Tải bản đầy đủ (.pdf) (277 trang)

Luận văn Nghiên cứu truyện dân gian Khmer nam bộ dưới góc nhìn bối cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.69 MB, 277 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỤC LỤC........................................................................................................1
DẪN NHẬP......................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................
3. Lịch sử vấn đề...............................................................................................
3.1. Nghiên cứu VHDG theo bối cảnh ở Việt Nam – những ứng dụng
khởi đầu...........................................................................................3
3.2. Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ - cái nhìn tổng quan..12
3.2.1. Các công trình về văn hóa...................................................12
3.2.2. Các công trình về VHDG....................................................14
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................
6. Đóng góp của luận án..................................................................................
7. Bố cục của luận án.......................................................................................
NỘI DUNG.....................................................................................................32
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ LÍ THUYẾT VÀ ỨNG DỤNG TRONG
NGHIÊN CỨU TRUYỆN DÂN GIAN DƯỚI GÓC NHÌN BỐI
CẢNH...........................................................................................32
1.1. Nghiên cứu truyện dân gian theo văn bản - những điều nhìn lại..............
1.1.1. Văn bản truyện dân gian nghiên cứu theo hướng ngữ văn............34
1.1.2. Văn bản truyện dân gian nghiên cứu theo type và motif..............39
1.2. Nghiên cứu folklore trong bối cảnh – khuynh hướng mới ở phương
Tây...........................................................................................................


1.2.1. Chuyển hướng trong định nghĩa về folklore.................................44


1.2.2. Sự đa dạng trong hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu
folklore..........................................................................................50
1.2.3. Một cách hiểu về tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu Văn học dân
gian................................................................................................58
1.3. Nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh – những vấn đề về
phương pháp tiếp cận..............................................................................
1.3.1. Sự thay đổi trong thu thập và ghi chép tư liệu..............................68
1.3.2. Sự thay đổi trong nghiên cứu thể loại...........................................72
1.3.3. Sự thay đổi trong cách kiến giải....................................................76
Tiểu kết....................................................................................................81
Chương 2 KHÔNG GIAN VĂN HÓA TỘC NGƯỜI VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ VỀ TRUYỆN DÂN GIAN KHMER NAM BỘ..................83
2.1. Không gian văn hoá tộc người Khmer Nam Bộ.......................................
2.1.1. Đặc trưng tộc người và đặc điểm cư trú........................................84
2.1.2. Nét riêng trong tín ngưỡng và phong tục......................................87
2.2. Những vấn đề về phân loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ trong
nghiên cứu truyền thống..........................................................................
2.2.1. Phân loại theo đặc tính hình thức..................................................96
2.2.2. Phân loại theo chức năng lí giải lễ hội........................................104
2.3. Một cách hiểu về thể loại truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc
nhìn bối cảnh.........................................................................................
Tiểu kết..................................................................................................123
Chương 3 XÂY DỰNG CÁC CÔNG CỤ GHI NHẬN TRUYỆN DÂN
GIAN KHMER NAM BỘ TRONG BỐI CẢNH....................126
3.1. Kết cấu bối cảnh kể chuyện dân gian Khmer Nam Bộ...........................
3.1.1. Các yếu tố tạo bối cảnh kể chuyện..............................................126
3.1.2. Một số bối cảnh kể chuyện dân gian Khmer Nam Bộ................128


3.2. Việc tổ chức một cuộc điền dã để ghi nhận truyện kể trong bối cảnh

132
3.2.1. Quan niệm ghi chép điền dã theo nghiên cứu truyền thống........132
3.2.2. Chọn bối cảnh và chuẩn bị ghi chép...........................................135
3.2.3. Cách ghi chép trong nghiên cứu truyện dân gian trong bối cảnh137
3.3. Mô hình bản ghi chép dùng trong điền dã thu thập truyện dân gian
Khmer Nam Bộ.....................................................................................
Tiểu kết..................................................................................................161
Chương 4 MỘT CÁCH KIẾN GIẢI TRUYỆN DÂN GIAN KHMER
NAM BỘ DƯỚI GÓC NHÌN BỐI CẢNH..............................163
4.1 Cách thức kiến giải truyện dân gian trong bối cảnh..........................163
4.2. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh có sự kích thích ngẫu nhiên......167
4.2.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh......................................................167
4.2.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện.........................................................169
4.2.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện....................................................172
4.3. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh thương thảo của các thành viên
cộng đồng..............................................................................................
4.3.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh......................................................176
4.3.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện.........................................................180
4.3.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện....................................................183
4. 4. Kiến giải truyện kể trong bối cảnh lễ hội..............................................
4.4.1. Phân tích các yếu tố bối cảnh......................................................190
4.4.2. Mô tả diễn ngôn kể chuyện.........................................................193
4.4.3. Ý nghĩa của sự kiện kể chuyện....................................................197
Tiểu kết..................................................................................................199
KẾT LUẬN..................................................................................................202
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ................................205
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................207


I. Tiếng Việt...................................................................................................

II. Tiếng nước ngoài......................................................................................
PHỤ LỤC1
1. Sự tích lễ vào năm mới (Chol Chnam Thmay) của người Khmer........2
2. Sự tích bông cau trong lễ cưới của dân tộc khmer................................7
3. Bốn anh tài..........................................................................................11
4. Các câu chuyện xung quanh bàn rượu................................................20
5. Sự tích địa danh Chằng Ré..................................................................26
6. Những câu chuyện trong buổi thương thảo chuẩn bị đám cưới theo
truyền thống..................................................................................29
7. Truyện kể trong lễ cúng trăng (Ooc om booc)....................................46


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

VHDG

:

Văn học dân gian

KHXH&NV

:

Khoa học xã hội và Nhân văn

KHTN

:


Khoa học tự nhiên

ĐBSCL

:

Đồng bằng Sông Cửu Long

Nxb.

:

Nhà xuất bản

xb.

:

xuất bản

tr.

:

trang

Tp. HCM

:


thành phố Hồ Chí Minh

HN.

:

Hà Nội


1

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu VHDG Việt Nam đã có bề dày lịch sử, nhất là sau năm
1945, và đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong đó nổi bật là những công
trình khảo sát thể loại văn học dân gian ở các vùng miền trong nước và các
công trình lí thuyết đi sâu vào tổ chức, cấu trúc thể loại. Đối với lĩnh vực
nghiên cứu truyện dân gian, có thể thấy những kết quả đạt được chủ yếu dựa
trên hệ thống phương pháp tiếp cận truyền thống theo lối ngữ văn, nghĩa là
khảo sát qua văn bản. Tuy vậy, những phương pháp tiếp cận theo văn bản
truyền thống đối với VHDG ngày càng cho thấy nhiều “bất cập”, mà một
trong những điều còn thiếu thuyết phục là chưa chỉ ra được cấu tạo tác phẩm
VHDG trong môi trường sinh hoạt cụ thể để thấy được những nguyên tắc
hình thành và phát triển của nó trong lịch sử. Bởi lẽ bản chất của tác phẩm
VHDG chính là kết quả tương tác giữa yếu tố truyền thống với sinh hoạt đời
sống trong bối cảnh cụ thể. Ở đó, người ta vận dụng truyền thống vào hoàn
cảnh thực tại, qua tác phẩm, để sản sinh, tiếp nhận và lưu truyền vốn tri thức
của dân tộc mình. Do vậy, việc tìm một hướng đi khác để góp phần bổ sung
cho hệ thống phương pháp tiếp cận tác phẩm VHDG hiện có là việc làm cần
thiết.

Để hỗ trợ cho cách nghiên cứu truyền thống như đã nói, việc nghiên
cứu truyện dân gian theo vùng văn hoá và tộc người là một hướng tiếp cận
khoa học. Trên thực tế ở Việt Nam, nhiều người đã thực hiện theo hướng này
và khai mở được một số vấn đề mới trong thời gian gần đây, trong đó có
VHDG của người Khmer Nam Bộ. Mặc dù vậy, những công trình sưu tầm
trước đây khi thực hiện thường ghi lại văn bản, đặc điểm về người kể, địa


2

điểm, thời gian ghi nhận là chính. Các luận văn, luận án và cả những công
trình khoa học khác thường cũng chỉ dừng lại ở góc độ hệ thống các văn bản,
bổ sung thêm tư liệu ở địa phương và khảo sát dưới góc độ thi pháp. Công
bằng mà nói, khi vận dụng yếu tố văn hoá vùng và tộc người hay khảo sát
theo phương pháp nhân học văn hóa, một số công trình cũng đã bước đầu
khảo sát sự diễn hoá của tác phẩm VHDG trong những môi trường văn hoá cụ
thể. Cách làm này đã mang đến một số nhận thức có ý nghĩa khoa học đáng
ghi nhận. Nhưng vận dụng lí thuyết nhân học văn hoá tiến tới quy chuẩn và
quy phạm hóa tác phẩm VHDG trong sinh hoạt thực tại vẫn là một thách đố
cho công tác nghiên cứu hiện nay theo khuynh hướng này. Ở một góc nhìn
khác, lí thuyết nghiên cứu folklore trong bối cảnh du nhập vào Việt Nam
tương đối muộn nên việc nghiên cứu lí thuyết và vận dụng vào thực tế vẫn
còn chỗ bất cập. Vì vậy, nghiên cứu truyện kể dân gian Khmer trong bối cảnh
còn giúp cho giới khoa học có thêm những góc nhìn khác về đời sống của loại
hình này cũng như những ưu điểm và giá trị mà nó mang lại.
Người Khmer ở Nam Bộ đã cộng cư với người Việt trong nhiều thế kỉ
với những mối quan hệ tiếp biến tương hỗ về mặt văn hóa lẫn kinh tế. Nét đặc
thù văn hóa của người Khmer Nam Bộ là một môi trường có khả năng nuôi
dưỡng và cung cấp khí quyển cho VHDG tiếp tục phát triển. Trong văn hóa
của người Khmer, nhiều khía cạnh của môi trường sinh hoạt và lao động vẫn

còn tương thích và giúp các thể loại VHDG phát triển. Hay nói cách khác,
sinh hoạt văn hóa độc đáo đã giúp người Khmer lưu giữ một bầu không khí có
khả năng tồn tại và phát triển cho các loại hình văn hóa dân gian, trong đó có
VHDG. Vì vậy, nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn
bối cảnh sẽ giúp cho việc nhìn nhận đúng bản chất của tác phẩm VHDG trong
quá trình hình thành và phát triển của nó. Để hiểu hơn về tộc người Khmer,
ngoài việc tìm hiểu các giá trị văn hóa qua di sản vật thể hữu hình thì việc tìm


3

hiểu các yếu tố phi vật thể có chức năng lí giải những sự kiện xã hội vốn có
cội rễ từ văn hóa là điều cần thiết. Từ đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tâm lí
dân tộc Khmer và có những ứng xử phù hợp về văn hóa cũng như những
chính sách kinh tế.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Từ việc tiếp cận, phân tích, đối chiếu và hệ thống hóa các lí thuyết
nghiên cứu folklore trên thế giới cũng như sự vận dụng ở Việt Nam theo
hướng xem VHDG là một quá trình, luận án đề xuất một hướng nghiên cứu
truyện kể dân gian trong bối cảnh và thực nghiệm khảo sát trên nguồn truyện
dân gian Khmer Nam Bộ. Với cách làm này, luận án muốn góp phần khắc
phục những điểm “bất cập” của các hướng tiếp cận truyền thống, dựa trên văn
bản thuần túy. Sự bổ sung hướng tiếp cận này có tác dụng làm tăng thêm tính
khoa học cho truyền thống nghiên cứu VHDG ở nước ta.
2.2. Qua việc tổ chức thực nghiệm phương pháp tiếp cận truyện dân
gian Khmer Nam Bộ dưới góc nhìn bối cảnh, luận án đưa ra một số nguyên
tắc tiếp cận tác phẩm truyện dân gian đặt trong môi trường sống cụ thể. Để
thấy được hiệu quả của phương thức tiếp cận mới, luận án sẽ thực hiện phân
tích, đối chiếu và rút ra những khái quát về hệ thống lí thuyết, những dự báo
về khả năng ứng dụng, các phương pháp tiếp cận và các kĩ thuật thu nhận từ

thực tế. Trên cơ sở hướng phân tích các yếu tố ngoài văn bản, luận án hi vọng
tiến tới quy phạm hóa các quy trình cho công tác nghiên cứu theo hướng này.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Nghiên cứu VHDG theo bối cảnh ở Việt Nam – những ứng dụng khởi đầu
Ở Việt Nam, từ đầu thập niên 60 của thế kỉ trước, việc nghiên cứu
VHDG có lưu ý đến hoàn cảnh diễn xướng hay bối cảnh văn hóa xuất phát từ
tính chất nguyên hợp của tác phẩm đã được xác định như là một yếu tố thuộc


4

bản chất của văn học dân gian. Trong các tài liệu về phương pháp nghiên cứu
văn hóa dân gian của Đinh Gia Khánh [65], Chu Xuân Diên [22] Nguyễn
Đổng Chi [16] và một số học giả khác [130] trong thập niên 60 của thế kỉ XX,
“nguyên hợp” cơ bản được lưu ý như là yếu tố thuộc tính khi xem xét sự sản
sinh, lưu hành và phát triển của VHDG; đồng thời nó cũng được đề cập đến
như một nguyên tắc khi vận dụng các phương pháp vào nghiên cứu thể loại.
Tuy nhiên vai trò thật sự của tính nguyên hợp chưa thật sự chi phối hoàn toàn
việc nghiên cứu VHDG vì các hướng nghiên cứu vẫn cơ bản dựa trên phương
pháp tiếp cận ngữ văn qua văn bản. Trong bối cảnh đó, có một vài đột phá
đáng lưu ý: trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam [65], các tác giả đã có
những phân tích về tính nguyên hợp, tính tập thể, môi trường sinh hoạt của
VHDG, tính nhiều chức năng, phương thức truyền miệng, mối quan hệ giữa
truyền thống và ứng tác của VHDG, … Trong những đặc điểm ấy, quá trình
hình thành, phát triển và thể hiện một tác phẩm VHDG được hệ thống hóa
bằng một nhãn quan rất khoa học và hiện đại. Theo đó, VHDG được sáng tác
bằng một cơ chế và phương pháp khác với văn học viết, được phổ biến bằng
một cách thức gắn liền với đời sống sinh hoạt và lao động, và được tồn tại
trong một hình thức có tính nguyên hợp nhiều yếu tố. Do đó VHDG vừa có
đặc tính nghệ thuật lẫn đặc tính xã hội rất đậm nét. Có những lúc, dựa trên

nguyên hợp, việc lí tưởng hóa các yếu tố bên ngoài văn bản được đẩy lên
thành những nhận định theo kiểu “nếu ví các diễn xướng phônclo như cá thì
môi trường sẽ là nước. Cá ra khỏi nước, cá chết” hay “loại trừ khâu diễn
xướng, tác phẩm VHDG chỉ còn là cái xác không hồn”,…. [dẫn theo 22,
tr.359]. Trên cơ sở tính nguyên hợp, các phương pháp như: hệ thống, tổng
hợp, nghiên cứu liên ngành, loại hình học trong VHDG … đều được xem như
những cách thức tiếp cận có hiệu quả. Tuy vậy, về cơ bản, tất cả các yếu tố
bên ngoài và bối cảnh văn hóa rộng lớn của VHDG vẫn không phải là đối


5

tượng nghiên cứu chính của VHDG, cái quan trọng vẫn là văn bản. Vì theo
Chu Xuân Diên:
Bởi vì xét bản chất của văn học dân gian, xét thành phần chủ
thể trong văn học dân gian thì cái hồn lại chính là ngôn từ dù nó
được bộc lộ ra bằng ngôn ngữ nói hay ngôn ngữ viết. Và như vậy
thì việc nghiên cứu văn bản văn học của tác phẩm văn học dân
gian không phải là nghiên cứu cái xác không hồn mà chính là
nghiên cứu cái hồn tồn tại trong thể xác của nó [22, tr.316].
Luận điểm vừa nêu trở thành một nguyên tắc cơ bản cho khuynh
hướng nghiên cứu chính trong suốt thế kỉ XX ở Việt Nam.
Việc xem xét bối cảnh như một phần không tách rời việc thể hiện tác
phẩm VHDG, hoặc xem hành động kể một câu chuyện là một đối tượng
nghiên cứu thì chỉ mới bắt đầu vào những năm 60 của thế kỉ XX ở Hoa Kì và
các nước phương Tây. Ở Việt Nam, hướng tiếp cận này bắt đầu vào những
năm cuối của thế kỉ XX qua một số công trình giới thiệu lí thuyết. Theo thời
gian, những phác họa ban đầu của bức tranh nghiên cứu theo hướng này dần
dần hiện ra như sau.
Trong hai năm 1999 và 2000, Nguyễn Thị Hiền đã công bố hai bài

viết có tính chất gợi mở cho hướng nghiên cứu bối cảnh: Quan niệm mới về
folklore và quá trình văn bản hóa folklore ở Hoa Kì [42] và Một số phương
pháp nghiên cứu folklore ở phương Tây [43]. Qua những phân tích sơ lược và
những nhận định bước đầu của tác giả, người đọc đã được tiếp cận một cách
khá rõ ràng và cụ thể về quan điểm nghiên cứu folklore như một quá trình
của ngành folklore Hoa Kì. Trong bài viết, tác giả đã giới thiệu những quan
điểm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa
dân gian Hoa Kì đương đại như Richard M. Dorson, Dan Ben-Amos, Alan


6

Dundes, Richard Bauman, Robert Goerges …. Theo đó, sự chuyển hướng cốt
lõi của nghiên cứu folklore thế giới đã chuyển từ nghiên cứu văn bản, xem
folklore là sản phẩm đã hoàn thành, tĩnh tại trên văn bản sang nghiên cứu
diễn xướng và bối cảnh, xem folklore là quá trình, là sự giao tiếp nghệ thuật.
Ở đấy, mối quan hệ giữa tiếp cận văn bản và tiếp cận diễn xướng được các
nhà folklore học quan niệm rằng: “khái niệm về phương pháp tiếp cận diễn
xướng mới có một ngụ ý sâu xa về văn bản hóa diễn xướng”[42, tr.92].
Năm 2001, trong hội thảo khoa học Một thế kỉ sưu tầm, nghiên cứu
văn hóa, văn nghệ dân gian, Chu Xuân Diên đã đề cập đến việc nghiên cứu
VHDG theo hướng tiếp cận bối cảnh như một vấn đề phương pháp luận qua
bài viết Nhìn lại một vài quan điểm lí thuyết và phương pháp nghiên cứu văn
hóa dân gian ở Việt Nam. Trong bài viết này, với một sự phân tích cụ thể và
đưa ra sự đánh giá thực tiễn, tác giả không chỉ nhìn nhận lại các phương
hướng và phương pháp nghiên cứu Văn hóa dân gian ở nước ta mà còn đề
xuất cách tiếp cận liên ngành đối với VHDG. Với cách tiếp cận liên ngành,
theo ông, việc tìm đến các phương pháp của các ngành dân tộc học, xã hội
học hay nhân học là điều cần thiết:
Trong cách tiếp cận như thế thì rõ ràng một vấn đề như văn

bản văn học dân gian chẳng hạn không còn đơn giản chỉ là vấn đề
“một cái xác không hồn”, vấn đề nghiên cứu bối cảnh của văn bản
văn học dân gian không chỉ đơn thuần là dựng lại “không khí sinh
động” để “tạo nên một cái duyên, cái phong cách” của nó, mà thực
chất là một vấn đề phương pháp luận có liên quan chặt chẽ với
những vấn đề phương pháp luận của nhiều phân ngành khoa học xã
hội và nhân văn khác như ngôn ngữ học xã hội, dân tộc học lời nói
(ethnography of speaking), …[22, tr.115, 116].


7

Năm 2005, với nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu, dịch thuật và học giả
nước ngoài, Viện nghiên cứu Văn hóa xuất bản hai quyển sách có tính “kinh
điển” về lí thuyết và phương pháp cho giới nghiên cứu folklore ở Việt Nam:
Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ bản và Folklore – một số
thuật ngữ đương đại do Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan chủ biên. Trong
lời nói đầu của các quyển sách, tính kinh điển đã thể hiện khá rõ ràng trong sự
bộc bạch mong muốn cung cấp cho người đọc các bài viết về nghiên cứu
folklore thế giới ở hai chiều: quá khứ với những công trình đã in dấu thời gian
và đương đại với những công trình hứa hẹn cho tương lai.
… bao gồm các bài viết đã hình thành nên quá trình tiến triển
và phát triển folklore trong hai thế kỉ qua và những bài viết đại diện
cho những khuynh hướng nghiên cứu mới mẻ và hứa hẹn nhất mới
xuất hiện trong vài thập kỉ gần đây [105, tr.7].
Với các tiêu chí lựa chọn vừa khoa học vừa thực tiễn, hai quyển sách
đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát và cơ bản về bức tranh
nghiên cứu folklore trên thế giới. Vốn được tuyển chọn có giới hạn và có mục
tiêu rõ ràng, những lí thuyết và thuật ngữ trong đó không chỉ mang đến cho
độc giả sự hiểu biết hệ thống về những phương pháp truyền thống mà còn giới

thiệu một cách đa dạng những hướng đi mới, nhiều tiềm năng. Trong phần thứ
4 và 5 của quyển Folklore thế giới – những công trình nghiên cứu cơ bản, các
nhà biên soạn đã giới thiệu 14 công trình có giá trị lí thuyết quan trọng, trong
đó tập trung nhiều vào hướng coi trọng thực tiễn, sự kiện diễn xướng, giao
tiếp nghệ thuật, và tính quá trình của folklore. Những bài viết ấy đã cung
cấp một hệ thống phương pháp quan trọng cho hướng tiếp cận theo bối cảnh
và diễn xướng.


8

Năm 2006, Trần Thị An đã giới thiệu hướng nghiên cứu của folklore
Hoa Kì qua bài viết Nghiên cứu Văn học dân gian ở Hoa Kì - một số quan sát
bước đầu [2]. Tác giả không chỉ khái quát về lịch sử nghiên cứu folklore ở
Hoa Kì với những sự thay đổi trong mối quan hệ với các ngành khoa học kế
cận mà còn chỉ ra sự thay đổi cơ bản hướng tiếp cận trong nghiên cứu
folklore. Theo đó, thay đổi quan trọng nhất là định hướng từ folklore tư liệu
(folklore-as-materials) sang folklore giao tiếp (folklore-as-communication),
từ cách tiếp cận lấy văn bản làm trung tâm (text-centered) đến lấy bối cảnh
làm trung tâm (context-centered). Những chuyển đổi đó đã dẫn đến sự thay
đổi về thuật ngữ và những cách hiểu mới về VHDG so với truyền thống như
là: nghệ thuật ngôn từ (verbal art), hành vi ngôn từ (verbal behaviour), cách
thức nói (the way of speaking) và nghệ thuật ngôn từ như là sự diễn xướng
(verbal art as performance). Phần kết luận bài viết vừa là một sự nhận xét có
tính đúc kết vừa là những gợi ý cho những vận dụng mới ở Việt Nam:
Nghiên cứu và giảng dạy folklore ở Hoa Kì hiện nay, vì vậy,
chủ yếu hướng tới các trường hợp cụ thể (case study) trong bối
cảnh diễn xướng cụ thể mà không đi sâu phân tích các văn bản như
là những đối tượng độc lập. Các trường hợp nghiên cứu cụ thể này
được dựa hoàn toàn vào những điều tra dân tộc học (ethnography

investigation) công phu và sự kết hợp lí thuyết liên ngành mà nhân
học hiện nay đang là một đại diện tiêu biểu, ở đó, kiến thức về văn
hoá học, dân tộc học và ngôn ngữ học trở nên những điều kiện tối
cần thiết với các nhà folklore học [2, tr.96].
Sau đó hai năm, với bài viết Nghiên cứu VHDG từ góc độ type và
motif – những khả thủ và bất cập [3], Trần Thị An tiếp tục bổ sung và làm rõ
hơn một số vần đề cho hướng nghiên cứu bối cảnh. Với mục tiêu đánh giá lại
phương pháp nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận ngữ văn, vốn lấy ngữ


9

học cấu trúc làm nền tảng và phương pháp so sánh làm bệ đỡ, tác giả không
những chỉ ra những ưu điểm và tính chất quốc tế của hướng tiếp cận cấu trúc
và thi pháp học mà còn cho thấy rõ những nhược điểm của hướng nghiên cứu
type và motif qua các tập tra cứu đồ sộ trên toàn thế giới. Để khắc phục
những nhược điểm đó, theo tác giả, hướng tiếp cận diễn xướng là một phương
cách thay thế có tính thực tiễn và nhiều triển vọng.
Năm 2011, trong bài viết Nghiên cứu VHDG và vấn đề văn bản [56],
Hồ Quốc Hùng, trên cơ sở nhận xét về những hạn chế của việc văn bản hoá
tác phẩm VHDG ở Việt Nam, đã đề xuất một góc nhìn "cần phải xem tác
phẩm VHDG dưới góc độ hành động ngôn từ chứ không chỉ dừng lại ở quan
niệm yếu tố ngôn ngữ thuần tuý trong văn bản". Bài viết tuy không nói rõ về
định hướng nghiên cứu theo bối cảnh và môi trường diễn xướng nhưng cách
đặt vấn đề lại tiếp cận với hướng nghiên cứu theo góc độ hành động ngôn từ một định hướng của việc nghiên cứu mà chúng tôi vừa dẫn ở trên. Theo đó,
hành động ngôn từ là loại hành động nặng về tính biểu diễn và tác động.
Cần phải xác định lại rằng văn bản VHDG là sự chuyển thể từ
diễn ngôn sang văn bản. Cho nên một diễn ngôn chỉ tương đương
với một trạng thái hành ngôn. Diễn ngôn VHDG chỉ là trạng thái
hành động ngôn từ cụ thể của cá nhân hình thành từ tương tác với

cộng đồng [56, tr.44].
Nhận định này tiệm cận với lí thuyết hành động ngôn từ trong nghiên
cứu văn học của J.L.Austin [6, tr.32], một trong những nền tảng quan trọng
của ngữ dụng học và là cơ sở có tính nền tảng cho hướng tiếp cận bối cảnh
trong nghiên cứu VHDG.
Đi theo một hướng gần với nghiên cứu bối cảnh, Tăng Tấn Lộc trong
công trình viết về đồng dao Vĩnh Long có một phần tiếp cận diễn xướng đồng


10

dao trong đời sống sinh hoạt. Theo tác giả, khái niệm “diễn xướng” vừa là
một loại hình nghệ thuật nguyên hợp của folklore vừa là một quá trình của đời
sống folklore và cũng là “hình thức giao tiếp nghệ thuật của cộng đồng” [75,
tr.83]. Trong phần tìm hiểu diễn xướng đồng dao, tác giả cho rằng có 02 loại
diễn xướng: không gắn với trò chơi và có gắn với trò chơi. Luận văn đã bước
đầu tiếp cận với thể loại đồng dao đặt trong một bối cảnh cụ thể để phát hiện
ra những nét mới trong cách ứng dụng của người dân ở một địa phương. Luận
văn này đã có những phân biệt bước đầu về khái niệm diễn xướng và ứng
dụng nó trong các loại hình có khả năng biểu diễn.
Đầu năm 2015, trong hội thảo về học giả - nhà văn Nguyễn Đổng Chi,
Hồ Quốc Hùng [57] đã công bố một bài viết về phương pháp nghiên cứu và tư
duy khoa học qua công tác sưu tầm và nghiên cứu VHDG của cây đại thụ
trong làng folklore học Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích và
đánh giá cao phương pháp sưu tầm điền dã của Nguyễn Đổng Chi và chỉ ra
mối liên hệ chặt chẽ giữa sưu tầm, phân loại và nghiên cứu trong nghiên cứu
VHDG. Nhiều luận điểm của bài viết cho thấy, quan niệm của Nguyễn Đổng
Chi nhìn tác phẩm như “một sự vận động”, “thu lượm bằng hết những gì nghe
và thấy một cách chính xác, khách quan” đã phản ánh cách nhìn của ông tiệm
cận với phương pháp của trào lưu bối cảnh dù thời điểm ấy trào lưu bối cảnh

của Mỹ chưa ra đời [57, tr.111]. Dù còn nhiều điểm khác biệt về nguyên tắc
tiếp cận, nhưng bài viết đã hé lộ những hướng đi của các học giả Việt Nam,
mà tiêu biểu là Nguyễn Đổng Chi, có bước tương đồng với thế giới về tiếp
cận bối cảnh trong nghiên cứu folklore. Chỉ có điều, cách suy nghĩ đó chỉ
dừng lại ở cá nhân mà chưa phát triển thành trào lưu rộng rãi như phương
Tây.
Về phương diện luận nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại
học hay học viện với sản phẩm là các luận văn luận án của học viên, đến nay,


11

một trong những công trình chính thức đi theo hướng tiếp cận bối cảnh đối
với VHDG có thể kể đến là luận văn thạc sĩ Tục ngữ trong văn học: một
trường hợp của nghiên cứu folklore trong bối cảnh [137] của Lê Thị Thanh
Vy. Đây là công trình học thuật đi theo hướng tiếp cận bối cảnh đối với việc
nghiên cứu tục ngữ trong văn học. Đối tượng chính của luận văn là những câu
tục ngữ trong tác phẩm văn học viết. Cách sử dụng của tục ngữ trong những
hoàn cảnh mà nhà văn miêu tả, cách tiếp nhận hay diễn giải ý nghĩa của
chúng mà nhân vật thể hiện và những cơ chế nào để một tục ngữ được sử
dụng như hành vi giao tiếp trong tác phẩm … là những vấn đề cốt yếu mà tác
giả quan tâm. Tác giả luận văn đã đưa ra những thao tác, những kĩ thuật thực
hiện theo hướng nghiên cứu mới. Theo đó, cơ cấu của mỗi loại bối cảnh sẽ
mang đến cho tục ngữ cách thức sử dụng, cách hiểu của những người tham
gia và tác động của nó trong diễn biến nhận thức của nhân vật, góp phần cho
người đọc hiểu thêm về đặc điểm tính cách của nhân vật trong tác phẩm. Bối
cảnh mà luận văn xem xét là những hoàn cảnh sử dụng của tục ngữ trong tác
phẩm văn học, đều là giả định, nghĩa là bối cảnh được mô phỏng từ đời sống,
được người viết tái hiện trong tác phẩm chứ chưa phải là bối cảnh thực tế.
Mặc dù vậy, luận văn đã có sự thể nghiệm bước đầu đối hướng tiếp cận mới

khá thành công, nó cung cấp những góc nhìn mới về ý nghĩa, cách sử dụng,
cơ chế sử dụng tục ngữ trong mối quan hệ giới tính, tuổi tác, … Và hơn hết,
nó gợi mở ý tưởng cho nhiều công trình khoa học khác.
Những công trình vừa nêu tuy còn khái quát nhưng đã cho thấy một
cách rõ ràng về tình trạng thưa thớt của việc nghiên cứu VHDG trong bối
cảnh ở Việt Nam. Hướng đi này đến nay cơ bản vẫn dừng lại ở mức độ giới
thiệu lí thuyết, còn sự vận dụng vào thực tế chỉ mới xuất hiện ở một số luận
án, luận văn với phạm vi chưa rộng. Điều đó cũng gián tiếp thừa nhận rằng,
dù nghiên cứu bối cảnh đã manh nha từ sớm, nhưng đến nay tiếp cận văn bản


12

ở Việt Nam vẫn là hướng chủ yếu trong nghiên cứu VHDG, nó cần nhiều sự
đầu tư hơn nữa để chuyển hướng. Song song đó, những khảo sát mang tính
tổng quan nêu trên còn cho thấy một nguyên lí: những vấn đề lí thuyết mới có
thể thay đổi cách nhìn đối tượng và có khả năng tạo ra những giá trị mới.
Nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận thành tựu từ những khuynh hướng đi
trước. Ngược lại, nó nhằm bổ sung hoàn thiện hơn quy trình nghiên cứu hiện
có về phương diện khoa học. Để có cơ sở làm rõ những hiệu quả của cách làm
mới thì việc nhìn nhận những gì mà cách làm truyền thống đã gặt hái được
cũng là điều cần thiết. Sau đây, chúng tôi xin nhìn lại quá trình nghiên cứu đó
qua việc nhìn nhận trên thực tế nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ
trong truyền thống.
3.2. Nghiên cứu truyện dân gian Khmer Nam Bộ - cái nhìn tổng quan
3.2.1. Các công trình về văn hóa
Văn hóa tộc người Khmer Nam Bộ đã được giới nghiên cứu quan tâm
từ rất sớm và đặc biệt nở rộ sau năm 1975. Từ nhiều cuộc hội thảo khoa học,
các công trình của các nhà dân tộc học, và từ các luận án-luận văn ở các
trường đại học, đặc điểm văn hóa Khmer Nam Bộ đã dần dần được bóc tách ở

nhiều phương diện giúp ta nhìn thấy nhiều chiều kích phong phú. Nếp sinh
hoạt đời thường, phong tục tập quán, tín ngưỡng lễ hội, và sự biến đổi trong
quá trình phát triển giao thoa với các tộc người khác là những kết quả thu
được từ công tác nghiên cứu nêu trên. Trong bộn bề những đặc điểm được
phát hiện, văn hóa dân gian Khmer được nhìn nhận ở hai góc độ:
Thứ nhất, nhiều công trình có mục đích giới thiệu cho người Việt và
các nhà quản lí xã hội hiểu về đặc trưng văn hóa Khmer nhằm xây dựng chính
sách quản lí đúng đắn, phù hợp, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho
tộc người này. Ở góc nhìn này, VHDG chỉ hiện diện như một yếu tố của lĩnh


13

vực văn hóa tinh thần rộng lớn, thường được nhắc đến và điểm qua như một
mảnh ghép của một bức tranh phức tạp và phong phú, thậm chí trong một số
trường hợp, bị lãng quên giữa hàng loạt các bộ môn nghệ thuật khác. Văn hóa
trong các công trình này được nhìn nhận là tổng thể các loại hình sáng tạo dân
gian, thường được gọi chung là văn hóa – văn nghệ (gồm múa, nhạc, sân
khấu, văn học và mĩ thuật). Tuy nhiên, vị trí của văn học vẫn rất khiêm tốn so
với các loại hình còn lại. Trong quyển Vài nét về người Khmer Nam Bộ, tác
giả trình bày những tri thức về người Khmer trong khoảng 450 trang in,
nhưng văn học dân gian chỉ chiếm gần 7 trang [19, tr.194-201]. Tương tự,
trong suốt 300 trang sách viết về vốn văn hóa vùng đất Nam Bộ do Viện Văn
hóa thực hiện, VHDG Khmer chỉ được trình bày trong khoảng 01 trang giấy
[128, tr.256], điều đó cũng đủ thấy vị trí của nền văn học này trong tổng thể
văn hóa vùng được tìm hiểu giản đơn đến mức nào. Thậm chí trong quyển
sách gần đây nhất -Văn hóa Khmer Nam Bộ - nét đẹp trong bản sắc văn hóa
Việt Nam [40] - các tác giả đã không dành bất cứ phần nào nói về VHDG của
người Khmer.
Thứ hai, một số công trình nghiên cứu sâu vào các lĩnh vực cụ thể của

đời sống văn hóa (nhân chủng, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội, …) với mục
đích là có cái nhìn rõ ràng và chi tiết hơn về các khía cạnh văn hóa để làm cơ
sở đề xuất các chủ trương an sinh xã hội phù hợp. Thuộc nhóm này có các tài
liệu: Người Việt gốc Miên [60], Phum sóc Khmer ở đồng bằng Sông Cửu
Long [11], Vài nét về người Khmer Nam Bộ [19], Vấn đề dân tộc ở Đồng
bằng Sông Cửu Long [31], … Trong những công trình này, dù dưới nhiều mục
đích khác nhau, các câu chuyện dân gian Khmer vẫn xuất hiện với tư cách là
những luận cứ giải thích cho các vấn đề thuộc về văn hóa hay dân tộc học.
Truyện dân gian, dưới dạng này hay dạng khác, là minh chứng và giải thích
cho nhiều nét sinh hoạt văn hóa và phong tục tập quán của người Khmer.


14

Chẳng hạn trong phần viết về lễ hội của người Khmer, các nhà nghiên cứu
cho rằng lễ hội thường gắn với truyền thuyết đậm chất Phật giáo, “dù ngày
nay truyền thuyết trở nên không còn quan trọng” [76, tr.74] nhưng lễ tiết thì
vẫn bắt buộc phải diễn ra. Điều này có nghĩa là yếu tố tinh thần của lễ hội vốn
nằm trong truyền thuyết dân gian có thể bị lược bỏ hoặc xem nhẹ vì nó không
đóng vai trò chính. Tương tự như vậy, ở một số lễ hội khác, truyền thuyết là
công cụ tinh thần để lí giải chứ không phải là yếu tố chính để người ta trao lại
cho đời sau. Những luận điểm khoa học của các công trình đó là những gợi ý
cho luận án này về mặt đối chiếu, so sánh với những gì diễn ra trong thực
tiễn.
3.2.2. Các công trình về VHDG.
VHDG Khmer Nam Bộ được nghiên cứu, sưu tầm dựa trên hướng tập
trung vào tư liệu và có thời gian bắt đầu muộn hơn so với VHDG các dân tộc
thiểu số khác. Ở miền Bắc, từ sau 1945, chiến tranh xảy ra liên tục, việc sưu
tầm gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam,
Nguyễn Đổng Chi có trích dẫn ở dạng dị bản một số truyện của người Khmer

để làm cơ sở so sánh cho các truyện của người Việt nhưng phần lớn những tác
phẩm đó có nguồn gốc từ truyện của người Khmer ở Campuchia nhiều hơn là
người Khmer Nam Bộ. Tư liệu về VHDG Khmer Nam Bộ trước năm 1975
chủ yếu có được từ nguồn sách vở của các nhà nghiên cứu người Pháp. Theo
Trường Lưu [76], những tên tuổi như Barrault, Francois Martine, Louis
Malleret, Georges Máspero ... và các tạp chí France-Asia, Extrême-Asia ... là
những người quan tâm đến văn hoá người Khmer thông qua nhiều tài liệu
điều tra dân tộc học và các bài báo viết về tộc người này. Tuy nhiên các tài
liệu nêu trên thường không phân biệt giữa người Khmer ở Campuchia và
người Khmer ở Nam Bộ, đồng thời cách nghiên cứu “chỉ mới ở dạng suy luận


15

và phỏng đoán trên cơ sở tư liệu chưa được xử lí một cách nghiêm túc lắm”
[76, tr.8].
Cuốn Người Việt gốc Miên của Lê Hương có thể xem là một trong
những quyển sách viết về người Khmer ở Nam Bộ khá cơ bản và có giá trị
tham khảo tốt. Trong phần viết về “Văn hoá – Giáo dục”, tác giả dành 24
trang viết cho VHDG ở hai nhóm thể loại: tục ngữ-cách ngôn-ca dao và
truyện truyền kì-dân gian. Sau một số phần giới thiệu về đặc điểm của các
thể loại, tác giả ghi lại 17 truyện kể, trong đó có 01 truyện truyền kì Bà La
Môn, 01 truyện Phật giáo và 03 truyện dân gian [60]. Cách tiếp cận của Lê
Hương đối với truyện dân gian Khmer được tiến hành theo kiểu: lấy truyện để
lí giải phong tục, lấy chi tiết thuyết minh cho sự kiện, lấy nội dung truyện kể
để làm sáng tỏ trình tự lễ nghi. Cách làm đó buộc tác giả chỉ được phép tóm
lược nội dung truyện kể để đảm bảo chức năng giải thích và chứng minh. Tuy
vậy, khi bao quát toàn bộ tài liệu thì người đọc sẽ thấy nguyên tắc ấy không
được duy trì triệt để: một số truyện được miêu tả kĩ, một số truyện khác thì
đơn giản. Từ cách nghiên cứu của Lê Hương, việc xem xét truyện dân gian

với chức năng của nó trong hoàn cảnh cụ thể đã được lưu ý từ sớm nhưng
chưa thành hệ thống và chưa có nhiều thao tác thực hiện.
Trong lời giới thiệu cho cuốn Truyện cổ Khơ me Nam Bộ, tác giả
Huỳnh Ngọc Trảng đánh giá:
Trước cách mạng tháng Tám 1945, những tập sách hay bài
nghiên cứu về đồng bào Khơ me Nam Bộ có đề cập đến các mặt
lịch sử, văn hóa, khảo cổ học, dân tộc học, … nhưng phần thực sự
gọi là VHDG thì chưa có gì đáng kể ngoài việc đưa ra một số
truyền thuyết còn hạn hẹp…Dưới thời thống trị của chủ nghĩa thực
dân mới, vấn đề sưu tầm và nghiên cứu VHDG Khơ me Nam Bộ


16

cũng không được chú ý. Rải rác đây đó, trên các tạp chí xuất bản ở
Sài Gòn, người ta thỉnh thoảng bắt gặp đôi chuyện kể Khơ me Nam
Bộ được giới thiệu một cách tình cờ, tùy tiện [114, tr.3].
Nhận định trên cho thấy nửa đầu thế kỉ XX về trước, việc nghiên cứu
VHDG Khmer Nam Bộ ít được tập trung đầu tư và các hướng nghiên cứu
thường tập trung vào các tư liệu đã được văn bản hoá ít chú trọng điền dã,
hoặc chưa để ý nhiều đến việc nghiên cứu VHDG mà nặng về văn hóa lịch
sử.
Sau khi đất nước thống nhất, công tác sưu tầm và tập hợp các nguồn
truyện dân gian Khmer mới thực sự phát triển theo hướng folklore tư liệu, tức
là dựa trên những văn bản ghi lại lời nói, lời kể của những cuộc điền dã. Phần
lớn các văn bản có ghi tên, tuổi, địa điểm cư trú của người cung cấp nhưng
không mô tả hoàn cảnh diễn xướng. Cụ thể, nhà văn Anh Động [30] sưu tầm
và giới thiệu 08 truyện; Huỳnh Ngọc Trảng với tuyển tập Truyện dân gian
Khơ Me Nam Bộ (2 tập) [114] đã đặt những cơ sở cho việc nghiên cứu VHDG
Khmer sau này. Với 124 truyện kể các loại và một bài viết giới thiệu khái quát

đặc điểm truyện dân gian Khmer, tuyển tập là sự tổng hợp từ kết quả sưu tầm
ở một số tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL. Trong đó, tác giả có ghi rõ người kể, địa
chỉ, tuổi tác và có những dị bản xoay quanh một câu chuyện. Đây là công
trình có tính khởi đầu cho khuynh hướng nghiên cứu chuyên sâu về truyện
dân gian Khmer Nam Bộ. Sau tác giả này, các công trình về VHDG Khmer ở
các địa phương, do các trường đại học khu vực phía Nam chủ trì, đã tiến hành
điền dã, sưu tầm và văn bản hóa với số lượng tác phẩm VHDG khá phong phú
và đa dạng. Sản phẩm của các đợt điền dã sưu tầm đã được in thành sách, tiêu
biểu có: VHDG Đồng bằng Sông Cửu Long [69]; VHDG Sóc Trăng [24],
VHDG Bạc Liêu [25], Tích xưa về người Khmer ở Sóc Trăng [117], ... Ngoài
ra còn một số tài liệu sưu tầm của Hội Văn học -Nghệ thuật các tỉnh thành


17

trong khu vực nhưng vẫn còn ở dạng bản thảo. Điểm chung của nhóm công
trình này là sưu tầm và giới thiệu nguồn truyện hiện tồn trong đời sống, có kết
hợp với việc ghi lại tên tuổi, nghề nghiệp của người kể và địa điểm sưu tầm.
Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của hướng nghiên cứu trước nay vẫn là sự tổng
hợp và chuyển thành văn bản để công bố dưới dạng các tập tài liệu và sách
xuất bản. Theo Phạm Tiết Khánh, đến năm 2007, đã có 195 bản kể các thể
loại thần thoại, truyền thuyết và cổ tích Khmer [68, tr.11]. Sau năm này, một
số công trình tiếp tục việc sưu tầm theo thể loại: luận văn Giá trị văn hóa
thực tiễn của truyện cười dân gian Khmer Nam Bộ [71] có tổng hợp được 100
truyện cười Khmer. Tiền Văn Triệu sưu tầm và giới thiệu 42 truyện dân gian
Khmer in trong quyển Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng [117]. Luận văn
Đặc điểm truyện ngụ ngôn Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long [112] có tổng
hợp được 54 truyện ngụ ngôn. Qua đó, có thể thấy vấn đề tìm hiểu truyện dân
gian Khmer Nam Bộ trong thế kỉ XX còn dừng lại ở dạng sưu tầm và biên
soạn; có nghiên cứu bước đầu ở mức độ khái niệm và một vài đặc điểm về thi

pháp dựa trên việc văn bản hoá tài liệu sưu tầm. Mặc dù vậy, số lượng các
công trình nghiên cứu VHDG Khmer còn khiêm tốn so với nhiều tộc người
khác. May mắn thay, đặc điểm cuối trong những năm gần đây đã được khắc
phục bằng việc các luận án, luận văn đã dần hướng về các đề tài về nguồn
VHDG Khmer Nam Bộ.
Liên quan đến nhóm các tài liệu xuất bản còn có nhóm công trình ở
dạng tuyển tập, tổng tập VHDG như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam - Văn học
dân tộc ít người [12]; Ngụ ngôn các dân tộc thiểu số Việt Nam [39]; Tuyển tập
Văn học dân gian Việt Nam (tập 3) [133]; Tổng tập văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam [132] … Do tính chất “tuyển” và “tổng” của các công trình dạng
này nên cách tiếp cận chủ yếu của các tác giả là tập hợp từ nhiều tài liệu đã
xuất bản và một số tài liệu sưu tầm. Với mục đích phân loại và lưu trữ,


18

phương pháp xử lí của những người làm tổng tập là đặt ra một số tiêu chuẩn
mang tính kĩ thuật để lấy đó làm nguyên tắc tuyển lựa. Giá trị tham khảo và
tra cứu là đặc trưng cho nhóm tư liệu này.
Bên cạnh các tài liệu bằng tiếng Việt, NXB Giáo dục có ấn hành bộ
truyện cổ Khmer dạng song ngữ. Đây là dạng tài liệu biên soạn để giảng dạy
cho học sinh người dân tộc trong các trường phổ thông ở các địa phương có
người Khmer sinh sống. Loại tài liệu này lấy các truyện dân gian đã được lưu
truyền để biên soạn với hình thức song ngữ Khmer-Việt. Do cách tư duy của
người biên soạn song ngữ, có những điểm khác biệt so với cách kể bằng tiếng
Khmer hay kể bằng tiếng Việt, nên phần văn bản các truyện này có đôi chỗ
thiếu tự nhiên khi hành văn. Tiêu biểu cho dạng này là công trình Chuyện kể
Khmer (5 tập) của các tác giả Lâm Es, Sơn Phước Hoan, Trần Chinh, Trần
The, Sơn Ngọc Sang, Sơn Wang, Lâm Xai, Thạch Xarat [32, 52, 53, 138]. Với
106 truyện dân gian đủ các thể loại, trong đó truyện về loài vật và truyện ngụ

ngôn chiếm số lượng cao, tuyển tập này cho thấy nỗ lực của các bậc trí thức
Khmer trong việc bảo tồn và phổ biến vốn truyện dân gian của tộc người
mình cho thế hệ sau. Do đối tượng đọc sách là học sinh và yêu cầu giáo huấn
trong nhà trường nên có một số chuyện không phải là truyện kể dân gian mà
chỉ là những mẩu tin ngắn mang tính thời sự trên báo chí viết về lễ hội và
gương người tốt việc tốt cũng được đưa vào.
Bên cạnh việc sưu tầm thì việc nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ
cũng là vấn đề đáng quan tâm. Đến nay, việc nghiên cứu VHDG người Khmer
trong các công trình học thuật chưa thật sự nhiều. Đối với luận văn thạc sĩ,
nghiên cứu VHDG Khmer và truyện kể Khmer đã được thực hiện trong một
số trường đại học. Trong sự hiểu biết của mình, chúng tôi đã tiếp cận một số
công trình nghiên cứu về một thể loại VHDG người Khmer, hoặc khảo sát
nguồn truyện dân gian của một vùng, một lĩnh vực đời sống có liên quan đến


19

ý nghĩa và giá trị của truyện kể, có thể kể đến như: Khảo sát nguồn truyện
dân gian Khmer Nam Bộ [123], Giá trị văn hoá thực tiễn trong truyện cười
dân gian Khmer Nam Bộ [71], Đặc điểm truyện ngụ ngôn Khmer ở Đồng
bằng Sông Cửu Long [112], Cổ tích Khơ me ở đồng bằng Sông Cửu Long
[126]…Nhóm các nghiên cứu này đã góp phần xác định các giá trị của nguồn
truyện dân gian Khmer dưới góc độ văn bản và tiếp cận theo hướng thi pháp.
Một số công trình đi sâu vào tìm hiểu kĩ một thể loại và bước đầu đã có
những hướng đi theo phương pháp đặt tác phẩm vào bối cảnh. Điểm chung
các công trình nêu trên là đã tìm hiểu các thể loại truyện dân gian dựa trên
văn bản, nêu được đặc điểm cơ bản thi pháp các thể loại cổ tích, truyện cười
và ngụ ngôn Khmer. Phát hiện cơ bản của những công trình trên cũng thừa
nhận yếu tố văn hóa tộc người và văn hóa mang đậm màu sắc Phật giáo đã chi
phối mạnh mẽ kết cấu lẫn ý nghĩa của các thể loại truyện kể.

Về luận án tiến sĩ, trong tư liệu chúng tôi khảo sát được, đến nay, công
trình Khảo sát truyện kể dân gian Khơ me Nam Bộ (Thần thoại – Truyền
thuyết – truyện cổ tích) của Phạm Tiết Khánh công bố năm 2007 [68] là luận
án duy nhất viết về truyện dân gian Khmer Nam Bộ. Trong công trình này, tác
giả bước đầu đã hệ thống lại nguồn truyện dân gian Khmer ở Nam Bộ, sưu
tầm thêm một số tác phẩm ở Trà Vinh, Sóc Trăng, đi đến nhận xét đánh giá để
rút ra những đặc điểm chính của các thể loại thần thoại, truyền thuyết và cổ
tích. Luận án đã đi vào xem xét thể loại (thần thoại, truyền thuyết, cổ tích)
bằng cách dựa trên văn bản để phân tích và so sánh đối chiếu 195 bản kể.
Phương pháp cơ bản của công trình này là dựa trên cơ sở ngôn ngữ học và
phương pháp tham khảo văn hóa dân gian để lí giải giá trị tác phẩm (so sánh,
thống kê, phân tích, liên ngành). Qua hơn 200 trang viết luận án, tác giả đã rút
ra những kết luận về đặc điểm của các thể loại VHDG Khmer: thần thoại thì
“hồn nhiên trong cách lí giải tự nhiên, trí tưởng tượng bay bổng đan xen chặt


20

chẽ với chiều sâu triết học về cách lí giải thế giới , nhưng “tản mác và vỡ
vụn” [68, tr.197]; truyền thuyết thì “gắn liền với giải thích nghi lễ và lễ hội,
nhóm truyền thuyết giải thích địa danh có cốt truyện đơn giản, tính kì ảo mờ
nhạt … nhưng hấp dẫn ở cách nhìn tươi mới, ở tính hiện thực gia tăng, ở tình
cảm sâu nặng” [68, tr.199]; và cổ tích thì “số lượng truyện kể về chằn cao
hơn các nhân vật khác do tín ngưỡng thờ rắn và những trải nghiệm trong cuộc
sống dày đặc kênh rạch và đầm lầy nhiều rắn rết thú dữ; truyện cổ tích Khmer
cũng khai thác các đề tài chốn cung đình nhiều hơn” [68, tr.200]. Cho đến
nay, đây là công trình có quy mô lớn trong nghiên cứu truyện dân gian Khmer
Nam Bộ.
Nhìn chung, các công trình vừa điểm qua cho thấy sự phát triển trong
quá trình nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ và bước đầu ứng dụng hướng

tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu VHDG tại Việt Nam. Những công việc đó
đọng lại trong giới nghiên cứu những vấn đề sau đây:
1) Từ những tác phẩm đầu tiên nhìn nhận VHDG Khmer Nam Bộ như
một bộ phận của văn hóa, dùng truyện kể để giải thích các phong tục tập quán
đến việc xem truyện dân gian như là một đối tượng nghiên cứu độc lập cho
thấy sự phát triển theo hướng đi vào chiều sâu trong phương pháp tiếp cận.
Những công trình học thuật chọn truyện dân gian Khmer Nam Bộ ngày càng
nhiều cho thấy vị trí của nền VHDG của tộc người thiểu số này ngày càng
được nâng cao trong giới nghiên cứu KHXH&NV. Như vậy, thành tựu trước
hết mà các nhà nghiên cứu VHDG Khmer Nam Bộ là sự sưu tầm, tổng hợp
một khối lượng đáng kể tác phẩm văn học dân gian, trong đó có truyện kể.
Tuy nhiên, như nhiều tộc người khác, việc nghiên cứu nền VHDG Khmer
Nam Bộ chủ yếu tập trung ở việc sưu tầm, văn bản hóa và nghiên cứu trên
văn bản. Nghiên cứu diễn ngôn kể chuyện trong hoàn cảnh thực tế còn đặt ra
nhiều vấn đề cho người nghiên cứu.


×