóa
lẫn nhau, mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản mới được giải quyết. Hình thái
kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội


21

cộng sản chủ nghĩa. Trong xã hội mới lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Điều quan
trọng là cần phải phân biệt rõ hai sự chuyển hóa khác nhau đó.
Sự chuyển hoá giữa các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng
duy vật
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, nó
thường xuyên được bổ sung và làm phong phú thêm bằng những tri thức khoa
học và những phạm trù mới. Bởi lẽ, với tư cách là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, các phạm trù phải luôn vận động và phát triển tương ứng với
sự vận động, phát triển của thế giới khách quan. Chỉ có như vậy, chúng mới
phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và trở thành công cụ của nhận thức và
thực tiễn.
Cặp phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự
phản ánh những sự vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Việc thực hiện sự
chuyển hoá giữa cái chung, cái riêng được Lênin nói đến “sự chuyển hoá từ
cái riêng thành cái chung”. Người đã lấy ví dụ về những mệnh đề đơn giản
nhất như sau: “lá cây đều xanh; “Ivan là một con người”, “Giusơca là một con
chó”, v.v…thì ngay ở đó người ta đã thấy có phép biện chứng rồi. Phép biện
chứng duy vật khẳng định, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất tồn tại khách
quan và giữa chúng có mối liên hệ gắn bó với nhau.
Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật, trong điều kiện nhất
định cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá lẫn nhau. Bởi vì, trong hiện

thực cái mới thường nảy sinh trong lòng cái cũ dưới dạng đơn nhất và lúc đầu
không bao xuất hiện đầy đủ, nó phải trải qua quá trình đấu tranh gay gắt với
cái cũ. Nhưng, theo quy luật phát triển nhất định cái mới sẽ chiến thắng cái cũ
và nó phát triển thành cái chung phổ biến. Trái lại, cái cũ lúc đầu thường là
cái chung phổ biến, nhưng càng về sau nó vận động không phù hợp với điều


22

kiện mới nên mất dần đi cái vai trò của nó và trở thành cái đơn nhất. Sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa cái đơn nhất và cái chung phản ánh quá trình phát
triển của sự vật theo chu kỳ phủ định biện chứng theo con đường “xoáy ốc”
tiến lên phía trước. Do đó, trong cuộc sống con người phải luôn học hỏi để có
hiểu biết thực tiễn và tri thức lý luận. Nếu không nắm được những nguyên lý
chung (lý luận) thì sẽ rơi vào hoạt động mò mẫm, mù quáng. “người nào bắt
tay vào những vấn đề riêng, - V.I. Lênin viết, - trước khi giải quyết những vấn
đề chung, thì kẻ đó trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải”
những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải
những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách
của mình đến chỗ những sự giao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên
tắc”20. Trong thực tiễn, con người cần chủ động nhạy bén phát hiện cái đơn
nhất (cái mới) và tạo điều kiện cho cái đơn nhất (cái mới) phát triển thành cái
chung phổ biến. Đồng thời, biến cái chung (tiêu cực, lạc hậu) thành cái đơn
nhất. Như vậy, sự chuyển hoá giữa cái chung thành cái riêng và cái riêng
thành cái chung trong cặp phạm trù Chung - Riêng cũng thể hiện mối quan hệ
biện chứng giữa các mặt đối lập. Đó là sự chuyển hoá liên tục không ngừng
biến đổi.
Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
Nhận thức về sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật,

hiện tượng mới và do vậy phát hiện ra mối liên hệ nhân quả. Trong hiện thực,
nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau và trong
điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau. Nguyên nhân là cái
sinh ra kết quả nên luôn có trước kết quả; sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh
hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân, kết
quả có tính tương đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là
20

Lênin toàn tập, tập 15. Nxb. Tiến bộ, Mácxcơva, tr. 437.


23

nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên
chuỗi nhân- quả vô tận. Ăngghen nhận xét: “Nguyên nhân và kết quả là
những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng
vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu
trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới
thì những khái niệm ấy vẫn gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau trong một
khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó
nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hay lúc
này là nguyên nhân, thì ở chỗ khác lại trở thành kết quả, và ngược lại”21. Như
vây, chuỗi quan hệ nhân - quả trong thế giới là vô cùng vô tận, không có khởi
đầu và không có kết thúc. Chúng ta chỉ có thể biết được chúng bằng cách xác
định quan hệ cụ thể với điều kiện lịch sử cụ thể.
Cặp phạm trù nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức luôn thống nhất, gắn bó với nhau trong suốt quá
trình tồn tại và phát triển của sự vật; mối liên hệ giữa nội dung và hình thức rất
phong phú và sinh động. Trong đó một nội dung có thể được thể hiện dưới nhiều
hình thức và một hình thức cũng có thể chứa đựng nhiều nội dung khác nhau; nội

dung quyết định hình thức, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động
trở lại nội dung. Vì vậy, trong hoạt động của con người không được tách rời, càng
không được đối lập giữa nội dung và hình thức; cần phải chủ động sử dụng một
cách sáng tạo các loại hình thức để thực hiện nhiệm vụ của thực tiễn; phải căn cứ
vào nội dung để lựa chọn hình thức cho phù hợp và đồng thời phải luôn tạo điều
kiện để hình thức phát triển, phù hợp với nội dung, thúc đẩy nội dung phát triển.
Vì vậy, việc nhận thức nội dung và hình thức gắn liền với việc nghiên
cứu các yếu tố quy định sự tồn tại của sự vật và phương thức tồn tại của nó.
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng;
21

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 20, Nxb, CTQG, Hà Nội, 1994, tr.38.


24

là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật,
hiện tượng. Nội dung và hình thức cũng luôn có sự chuyển hoá lẫn nhau.
Nhưng không phải là nội dung trở thành hình thức, nghĩa là nội dung mất đi
để hình thức ra đời hay ngược lại. Trong hiện thực khách quan nội dung và
hình thức là hai mặt không thể tách rời của một sự vật hay hiện tượng. Tuỳ
theo từng mối liên hệ mà xác định mặt nào là nội dung, mặt nào là hình thức.
Ví dụ: Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung,
quan hệ sản xuất là hình thức. Nhưng trong mối quan hệ cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng thì quan hệ sản xuất tức cơ sở hạ tầng lại là nội dung được
phản ánh vào trong những hình thái ý thức xã hội . Lênin đã viết: “đấu tranh
của nội dung với hình thức và ngược lại. Vứt bỏ hình thức, cải tạo nội
dung”22. Ở đây có sự chuyển hoá của nội dung và hình thức với ý nghĩa là nội
dung phát triển đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn với hình thức cũ lúc

này đã trở thành lỗi thời và lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nội dung. Để
nội dung phát triển đòi hỏi phải vứt bỏ hình thức cũ và thay bằng hình thức
mới phù hợp với nó. Như vậy, hình thức cũ được thay bằng hình thức mới và
nội dung cũng không còn giữ nguyên như cũ mà nó được cải tạo trở thành nội
dung mới. Sự chuyển hóa được thực hiện thông qua sự biến đổi không ngừng
của nội dung dẫn đến sự thay đổi hình thức theo cho phù hợp.
Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Khi có được nhận thức tương đối đầy đủ về những mặt, những mối liên
hệ tất yếu và những đặc tính riêng của sự vật, thì nhận thức đó vẫn chưa vươn
tới sự phản ánh đầy đủ về sự vật. Để nhận thức đúng sự vật, từ các hiện tượng
phong phú, nhiều vẻ, con người tiếp tục đi sâu nghiên cứu bản chất của sự
vật. Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là những biểu hiện bê ngoài, bên ngoài của sự vật.
22

Lê nin toàn tập, tập 29 nhà xuất bản tiến bộ Mát-xcơ-va, 1981, tr. 240.


25

Về sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong phạm trù bản chất và hiện
tượng, Lênin đã khẳng định “…phép biện chứng là nghiên cứu sự đối lập của
vật tự nó, của bản chất…từ hiện tượng…( ở đây cũng vậy, chúng ta thấy sự
chuyển hóa, sự tràn cái nọ sang cái kia ( chúng tôi nhấn mạnh-NTD ): bản
chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất )”23.
Bản chất và hiện tượng có thể chuyển hoá lẫn nhau. Bản chất hiện ra, tràn
ra hiện tượng, xâm nhập vào hiện tượng; còn hiện tượng không tách rời bản chất,
có tính bản chất. Sự chuyển hóa của bản chất và hiện tượng không có nghĩa là
bản chất trở thành hiện tượng và ngược lại. Bản chất không ẩn kín ở bên trong

sự vật một cách thần bí mà bao giờ nó cũng bộc lộ ra bên ngoài hiện tượng. Hiện
tượng không tách rời với bản chất, mà bao giờ nó cũng là hiện tượng của một
bản chất nhất định. Đó là, mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng trong hiện
thực khách quan. Về mặt nhận thức chúng ta có thể nói tư duy của con người đi
từ hiện tượng đến bản chất, thông qua hiện tượng mà tìm ra bản chất của sự vật.
Như vậy, cũng có thể gọi là sự chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng nhưng
chỉ ở trong quá trình nhận thức mà thôi. Nhiệm vụ của nhận thức, nhất là nhận
thức khoa học là phải tìm ra bản chất, quy luật của sự vật. Để tìm ra bản chất,
quy luật của sự vật chúng ta phải nghiên cứu nhiều hiện tượng để tiếp cận tới
bản chất, từ bản chất cấp một đến bản chất cấp hai… Lênin nhấn mạnh: “Tư
tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai, v.v…cứ như thế
mãi”24.
Cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
Trong khi phản ánh hiện thực khách quan, con người nhận thức được
tính không một nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau
của sự vật, hiện tượng nên phân chia chúng thành nhóm các mối liên hệ nhất
23
24

Sđ d, tập 29, tr. 267-268.
Sđ d, tập 29, tr.268.


×