Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ một số GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH CÔNG tác vận ĐỘNG QUẦN CHÚNG đấu TRANH PHÒNG, CHỐNG TRUYỀN đạo TRÁI PHÉP của đồn BIÊN PHÒNG các TỈNH tây bắc TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.44 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Do đó, công tác vận
động nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của Đảng là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược. Công tác dân vận của quân đội là một bộ phận trong công tác vận động cách
mạng của Đảng, là nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, là chức năng, nhiệm
vụ thuộc bản chất, truyền thống của quân đội ta. Trong đó, công tác VĐQC nhân
dân tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia là một mặt của công tác dân vận.
BĐBP là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng
cốt chuyên trách bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia, với chiều dài gần 8000 km
biên giới trên bộ và bờ biển, thuộc 44 tỉnh thành tiếp giáp với 3 nước láng giềng
Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Ở mỗi tuyến biên giới có những đặc điểm, tính
chất và yêu cầu bảo vệ chủ quyền an ninh khác nhau.
Biên giới các tỉnh Tây Bắc có chiều dài 1224 km gồm các tỉnh Sơn La, Điện
Biên, Lai Châu, Lào Cai. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh,
quốc phòng của cả nước, có địa hình rừng núi xa xôi, hẻo lánh, phần lớn cư dân là
dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Thực
hiện chiến lược “DBHB” kết hợp với bạo loạn lật đổ, CNĐQ và các thế lực thù
địch luôn chú trọng đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhất là vùng sâu, vùng xa trên
biên giới. Chúng đã tiến hành nhiều hoạt động truyền đạo trái phép nhằm gây rối,
chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, làm ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình ANCT, trật tự
ATXH ở KVBG Tây Bắc.
Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG phía Tây Bắc, công tác
VĐQC phòng chống truyền đạo trái phép có vị trí vai trò hết sức quan trọng, là
biện pháp nghiệp vụ cơ bản, là cơ sở để tiến hành các biện pháp công tác biên
phòng, VĐQC phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG các tỉnh Tây Bắc là
trách nhiệm của các cấp từ Bộ Tư lệnh Biên phòng đến các đồn, trạm và cán bộ,
chiến sĩ chuyên trách. Trong đó, trước hết thuộc trách nhiệm của các đồn biên
phòng các tỉnh Tây Bắc. Trong những năm qua, quán triệt và thực hiện các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng, Nhà nước và quân đội về công tác VĐQC, các đồn biên



phòng Tây Bắc đã chủ động tích cực VĐQC nhân dân đấu tranh phòng chống
truyền đạo trái phép và đã thu được những kết quả quan trọng, góp phần ổn định
ANCT, trật tự ATXH, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Song, so với yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia trong thời kỳ mới, công tác VĐQC
đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở địa bàn đồn biên phòng các tỉnh Tây
Bắc vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn, đề xuất những giải pháp cơ bản tiến hành công tác VĐQC đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc
hiện nay là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác dân vận trong QĐNDVN và công tác VĐQC của BĐBP luôn là
vấn đề lớn được các cấp, các ngành và nhiều đồng chí lãnh đạo, các nhà khoa học
nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau, trong những năm gần đây, tiêu biểu là các
đề tài như: Khoa CTĐ, CTCT, Học viện Chính trị quân sự, “Nâng cao chất lượng
công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay” do thạc sĩ Phạm Văn Đáng làm
chủ nhiệm (2000); đề tài “Nâng cao chất lượng công tác VĐQC của BĐBP trong
tình hình mới” của thạc sĩ Hoàng Xuân Lương, phó chỉ huy chính trị BĐBP tỉnh
Nghệ An” (1999); luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng “Phát huy vai trò của đội ngũ
phó đồn trưởng về chính trị BĐBP trong công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ
quyền an ninh biên giới phía Bắc hiện nay” của Trương Viết Tý (2002); luận văn
thạc sĩ xây dựng Đảng “Hiệu quả công tác VĐQC phòng chống di cư tự do ở
KVBG của BĐBP các tỉnh Tây Nguyên hiện nay” của Phan Quốc Việt”(2003)...
Những công trình trên đã nghiên cứu trên các góc độ khác nhau về công tác
VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới của BĐBP. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về công tác VĐQC đấu
tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây
Bắc. Vì vậy, đề tài đi sâu nghiên cứu công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn
hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:


Luận giải làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác VĐQC đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
cơ bản tiến hành công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc.
* Nhiệm vụ:
-

Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác VĐQC đấu tranh

phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh

Tây

Bắc.
-

Đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm

VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng
các tỉnh Tây Bắc.
-

Đề xuất phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản tiến hành

công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên
phòng các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay.

* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu: công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền

đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc.
-

Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động công tác

VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng
các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La thời gian từ năm 1999 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng và
công tác VĐQC. Các nghị quyết, chỉ thị của ĐUQSTW, Bộ Quốc phòng, Tổng cục
Chính trị, Bộ Tư lệnh BĐBP về công tác dân vận, công tác VĐQC tham gia bảo vệ
chủ quyền an ninh biên giới của BĐBP để

nghiên cứu.

* Cơ sở thực tiễn: là hiện thực công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc; các báo cáo
sơ, tổng kết về công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG và kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả ở một số đồn biên phòng
Tây Bắc.


* Phương pháp nghiên cứu: dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu

chuyên ngành và liên ngành kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích và
tổng hợp, lôgíc và lịch sử, so sánh, khảo sát, điều tra, phương pháp tổng kết thực
tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa luận văn
Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho cấp ủy, chỉ huy đồn
biên phòng, BĐBP các tỉnh Tây Bắc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả các
nội dung, biện pháp, hình thức công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo
trái phép ở KVBG trong tình hình mới.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG
QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TRUYỀN ĐẠO TRÁI
PHÉP Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI CỦA ĐỒN BIÊN PHÒNG CÁC TỈNH TÂY
BẮC
1.1. Truyền đạo trái phép và những vấn đề cơ bản về công tác vận động
quần chúng đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở khu vực biên giới
của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc
1.1.1. Hoạt động truyền đạo trái phép ở khu vực biên giới các tỉnh Tây
Bắc
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội lịch sử có tính phổ biến và ảnh hưởng lớn
đến đời sống tinh thần của con người và xã hội. Từ khi xã hội loài người có sự
phân chia giai cấp, tôn giáo luôn là vấn đề rất nhạy cảm về chính trị, phản ánh rõ
cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp,
các thế lực phản động luôn lợi dụng tôn giáo để nô dịch nhân dân lao động. Ngày
nay để thực hiện chiến lược “DBHB” kết hợp bạo loạn lật đổ, CNĐQ và các thế


lực phản động luôn tăng cường lợi dụng tôn giáo, đẩy mạnh các hoạt động truyền

đạo trái phép, nhất là những vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn như
KVBG Tây Bắc để chống phá cách mạng nước ta. Do đó, việc chủ động tích cực
đấu tranh phòng chống sự lợi dụng tôn giáo, phòng chống các hoạt động truyền
đạo trái phép của các thế lực phản động ở KVBG Tây Bắc thực sự là nội dung
quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBG Tổ quốc.
* Quan niệm về truyền đạo trái phép
Hoạt động truyền đạo mang tính chất là một hoạt động xã hội, nhằm truyền
bá tín ngưỡng tôn giáo trong một cộng đồng dân cư nhất định, có đối tượng, nội
dung, không gian và thời gian cụ thể. Do tính chất và ảnh hưởng của hoạt động
truyền đạo nên ở bất kỳ một quốc gia dân tộc nào thì mọi hoạt động truyền đạo đều
phải chịu sự quản lý của Nhà nước, tuân theo quy định của pháp luật và phù hợp
với các chuẩn mực giá trị của xã hội đương thời. Các hoạt động truyền đạo không
theo những điều kiện nói trên đều là bất hợp pháp, là hoạt động truyền đạo trái
phép.
Trong đề tài này, việc gọi “truyền đạo trái phép” là nói đến những hoạt động
truyền đạo, những hoạt động phát triển đạo; những hoạt động đó không còn là
hành vi tín ngưỡng đơn thuần, nằm trong khuôn khổ sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo
của nhân dân, mà nó trái với những quy định của những văn bản pháp luật của Nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ban hành.
Từ cách tiếp cận trên, có thể khái quát: truyền đạo trái phép là hoạt động
truyền bá tín ngưỡng tôn giáo không theo các quy định của pháp luật hiện hành,
không phù hợp với chuẩn mực xã hội, không được các cơ quan có thẩm quyền cho
phép, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc và tinh thần, vật chất của nhân
dân. Ở nước ta hiện nay, hoạt động truyền đạo trái phép diễn ra rất phức tạp, xuất
phát từ những mưu đồ chính trị đen tối của các thế lực thù địch. Hoạt động truyền
đạo trái phép được biểu hiện trên hai nội dung cơ bản sau:
Một là, những người truyền đạo không phải là những nhà tu hành, mục sư
chân chính được phép hoạt động mà là những người mạo danh chức sắc, nhà tu



hành để hoạt động tôn giáo. Họ là những người không đủ tư cách, tiêu chuẩn và
không được phép hành nghề theo những quy định của pháp luật.
Hai là, hoạt động truyền đạo không chỉ trái với phong tục tập quán, truyền
thống văn hóa của dân tộc, mà còn vi phạm pháp luật Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam như:
-

Những người truyền đạo đã tìm mọi cách lừa phỉnh, hăm dọa, khống chế,

ép buộc để quần chúng theo đạo. Vi phạm Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (1999), Quy định Điều 87 về “Gây chia rẽ giữa các tầng lớp
nhân dân”, “Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, chia rẽ
các tín đồ với chính quyền”[5, 62].
-

Những kẻ truyền đạo gắn vấn đề tôn giáo với chính trị để chống phá Nhà

nước Việt Nam. Họ đã lập ra các tổ chức đạo trái pháp luật, cơ cấu tổ chức và
những hoạt động của đạo chưa được Nhà nước cho phép. Các tổ chức này hình
thành và tồn tại như một tổ chức chính trị, lợi dụng hành vi tín ngưỡng tôn giáo để
chống lại Đảng, Nhà nước, xuyên tạc chế độ XHCN; phao tin bịa đặt gây hoang
mang trong nhân dân; tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý. Họ lập ra
các cơ sở thờ tự, nhà nguyện một cách trái pháp luật, tổ chức các buổi cầu nguyện,
giảng đạo, tuyên truyền giáo lý tín ngưỡng, không xin phép; lợi dụng lòng tin của
quần chúng để quyên góp dưới nhiều hình thức, lấy tiền công đức mưu lợi cá nhân,
thậm chí nhận tiền trái phép của cá nhân và tổ chức nước ngoài.
-

Việc in ấn, xuất nhập khẩu, xuất bản và lưu hành các loại kinh sách, tài


liệu tôn giáo không thực hiện theo quy chế Nhà nước, các băng đĩa có nội dung
chống lại Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, gây chia rẽ dân tộc, phá hoại sự
nghiệp đoàn kết toàn dân, tuyên truyền mê tín dị đoan, làm hại đến phong tục tập
quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa lành mạnh của dân tộc.
-

Hoạt động truyền đạo vi phạm điều 89 Bộ luật hình sự, vì đã có những

hành động “Kích động lôi kéo, tụ tập nhiều người, phá rối an ninh, chống người thi
hành công vụ”[5, 62]. Làm phức tạp và đảo lộn ANCT, trật tự ATXH ở địa
phương; gây hậu quả nặng nề về kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh địa


bàn và đe dọa đến sự toàn vẹn chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở KVBG Tây
Bắc.
* Hoạt động truyền đạo trái phép ở các tỉnh biên giới Tây Bắc
Trước năm 1986, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc Tây
Bắc hầu như chủ yếu là tín ngưỡng dân gian truyền thống, không có truyền đạo trái
phép. Việc truyền đạo trái phép xuất hiện đầu tiên ở tỉnh Sơn La vào năm 1986,
sau đó vào Lai Châu năm 1987, vào Lào Cai năm 1990. Hoạt động phát triển đạo
trái phép ở các tỉnh biên giới Tây Bắc từ trước đến nay có thể chia làm 3 giai đoạn
chính như sau:
+ Giai đoạn thứ nhất (1986 - 1990):
Tín hiệu “xưng vua” đầu tiên xuất hiện ở bản ít Lót và Nậm Lạnh, xã Chiềng
Cang (xã biên giới), huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Đầu tiên họ bỏ bàn thờ tổ tiên
tung hô vua “Vàng Chứ” sắp xuất hiện. Đến tháng 7/1986 có 8/17 hộ ở bản ít Lót
tin theo. Đến tháng 11/1989 lan ra 9 bản, 5 xã, 2 huyện Sông Mã, Mai Sơn (Sơn
La) tin theo. Những người theo đạo tổ chức lễ cúng mới, bỏ bàn thờ tổ tiên để thờ
“Vàng Chứ”. Bàn thờ mới có treo thánh giá, lọ nước thánh, họ học đạo, nghe đài
FEBC phát từ Ma-ni-la, đài này nói rằng “Vàng Chứ” là vua người Mông, thờ

“Vàng Chứ” sẽ được sung sướng. Đến tháng 7/1987 có 21 hộ, 130 người ở xã Phì
Nhừ, huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên) theo “Vàng Chứ”. Đến cuối năm 1990 ở
tỉnh Điện Biên và Lai Châu đã có 62 bản, 23 xã, 6 huyện, gồm 811 hộ, 5361 người
theo “Vàng Chứ”. Tháng 2 năm 1990 “Vàng Chứ” bắt đầu xâm nhập vào tỉnh Lào
Cai (17 hộ, 85 người). Đến tháng 7 năm 1990 lan ra 55 xã, 411 hộ, 2396 người chủ
yếu xã có đông người Mông sinh sống theo đạo [8, 26].
Người Mông truyền bảo nhau: sẽ có mưa to, nước dâng cao, ngập tràn khắp
nơi, “Vàng Chứ” sẽ xuất hiện, ai không cúng “Vàng Chứ” sẽ bị hổ ăn thịt, nước
cuốn trôi, ai theo “Vàng Chứ” sẽ có cuộc sống sung sướng. Một số nơi, người
Mông bỏ cả sản xuất, mổ hết gia súc, bán vội đồ đạc trong nhà để chuẩn bị đón
“Vàng Chứ”. Một số người vào rừng sâu tụ tập học các bài kinh thánh theo đài
Ma-ni-la, tập bay lên trời, đào hầm trú ẩn, mặc quần áo lanh để đón vua, nộp tiền
đăng ký theo “Vàng Chứ”. Trong sinh hoạt kiêng ăn một số thứ màu đỏ như tiết


canh, ớt... Từng bản, từng nhóm người tụ tập nhau vào các buổi sáng để kiểm điểm
xem mình có khuyết điểm gì với “Vàng Chứ” không.
+ Giai đoạn thứ hai (1990 - 1993):
Qua đài Ve-ri-tas, người Mông biết về chúa Giê-su. Những người theo
“Vàng Chứ” có sự điều chỉnh tín ngưỡng mới của mình. Trên đài FEBC tuyên
truyền “Chúa Giê-su là con của “Vàng Chứ”, người Mông theo “Vàng Chứ” phải
theo chúa Giê-su”. Thời gian này, các phần tử cầm đầu truyền đạo ở Sơn La, Lai
Châu, Điện Biên tìm về các nhà thờ công giáo ở Yên Bái, Sơn Tây để học đạo. Sau
đó các nhà thờ này đã cử các linh mục đến tận các bản người Mông để giảng đạo.
Qua những tên cầm đầu truyền đạo, chúng đã lôi kéo nhiều người Mông ký tên vào
đơn gửi chính quyền xin được theo Công giáo, mặt khác chúng còn lôi kéo đồng
bào ký tên vào đơn gửi chính quyền các cấp vu cáo cán bộ cơ sở của ta ngăn cấm
không cho đồng bào theo đạo, bắt bớ, phạt tiền, thu phương tiện sinh hoạt đạo.
“Đến cuối năm 1991, dưới sự chỉ đạo của các đối tượng, cầm đầu như Sùng Seo
Pao, Cư Seo Chư, Vừ Sáng De, Giàng Chia Sơ, số lượng người Mông theo chúa

Giê-su tăng lên, kéo theo làn sóng di, dịch cư tự do của người Mông từ Hà Giang,
Yên Bái đến Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên. Năm 1993, người Mông theo đạo ở
Lai Châu lan ra 7 huyện, 29 xã, 64 bản, gồm 754 hộ”[1, 9].
+ Giai đoạn thứ ba (1993 đến nay):
Do giáo lý Công giáo quá phức tạp, lễ nghi quá rườm rà, không phù hợp với
cuộc sống của người Mông. Vì vậy, những người theo đạo có biểu hiện hụt hẫng,
khủng hoảng về tôn giáo của mình đang theo. Trước tình hình đó, các đối tượng
cầm đầu truyền đạo tìm gặp một số phần tử xấu trong hội thánh Tin lành miền Bắc
để học hỏi kinh nghiệm. Do vậy, đến năm 1994, những người theo đạo hình thành
các tổ chức như Ban Hiệp nguyện (Lào Cai), Ban Chấp sự (Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La), trong các tổ chức này có chức danh trưởng đạo, phó đạo, thư ký, thủ quỹ
đạo, công an đạo. Các phần tử tích cực truyền đạo trực tiếp đấu tranh với các tổ,
đội công tác ở cơ sở và từng bước tổ chức cho quần chúng đối đầu với chính
quyền. Hoạt động truyền đạo ngày càng công khai hóa, những tên cầm đầu truyền
đạo không còn sợ sệt hoặc giấu giếm như trước nữa. Đến năm 1999, đài FEBC lại


tuyên truyền “Vàng Pao” là vua người Mông, được Mỹ, Anh ủng hộ về Lào thành
lập Nhà nước người Mông. Tổ quốc người Mông gồm Bắc Lào và 4 tỉnh Tây Bắc
Việt Nam là Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La. Thủ đô người Mông là Điện
Biên Phủ. Từ đó làm cho làn sóng di cư của người Mông từ các tỉnh Lào Cai, Hà
Giang, Yên Bái đến các xã biên giới Mường Toong, Mường Nhé, Chà Cang, Chà
Nưa, KVBG này gần điểm cao Pu-ta-co, từng là căn cứ nổi tiếng của phỉ “Vàng
pao” trước đây. Làm cho KVBG ở đây rất phức tạp, “gần 10.000 người Mông theo
đạo nơi đây là điều đáng lo ngại trước âm mưu của các thế lực phản động”[6, 12].
Hoạt động truyền đạo trái phép ở các tỉnh biên giới Tây Bắc có một số đặc
điểm cơ bản là:
-

Những kẻ truyền đạo trái phép vừa lợi dụng tín ngưỡng tâm lý truyền


thống “xưng đón vua” để lừa bịp, lôi kéo người Mông theo đạo, vừa đưa ra những
lời tiên tri đậm màu sắc mê tín để hù dọa quần chúng. Hình thức truyền đạo trực
tiếp từ lực lượng chính trong người Mông, phương thức vừa bí mật, vừa công khai.
-

Để lôi kéo quần chúng tin theo, chúng luôn thay đổi biểu tượng từ “Vàng

Chứ”, “Giê su”, “Vàng Pao” được thiêng hóa, là niềm tin mới về cuộc sống cho
người Mông. Chúng chuyển từ Công giáo sang Tin lành, với sự chuyển hướng nội
dung truyền đạo của đài FEBC, đặc biệt với vai trò tích cực một số phần tử xấu
trong Hội thánh Tin lành miền Bắc đã làm cho tốc độ phát triển đạo rất nhanh, quy
mô lớn, truyền đạo từ ngấm ngầm đến công khai. Từng bước khống chế cán bộ cơ
sở, chia rẽ gia đình, dòng họ, bản làng giữa những người theo và không theo đạo.
Làm cho tình hình ANCT ở KVBG Tây Bắc trở thành “điểm nóng” về di, dịch cư
tự do và hoạt động truyền đạo
-

trái phép.

Sự phát triển đạo trái phép ở Tây Bắc ngày càng biểu hiện có bàn tay của

nước ngoài chỉ đạo và mang đậm màu sắc chính trị phản động.
* Hậu quả của truyền đạo trái phép ở các tỉnh biên giới Tây Bắc
Truyền đạo trái phép ở KVBG Tây Bắc thời gian qua đã gây hậu quả
nghiêm trọng trong nhiều mặt đời sống xã hội ở vùng đồng bào dân tộc Tây Bắc
như:


Thứ nhất, sự phát triển đạo trái phép ở KVBG Tây Bắc đã làm đảo lộn trật

tự xã hội, truyền thống các tộc người, gây chia rẽ, phân hóa sâu sắc cộng đồng, làm
biến đổi tình cảm, niềm tin của người Mông vào cách mạng, làm thay đổi phong
tục tập quán sinh hoạt tâm linh, đánh mất những giá trị văn hóa truyền thống mang
đậm bản sắc tộc người.
Truyền đạo trái phép ở KVBG Tây Bắc đã làm cho cộng đồng người Mông
có sự phân hóa. Nội bộ gia đình phân tán, anh em ruột thịt không muốn nhìn mặt
nhau, con cái xa rời bố mẹ, ông bà xa cháu. Các trưởng họ, trưởng tộc, già làng,
trưởng bản là những người vốn được tôn kính, vị nể thì nay phải nhường vai trò
của mình cho những người tích cực truyền đạo mà tuổi đời chỉ là trung niên và
thanh niên, thuộc hàng con cháu. Mặt khác, còn làm cho nền văn hóa của dân tộc
Mông có nguy cơ bị băng hoại. Trật tự cũ bị đảo lộn, những truyền thống văn hóa
tốt đẹp bị bỏ quên; văn hóa phiên chợ, lễ hội ngày xuân, các trò chơi múa khèn,
thổi sáo, ném pao... được thay thế bằng lễ cầu xin và cám ơn “Vàng Chứ”. Những
người chịu ảnh hưởng của đạo, theo đạo đã làm mất đi thuần phong mỹ tục truyền
thống mà ông cha, tổ tiên đã gìn giữ từ bao đời. Hoạt động truyền đạo Tin lành vào
người Mông đã gây tổn thương nặng nề đối với nền văn hóa dân tộc truyền thống.
Nguy hiểm hơn, những hành động đó ngày càng mang tính chất chính trị, làm cho
nhiều người biến đổi tư tưởng, tình cảm với cách mạng, mất niềm tin vào Đảng.
Thứ hai, hoạt động truyền đạo trái phép ở địa bàn Tây Bắc nói chung,
KVBG Tây Bắc nói riêng là quá trình gây ra hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã
hội; làm cho cuộc sống nhân dân bị đảo lộn, đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Nghe theo lời tuyên truyền của kẻ truyền đạo, nhiều gia đình bỏ sản xuất,
bán thóc gạo, giết hết gia súc, bán đồ đạc để đón “Vàng Chứ”. Chờ mãi không thấy
“Vàng Chứ”, lâm vào cảnh vô cùng khó khăn, khánh kiệt cả tiền bạc, gia sản. Sau
lời kêu gọi “Tổ quốc của người Mông ở phía Tây”, những kẻ xấu xúi giục đồng
bào các tỉnh bỏ quê hương di cư đến vùng đất dọc biên giới phía Tây. Họ bán hết
nhà cửa, đồ đạc đến vùng đất mới làm lại từ đầu, gây nên cuộc sống vô cùng khổ
cực. Ở xã Mường Mươn (Điện Biên) có người còn nói: nó bảo đi hát thánh ca, ở
nhà lợn rừng, khỉ nó ăn hết lúa, hết ngô, chẳng chúa nào đuổi hộ.



Hoạt động truyền đạo trái phép không chỉ gây đảo lộn quá trình phát triển
kinh tế - xã hội mà còn gây tác hại cả về môi trường sinh thái, hậu quả nghèo đói,
bệnh tật, mù chữ tăng lên trong xã hội. Nhìn toàn cục, hậu quả do truyền đạo trái
phép gây ra là vô cùng nghiêm trọng, không dễ gì nhanh chóng khắc phục được.
Thứ ba, hoạt động truyền đạo trái phép ngày càng mang màu sắc chính trị,
phản động, kích động tư tưởng ly khai, đòi tự do tôn giáo, lập các nhà nước trong
một quốc gia, gây mất ổn định chính trị cơ sở và đe dọa sự toàn vẹn chủ quyền an
ninh lãnh thổ biên giới quốc gia.
Những kẻ truyền đạo đã ngang nhiên xuyên tạc đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chúng lập ra các tổ chức đạo ở cơ sở, hoạt động
song song với chính quyền để quản lý dân, giành giật quần chúng; làm vô hiệu hóa
dần vai trò của chính quyền cơ sở. Có nơi chúng còn tổ chức cho người Mông tập
bắn bia vào những mục tiêu tượng trưng cho chủ tịch, bí

thư xã.

Từ năm 2000 đến nay, chúng tuyên truyền, thành lập nhà nước của người
Mông, ở phương Tây “nơi mặt trời lặn” tạo nên làn sóng di cư của người Mông
đến KVBG Việt - Lào (Điện Biên, Lai Châu), tạo thành các “điểm nóng” ở dọc
biên giới phía Tây gây mất ổn định chính trị cơ sở và đe dọa chủ quyền an ninh
biên giới.
Tóm lại, hoạt động truyền đạo trái phép ở các tỉnh biên giới Tây Bắc đã và
đang diễn ra rất phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, làm đảo lộn
các giá trị văn hóa truyền thống, mang đậm màu sắc chính trị phản động, đe dọa
đến chủ quyền ANBG quốc gia. Do đó, VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo
trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc là một bộ phận của công
tác dân vận của quân đội ta hiện nay.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác vận động quần chúng đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép ở khu vực biên giới của đồn biên phòng các

tỉnh Tây Bắc
* Quan niệm về công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái
phép ở KVBG của đồn biên phòng


Bảo vệ chủ quyền ANBG là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân. Trong đó, BĐBP là lực lượng nòng cốt chuyên trách có chức năng, nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia. Nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng
BĐBP trong tình hình mới đã xác định: “BĐBP là lực lượng vũ trang cách mạng
của Đảng và Nhà nước, là một thành phần QĐNDVN, làm nòng cốt chuyên trách
quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh lãnh thổ quốc gia theo nhiệm vụ và quyền hạn
được giao, đồng thời là một thành viên của khu vực phòng thủ biên giới”[17, 3].
Thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng trên, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP xác định
rõ: các cấp lãnh đạo, chỉ huy và mọi cán bộ, chiến sĩ trong BĐBP phải nhận thức
sâu sắc hơn vị trí yêu cầu công tác VĐQC trong tình hình mới... Tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy đối với công tác VĐQC. Trong đó, “Đồn
biên phòng là đơn vị cơ sở của BĐBP làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền
ANBG quốc gia, duy trì việc thực hiện các hiệp định, hiệp nghị, quy chế về biên
giới thuộc phạm vi được giao”[35, 47-48]. Đồn biên phòng là nơi trực tiếp tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chỉ thị, mệnh
lệnh của cấp trên về nhiệm vụ công tác biên phòng. Với chức năng quan trọng trên,
để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao, chỉ khi tạo lập được một thế trận biên
phòng toàn dân vững chắc. Vì vậy, nội dung quan trọng xuyên suốt của công tác
biên phòng của các đồn biên phòng là phải xây dựng được “thế trận lòng dân” nơi
biên giới, với biện pháp cơ bản nền tảng là công tác VĐQC.
-

Qua nghiên cứu, bước đầu có thể quan niệm công tác VĐQC của đồn

biên phòng như sau: Công tác VĐQC của đồn biên phòng là một biện pháp công

tác nghiệp vụ do cán bộ, chiến sĩ của đồn biên phòng tiến hành trên cơ sở đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Nhằm tuyên truyền giáo dục, tổ
chức, hướng dẫn quần chúng và tham mưu cho cấp ủy chính quyền địa phương để
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG của

Tổ quốc.

Theo đó, quan niệm về công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo
trái phép của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc là một nội dung then chốt của công
tác VĐQC của đồn biên phòng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, người
chỉ huy, cơ quan chính trị và sự phối hợp hiệp đồng với cấp ủy, chính quyền địa


phương; là công tác tuyên truyền vận động, hướng dẫn nhân dân ở KVBG Tây Bắc
hăng hái thực hiện đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo truyền đạo trái phép; bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân; góp phần làm thất bại chiến lược “Diễn
biến hòa bình” của kẻ thù và sẵn sàng đối phó thắng lợi với các tình huống khác.
Quan niệm trên chỉ ra các nội dung cơ bản sau:
-

Mục tiêu của công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái

phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc là góp phần vận động nhân
dân tích cực thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước nói chung, trong đó có chính sách về tôn giáo, tự giác đấu tranh
chống việc lợi dụng tôn giáo truyền đạo trái phép, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng
của nhân dân, góp phần ổn định về chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, quốc phòng an ninh vững, có nếp sống
văn minh lành mạnh, góp phần làm thất bại chiến lược “DBHB” và sẵn sàng đối

phó thắng lợi với các tình huống khác.
-

Chủ thể tiến hành công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái

phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc là toàn bộ cán bộ, chiến sĩ đồn
biên phòng, trong đó các tổ chức đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy chịu trách
nhiệm quản lý, điều hành, các tổ, đội công tác là lực lượng nòng cốt. Quá trình tiến
hành công tác VĐQC phải phối hợp chặt chẽ với tổ chức đảng, chính quyền, các tổ
chức quần chúng ở địa phương và các đơn vị bạn có liên quan để tạo nên sức mạnh
tổng hợp.
-

Đối tượng vận động đó là cộng đồng cư dân đang đứng chân trên địa bàn

có những đặc điểm văn hóa- xã hội dễ bị các thế lực phản động lợi dụng tuyên
truyền, lôi kéo hoặc ép buộc theo một tín ngưỡng hay tôn giáo nào đó nhằm phục
vụ cho âm mưu thâm độc của chúng. Trên vùng biên giới Tây Bắc chủ yếu là các
làng bản đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng đồng bào Mông, Dao.
-

Nội dung công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở

KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc là tập trung tuyên truyền, giải thích
làm cho quần chúng hiểu rõ quan điểm, chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng và


Nhà nước; chủ động, nhạy bén giải thích một cách khoa học những hiện tượng tự
nhiên - xã hội dễ làm cho quần chúng hoang mang, lo sợ; đặc biệt là kịp thời làm
cho quần chúng thấy rõ những âm mưu thủ đoạn của bọn xấu lợi dụng tự do tín

ngưỡng để hoạt động truyền đạo trái phép, đồng thời lên án vạch mặt bọn đầu sỏ,
chủ mưu truyền đạo trái phép, từ đó giúp quần chúng thường xuyên cảnh giác,
không bị ngộ nhận, tin theo những luận điệu tuyên truyền phát triển đạo. Nghị
quyết hội nghị lần thứ 7 BCHTW khóa IX về công tác tôn giáo chỉ rõ: “Nội dung
cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác VĐQC... công tác VĐQC các tôn giáo
phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và
thống nhất của Tổ quốc”[18, 49].
-

Hình thức, biện pháp VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép

ở KVBG của đồn biên phòng: xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh cụ thể và từ đặc
điểm yêu cầu, nhiệm vụ của từng địa bàn để kết hợp giữa vận động thường xuyên
với vận động từng chuyên đề, giữa vận động chung với vận động cá biệt phối hợp
đồng bộ các biện pháp VĐQC, đặc biệt coi trọng việc lồng ghép các nội dung
phòng chống truyền đạo trái phép với nội dung hoạt động của các tổ chức đoàn thể
quần chúng, đồng thời tranh thủ lực lượng cốt cán già làng, trưởng bản, trưởng
dòng họ và những người có uy tín trong các sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống.
Mặt khác kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa biện pháp hành chính, nghiệp vụ, công khai
và bí mật. Có biện pháp cơ bản thường xuyên tuyên truyền giải thích đối với quần
chúng bị mua chuộc lôi kéo và có biện pháp tuyên truyền đặc biệt, tấn công chính
trị đối với bọn đầu sỏ chủ mưu truyền đạo trái phép.
* Đặc điểm công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc
Thứ nhất, đối tượng công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái
phép của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc là: đồng bào các dân tộc trên biên giới
Tây Bắc vốn có truyền thống gắn bó, cố kết với cộng đồng, là khu vực cư trú chủ
yếu của người Mông, Dao, Thái, Hà Nhì, Dáy, La Hủ... Hầu hết các dân tộc thiểu
số sống trên biên giới hai nước có quan hệ lịch sử lâu đời về dân tộc, dòng họ cùng
phong tục, tập quán nên ý thức chủ quyền quốc gia, quốc giới chưa rõ ràng, ý thức



dòng họ là chủ yếu. Đây là vấn đề khó khăn cho các đồn biên phòng trong tuyên
truyền, giáo dục, VĐQC chấp hành quy chế KVBG đất liền. Đó cũng là điều kiện
thuận lợi cho địch lợi dụng hoạt động qua lại biên giới, truyền đạo trái phép, phá
hoại ANCT trên KVBG

Tây Bắc.

Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tuy đã được củng cố, kiện toàn
từng bước nhưng nhìn chung vẫn còn mỏng, yếu và thiếu, “vùng Tây Bắc chỉ có
khoảng 40% thôn bản có chi bộ, tỷ lệ đảng viên so với dân số chiếm khoảng
1,79%” [41, 46]. Nhiều bản, làng, nhất là các xã vùng cao dân tộc Mông không có
đảng viên. Đội ngũ cán bộ cốt cán của Đảng, chính quyền, đoàn thể trình độ văn
hóa thấp, ít được bồi dưỡng nên năng lực quản lý, điều hành, tổ chức còn yếu.
Phong trào quần chúng, đặc biệt là những điểm dân cư người Mông mới đến còn
quá yếu. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW (khóa IX) về công tác dân tộc chỉ
rõ: “Hệ thống chính trị cơ sở ở nhiều vùng dân tộc và miền núi còn yếu, trình độ
của đội ngũ cán bộ còn thấp, công tác phát triển đảng chậm; cấp ủy, chính quyền
và các đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi hoạt động chưa hiệu quả, không sát dân,
không tập hợp được đồng bào [18, 32]. Đây là một khó khăn cho công tác VĐQC
đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh
Tây Bắc.
Mặt bằng dân trí ở các xã, bản biên giới Tây Bắc còn rất thấp, cơ sở hạ tầng
và các thiết chế văn hóa, xã hội vừa thiếu lại vừa yếu. Tình trạng mù chữ và tái mù
chữ phát triển, còn 21.926 người mù chữ, chiếm 7,98% dân số [phụ lục 2]. Hầu hết
đồng bào các bản, làng vùng cao chưa được xem truyền hình và hưởng thụ các
hoạt động văn hóa, thông tin. Phong tục tập quán còn lạc hậu, nặng nề. Mỗi dân tộc
trên biên giới Tây Bắc đều có bản sắc văn hóa truyền thống và phong tục, tập quán
riêng. Đa số các dân tộc thiểu số Tây Bắc vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy, thờ đa

thần, thờ cúng tổ tiên vẫn là tín ngưỡng chủ đạo, vẫn là yếu tố cốt lõi tạo nên bản
sắc văn hóa dân tộc. Đây chính là đặc điểm cần chú ý trong xây dựng đời sống văn
hóa và VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG Tây Bắc.
Dòng họ có sự cố kết chặt chẽ, vai trò trưởng họ, trưởng bản luôn được coi
trọng, đề cao. Các dân tộc thiểu số cư trú ở KVBG Tây Bắc, đặc biệt là người


Mông, dòng họ có tính cố kết bền vững trên các lĩnh vực, khi đã nhận nhau là dòng
họ thì dù khác quốc gia đều coi là anh em. Từ cư trú đến tín ngưỡng, cưới xin, lễ
tang, làm nhà, ốm đau... đều do dòng họ chi phối. Đồng bào dân tộc thiểu số rất coi
trọng vai trò của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, có khi còn cao hơn cả
quyền lực quốc gia. Trưởng họ được coi là cái gốc, cái đầu của dòng họ, trưởng họ
có vai trò duy trì mọi hoạt động của dòng họ, từ việc thờ cúng tổ tiên, dựng vợ, gả
chồng, ma chay, làm nhà mới, vận động các thành viên giữ gìn đoàn kết, giúp đỡ
lẫn nhau, giải quyết mâu thuẫn. Trưởng họ chịu trách nhiệm trước dòng họ, truyền
lại những tục lệ, kinh nghiệm của dòng họ con cháu mình.
Trưởng bản chủ yếu là điều hành trị an, sản xuất chung của cả bản như
nguồn nước, bãi thả trâu, bò... Còn các loại tâm linh, tư tưởng, phong tục, tập quán
thì đều do dòng họ quyết định.
Bản chất của đồng bào dân tộc thiểu số là trung thực, thật thà, dễ tin, dễ ngờ,
cần cù, chất phác, tôn trọng danh dự và lời thề, mọi việc phải mắt thấy tai nghe,
hay mặc cảm, tự ti dân tộc. Đặc điểm này chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến công tác
VĐQC nói chung, VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép nói riêng.
Thứ hai, công tác VĐQC của các đồn biên phòng Tây Bắc hoạt động ở địa
bàn: là những nơi xa xôi, hẻo lánh, vùng sâu, vùng xa; địa bàn trọng điểm, xung
yếu về chính trị, kinh tế - xã hội; địa bàn chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, địa
bàn có hoạt động truyền đạo trái phép chủ yếu là dân tộc Mông, Dao. Đồn biên
phòng làm công tác VĐQC luôn gắn bó với dân, phải thực hiện 3 cùng (cùng ăn,
cùng ở, cùng làm). Lực lượng tiến hành công tác VĐQC ở đồn là trách nhiệm của
cấp ủy, chỉ huy và mọi cán bộ, chiến sĩ, mỗi người theo chức năng, nhiệm vụ được

giao mà có trách nhiệm tiến hành công tác VĐQC, trong đó tổ, đội VĐQC là lực
lượng nòng cốt, chuyên trách. Nội dung công tác VĐQC của đồn biên phòng các
tỉnh Tây Bắc trong tình hình mới có sự phát triển mới, nó không chỉ đơn thuần là
tuyên truyền, vận động mà phải làm tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị; tham gia thực hiện các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức nhân dân đấu tranh phòng chống di, dịch
cư tự do và truyền đạo trái phép.


Quá trình hoạt động, các tổ, đội VĐQC và cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng
có quan hệ, phối hợp với nhiều lực lượng, các cấp, các ngành. Mọi hoạt động của
công tác VĐQC vừa mang tính chất an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
Thứ ba, công tác VĐQC của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc thường chủ
động, linh hoạt xử lý các tình huống ở địa bàn, xa chỉ huy, chỉ đạo.
Các đồn biên phòng Tây Bắc phụ trách từ 1 - 3 xã biên giới. Thường các xã
có diện tích tự nhiên rất rộng, gồm nhiều bản (như đồn Nà Hỳ - Điện Biên phụ
trách 41 bản) đi từ đồn biên phòng đến một số bản phải mất 1 - 3 ngày đi bộ. Xuất
phát từ đặc điểm về tổ chức, xuất phát từ nhiệm vụ nên các tổ, đội VĐQC thường
hoạt động phân tán, nhỏ lẻ, xa chỉ huy, chỉ đạo của cấp trên. Do vậy, khi tiến hành
công tác VĐQC nói chung, VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép nói
riêng cán bộ, chiến sĩ đội VĐQC phải chủ động phát huy cao độ tinh thần độc lập,
sáng tạo, linh hoạt, nhạy bén xử lý các tình huống ở địa bàn cho đúng chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước; phải chủ động tổ chức quán triệt mục
tiêu, yêu cầu từng đợt vận động; phải tìm mọi cách thông tin, liên lạc giữa các tổ,
đội VĐQC, địa bàn và chỉ huy đơn vị để đảm bảo định hướng, bảo đảm lãnh đạo,
chỉ đạo, xin ý kiến trong đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở địa bàn.
Những đặc điểm trên của công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo
trái phép ở KVBG của đồn biên phòng Tây Bắc, nếu biết khai thác, tận dụng
những mặt tích cực, thuận lợi; đồng thời hạn chế khắc phục tối đa những khó khăn,
hạn chế thì sẽ trở thành yếu tố tác động chủ quan giúp đồn biên phòng phát huy

hiệu quả trong công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép.
* Vai trò của công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG Tây Bắc
Khi đánh giá, bàn về vai trò quần chúng, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định:
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, “Trong chiến tranh, ai có nhiều lực
lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực hơn, ai kiên trì đi sâu vào quần chúng
nhân dân hơn thì người đó thu được những thắng lợi”[22, 61-64].
Vận dụng và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhìn thấy và luôn đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân dân.


Người viết: “Có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy, to mấy cũng làm được”[28,
292]. Vì vậy, Người căn dặn: Trong mọi việc đều phải dựa vào quần chúng... lấy
sức quần chúng mà vượt qua khó khăn. Vì thế, “Việc dân vận rất quan trọng. Dân
vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[27, 698700].
Cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua luôn gắn với vai trò to lớn của quần
chúng nhân dân, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đảng ta luôn coi công tác VĐQC là một nhiệm vụ cơ bản thường xuyên, quan
trọng. Vận động thuyết phục quần chúng phục vụ cách mạng là vấn đề có ý nghĩa
quyết định đến sức mạnh và sự trường tồn của Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI khẳng định: “Công tác VĐQC luôn luôn là vấn đề có tầm
quan trọng chiến lược trong mọi thời kỳ cách mạng” [12, 251].
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của đồng bào
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước, đồng bào các dân tộc thiểu số đã góp phần to lớn vào sự nghiệp quản lý,
bảo vệ biên giới của Tổ quốc. Trong tình hình mới, Bộ Chính trị đã giao nhiệm vụ
cho BĐBP: “Liên hệ chặt chẽ với quần chúng, dựa vào quần chúng để thực hiện
nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân vùng biên giới tăng cường
đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương và chương trình kinh tế - xã hội của
Đảng và Nhà nước, tích cực xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng nền biên phòng

toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh với thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên giới”[17, 3].
Là một bộ phận của công tác dân vận của Đảng, của quân đội, công tác
VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng
các tỉnh Tây Bắc có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở những nội dung cơ
bản sau:
Một là, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước, quân đội với nhân dân địa phương; xây dựng cơ sở chính trị xã, phường
ở biên giới Tây Bắc VMTD.


Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng phải
thường xuyên củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Có như vậy mới tạo được sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù và
xây dựng thành công CNXH. Biện pháp để thiết lập mối quan hệ đó phải bằng
nhiều hoạt động, nhiều hình thức tổ chức với sự tham gia của các tổ chức, các lực
lượng trong hệ thống chính trị.
BĐBP là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, việc các đồn biên
phòng VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép là yêu cầu khách quan
của sự nghiệp cách mạng, là chức năng, nhiệm vụ thuộc bản chất truyền thống của
quân đội. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, các đồn biên phòng phải lấy việc
tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước làm mục đích hoạt động; thông qua đó mà
nâng cao nhận thức trách nhiệm cho nhân dân địa phương đẩy mạnh phong trào
hành động cách mạng, nâng cao cảnh giác cách mạng, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, củng cố lòng tin đối với Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH. Tham gia xây dựng và nâng cao hiệu lực lãnh đạo và quản lý của hệ thống
chính trị cơ sở xã, phường ở KVBG. Đồng thời, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
đồng bào các dân tộc Tây Bắc phản ánh trở lại cho Đảng, Nhà nước trong việc ban
hành hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật. Chính quá trình đó đã góp phần

tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, quân đội với nhân dân ở
KVBG các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Lào Cai.
Hai là, trực tiếp góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho nhân
dân ở KVBG tỉnh Tây Bắc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn mà kẻ thù phá hoại
cơ sở địa phương, giữ vững ANCT, trật tự ATXH trên địa bàn biên phòng.
Hiện nay, CNĐQ và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện chiến lược
“DBHB” bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta với âm mưu cơ bản là
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ CNXH trên đất nước ta. Để thực hiện âm
mưu đó, CNĐQ đã và đang sử dụng tất cả các thủ đoạn tinh vi và nham hiểm. Ở
KVBG Tây Bắc, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
để xuyên tạc, kích động, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ quần chúng với


Đảng. Do đó, đồn biên phòng tiến hành công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
truyền đạo trái phép phải tuyên truyền, giáo dục vận động nhân dân nhận thức
đúng bản chất của CNĐQ, thấy rõ được âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, từ đó nâng
cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh lên án, phê phán, tẩy chay
mọi hoạt động truyền đạo trái phép, tự giác không nghe, không tin, không theo bọn
xấu, sẵn sàng đập tan mọi hành động phá hoại của kẻ thù. Trên cơ sở đó mà góp
phần xây dựng cơ sở chính trị xã, phường vững mạnh, tạo cơ sở để xây dựng và
bảo vệ vững chắc đường biên giới Tây Bắc của Tổ quốc.
Ba là, làm tốt công tác VĐQC phòng chống truyền đạo trái phép còn góp
phần trực tiếp xây dựng đồn biên phòng VMTD.
Thông qua công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép
chính là quá trình rèn luyện nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ
chức đảng, khả năng tiến hành quản lý của người chỉ huy, tính năng động, sáng tạo
của các tổ, đội công tác và các tổ chức quần chúng. Đồng thời giúp cho cán bộ,
chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn những thuận lợi, khó khăn trong xây dựng đồn vững
mạnh, qua đó mà tích cực học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Xây dựng quan điểm vì dân, ý thức thái

độ kính trọng dân, nâng cao năng lực phương pháp tác phong VĐQC, tạo cơ sở
thực hiện khẩu hiệu “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là
anh em ruột thịt”. Hơn nữa, trong tình hình hiện nay, xây dựng đồn VMTD, phải
lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Trong đó, sự vững mạnh về chính
trị ở địa phương khu vực đóng quân là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến sự
vững mạnh của đồn biên phòng. Nếu môi trường chính trị ở địa phương vững
mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên
và chiến sĩ. Vì vậy, tăng cường công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo
trái phép là một biện pháp trực tiếp góp phần xây dựng đồn biên phòng VMTD,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, nhân dân giao cho.
* Tiêu chí đánh giá công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái
phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc:


Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, tiêu chí là: “Đặc trưng, dấu hiệu làm cơ sở,
căn cứ để nhận biết, xếp loại các sự vật, các khái niệm”[44, 1640]. Theo đó thì kết
quả công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của các
đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc đạt được so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra được xác
định bởi một loạt các dấu hiệu, các chỉ số cả về mặt định lượng và định tính, các
chỉ số và dấu hiệu đó xác định càng chính xác và cụ thể bao nhiêu thì việc đánh giá
càng chính xác bấy nhiêu. Vì vậy, việc lượng hóa các bộ phận, các yếu tố của công
tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép của đồn biên phòng các
tỉnh Tây Bắc là cần thiết, có thể phân chia một cách tương đối thành những tiêu chí
cơ bản sau:
Một là, chất lượng hoạt động của chủ thể tiến hành công tác VĐQC đấu
tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây
Bắc. Trước hết là tổ chức đảng đồn biên phòng (cấp ủy, chi bộ, đảng bộ) phải luôn
đạt tiêu chuẩn TSVM, thường xuyên đưa nội dung, nhiệm vụ VĐQC đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép ở địa bàn vào nghị quyết lãnh đạo hàng tháng. Ở
những địa bàn đồn đảm nhiệm nếu có hoạt động truyền đạo trái phép, đảng ủy, chi

bộ phải có nghị quyết chuyên đề để tập trung lãnh đạo; vai trò của người chỉ huy
đồn biên phòng đối với việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của chi bộ, đảng bộ
đồn biên phòng. Mọi cán bộ, chiến sĩ trong đội VĐQC có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phát huy bản chất, lập trường giai cấp công nhân; phẩm chất đạo đức cách
mạng; nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật Nhà nước, hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc,
nhất là dân tộc Mông, Dao ở địa bàn, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương trong những vấn đề liên quan đến công tác biên phòng. Đồng thời biết
cách vận dụng pháp luật vào xử lý các vụ việc xảy ra trên biên giới.
Cấp ủy, chính quyền đoàn thể các xã, phường biên giới luôn có chủ trương,
nghị quyết lãnh đạo, biện pháp tuyên truyền, tổ chức hướng dẫn nhân dân tham gia
đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép. Có mối quan hệ mật thiết, thường
xuyên giúp đỡ đồn biên phòng trong nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới.


Hai là, mục tiêu, nội dung, hình thức, biện pháp công tác VĐQC đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép.
Xác định đúng mục tiêu, nội dung, lựa chọn hình thức biện pháp phù hợp có
ý nghĩa quyết định trực tiếp đến kết quả công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
truyền đạo trái phép. Nếu xác định mục tiêu, nội dung, hình thức, biện pháp tùy
tiện, thiếu tính khoa học, tính thực tiễn thì kết quả đạt được sẽ thấp. Do đó, khi
đánh giá mục tiêu, nội dung VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép
của chủ thể có phù hợp và theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; trong đó cần xem xét việc xác định nội dung trọng tâm, trọng điểm phù
hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, từng giai đoạn.
Về hình thức, biện pháp cần xem xét đánh giá sự vận dụng linh hoạt các
hình thức, việc sử dụng tổng hợp các biện pháp dân vận đã được tổng kết của quân
đội, của BĐBP và sự vận dụng sáng tạo của hình thức biện pháp trên từng địa bàn,
kết quả của từng hình thức vận động; thái độ hành vi của nhân dân đối với từng
hình thức.

Ba là, kết quả hoạt động VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái
phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc. Trên cơ sở thống kê đầy đủ
những chi phí cho công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc. So sánh mức độ chi phí này với kết
quả thực hiện các nội dung, hình thức, biện pháp công tác VĐQC đấu tranh phòng
chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc sẽ thấy
rõ hiệu quả thực tế. Nếu chi phí bỏ ra mà tương đương với kết quả thì công tác
VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG có hiệu quả, mà biểu
hiện rõ nhất là số người, số hộ theo đạo giảm, nhận thức của quần chúng được
nâng lên, chủ động đấu tranh, tẩy chay hoạt động đạo trái phép, ủng hộ đồn biên
phòng và chính quyền địa phương đấu tranh ngăn chặn đạo trái phép.
Các tiêu chí trên đây là những cơ sở để xem xét đánh giá công tác VĐQC
đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc.
Tuy nhiên, khi khảo sát, đánh giá không nên tách rời các tiêu chí đó một cách máy


móc, mà đặt chúng trong một tổng thể thống nhất biện chứng với nhau trong một
chu trình thống nhất của công tác VĐQC.
* Những vấn đề có tính nguyên tắc chỉ đạo công tác VĐQC đấu tranh phòng
chống truyền đạo trái phép ở KVBG của đồn biên phòng
Thứ nhất, công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc phải nắm vững nguyên tắc tính đảng,
tính khoa học. Xuất phát từ mối quan hệ bản chất, mối quan hệ hữu cơ giữa công
tác VĐQC, công tác dân vận, CTĐ, CTCT với sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội và BĐBP. Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình tiến hành công tác VĐQC phải
luôn nắm vững và quán triệt sâu sắc, chấp hành nghiêm chỉnh các quan điểm cơ
bản của Đảng về quần chúng và công tác VĐQC; nắm vững và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác
VĐQC, tôn giáo, dân tộc. Công tác VĐQC là một khoa học, một nghệ thuật. Do
đó, muốn tiến hành có kết quả cần kết hợp chặt chẽ 3 yếu tố: phải có niềm tin và

thương yêu đồng bào; phải có phong cách sâu sát, gần gũi nhân dân, phải miệng
nói, tay làm; phải kiên trì nhẫn nại, bền bỉ VĐQC. Đây là nguyên tắc cơ bản quan
trọng hàng đầu bảo đảm cho công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo
trái phép ở KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc không bị chệch hướng
chính trị và làm đúng pháp luật.
Thứ hai, công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc phải luôn bám sát, gắn với yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của đồn biên phòng, gắn với thực tiễn của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn biên giới. Nguyên tắc này chỉ đạo việc xác định nội
dung công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG Tây
Bắc. Cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng phải luôn căn cứ vào nhiệm
vụ chính trị của đơn vị trong từng giai đoạn, từng thời điểm, từng thôn bản, chủ
trương của địa phương để xác định nội dung, hình thức tuyên truyền vận động cho
phù hợp. Đồng thời phải xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn mới, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù để xây dựng
phong trào quần chúng tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.


Thứ ba, công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc phải thực hiện nguyên tắc kết hợp
giữa phòng và chống, trong đó lấy phòng ngừa là chính. Tập trung xây dựng củng
cố cơ sở chính trị xã, phường biên giới vững mạnh, đặc biệt coi trọng củng cố, sắp
xếp đội ngũ cốt cán thôn, bản. Đẩy mạnh các phong trào cách mạng, động viên
quần chúng tích cực tham gia chương trình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội,
chăm lo đời sống cho nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt phương châm “Lấy quần
chúng giải quyết việc quần chúng”. Phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh,
để chủ động tích cực giải quyết từ gốc, ngăn chặn từ trong trứng nước. Tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của quần chúng, phân hóa đối tượng, khoanh gọn, thu hẹp
phạm vi ảnh hưởng, không để lây lan kéo dài, tránh sơ hở kẻ địch lợi dụng kích
động lôi kéo quần chúng.

Thứ tư, công tác VĐQC đấu tranh phòng chống truyền đạo trái phép ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc phải tôn trọng tự do tín ngưỡng của
quần chúng, đi đôi với đấu tranh chống mọi hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín
ngưỡng tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo tôn giáo và không theo tôn giáo,
cũng như giữa các tôn giáo khác nhau. Đồng thời, kiên quyết ngăn chặn xử lý mọi
hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự ATXH, phá hoại cơ sở đại
đoàn kết toàn dân. Thực hiện quan điểm, chính sách đối với tôn giáo của Đảng ta
là: “Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật”[18, 48].
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm vận động quần chúng đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép ở khu vực biên giới của đồn biên phòng các
tỉnh Tây Bắc hiện nay


1.2.1. Thực trạng công tác vận động quần chúng đấu tranh phòng chống
truyền đạo trái phép ở khu vực biên giới của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc
hiện nay
* Những ưu điểm, thành công:
-

Cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc nhận

thức đúng đắn về vị trí, vai trò công tác VĐQC và công tác VĐQC đấu tranh
phòng chống truyền đạo trái phép ở KVBG.
Trải qua hơn 40 năm chiến đấu, công tác trên khắp chiều dài biên cương Tổ
quốc, BĐBP đã xác định sáu biện pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững
chắc chủ quyền ANBG là: “VĐQC, trinh sát, kiểm soát hành chính, đấu tranh vũ

trang, công trình kỹ thuật, đối ngoại biên phòng”. Trong đó, công tác VĐQC được
coi là biện pháp cơ bản, then chốt. Pháp lệnh BĐBP chỉ rõ: “BĐBP có nhiệm vụ
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã
hội, văn hóa, giáo dục, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn
dân vững mạnh trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở
KVBG”[36, 9].
Nhận rõ tính chất phức tạp và nguy hiểm trong âm mưu, thủ đoạn thâm độc
của các thế lực thù địch, lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá ta, nhất
là trên KVBG. Các đồn biên phòng trên tuyến Tây Bắc đã quán triệt sâu sắc đường
lối công tác quần chúng của Đảng, xác định rõ yêu cầu nhiệm vụ công tác VĐQC.
Cấp ủy, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ đồn biên phòng đã quán triệt thực hiện Nghị
quyết Trung ương 8(b) khóa VI về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân” và Nghị quyết 24/NQ-BCT của Bộ
Chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ thị 17 của
Bộ Tư lệnh BĐBP “Tăng cường đổi mới công tác VĐQC xây dựng nền biên phòng
toàn dân vững mạnh”, Chỉ thị 408/ĐU “Về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Đảng ủy, chỉ huy, Phòng Chính trị biên
phòng các tỉnh Lào Cai, Lai Châu (cũ), Sơn La đã có nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo,
hướng dẫn kịp thời các đồn biên phòng đẩy mạnh công tác VĐQC đấu tranh phòng


×