Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ vấn đề THIẾU VIỆC làm ở HƯNG yên và tác ĐỘNG của nó đến CỦNG cố QUỐC PHÒNG TRÊN địa bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.42 KB, 78 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp ở thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao đang là
một trong những vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm nhất hiện nay. Đại hội lần thứ IX
của Đảng đã chỉ rõ: “Lực lượng lao động gia tăng tự nhiên mỗi năm khoảng 1,2
triệu người, trong khi tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị năm 2000 còn ở mức 6,4 % và tỉ
lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn mới đạt 73,8% so với mục tiêu là
75% đang trở thành vấn đề gay gắt, nổi cộm nhất hiện nay”[4, tr.255].
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, có vị trí địa lý
thuận lợi, là cửa ngõ giao thông thuỷ, bộ phía Đông bắc Thành phố Hà Nội, một
tỉnh giầu tiềm năng về nông nghiệp, dân cư đông đúc, nguồn lực lao động dồi dào,
có truyền thống cần cù, sáng tạo và chí vươn lên làm giầu. Song với sự gia tăng
dân số khá cao và tốc độ dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chậm như
hiện nay thì tình trạng lao động thiếu việc làm ở Hưng Yên đang là vấn đề bức
xúc, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên địa
bàn tỉnh. Để thực hiện mục tiêu: đưa Hưng Yên thoát khỏi tình trạng thuần nông
kém phát triển, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, trong đó khắc phục hiện trạng thiếu việc làm là một nhân tố quan trọng để
phát huy nội lực, vươn lên trở thành một tỉnh mạnh về kinh tế, vững chắc về quốc
phòng, an ninh.
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, mặc dù các cấp chính quyền và nhân dân Hưng
Yên có nhiều cố gắng giải quyết tình trạng thiếu việc làm. Song vấn đề này đang
còn rất nan giải, có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế và tăng cường
củng cố quốc phòng trên địa bàn của tỉnh.
Chính vì vậy, tác giả chọn: “Vấn đề thiếu việc làm ở Hưng Yên và tác
động của nó đến củng cố quốc phòng trên địa bàn” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu:


Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới trở lại đây, ở Việt Nam đã có khá nhiều
công trình và các bài viết của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề việc làm, thất nghiệp,


thiếu việc làm. Tiêu biểu trong đó có một số bài như:"Nghiên cứu chính sách xã
hội nông thôn Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia 1996, chủ biên PTS Bùi Ngọc
Thanh. “Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia
1997, chủ biên PTS Nguyễn Hữu Dũng và PTS Trần Hữu Trung; "Thị trường lao
động, thực trạng và giải pháp", Nxb Tổng cục Thống kê, Hà Nội 1995, chủ biên
PTS Nguyễn Quang Hiển; "Giải quyết việc làm cho người lao động và tác động
của nó đến củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang", Luận văn Thạc sĩ
kinh tế của Dương Văn Thi… Ngoài ra đã có một số cuộc hội thảo ở trong nước và
quốc tế bàn về vấn đề việc làm như: Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm;
về xoá đói giảm nghèo...
Mặc dù vậy, cho tới nay chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề thiếu
việc làm được đặt trong mối quan hệ với củng cố quốc phòng nói chung và trên địa
bàn của một tỉnh nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng phạm vi nghiên cứu
-

Mục đích nghiên cứu:

Làm rõ vấn đề thiếu việc làm và tác động của nó tới củng cố quốc phòng
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết
việc làm kết hợp với củng cố quốc phòng.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Luận giải vấn đề thiếu việc làm và tác động của nó đến củng cố quốc
phòng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong điều kiện hiện nay.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm giải quyết việc làm kết hợp với
củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
- Đối tượng phạm vi nghiên cứu:

+ Luận văn tiếp cận vấn đề thiếu việc làm trong sự tác động của nó tới củng
cố quốc phòng làm đối tượng nghiên cứu và trên địa bàn tỉnh Hưng Yên với giới
hạn thời gian từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay.


4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
-

Cơ sở lý luận:

Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, các báo cáo tổng kết của tỉnh Hưng
Yên.
-

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:

Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp vận dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của
khoa học kinh tế chính trị kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, điều tra, phỏng vấn.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là gợi ý tốt với lãnh đạo và các cơ
quan hữu trách của tỉnh Hưng Yên trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trên
địa bàn tỉnh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy và học tập một số nội dung của bộ môn kinh tế chính trị, kinh tế quân sự ở các
Học viện, nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, phần kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo, phụ lục.
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA THIẾU VIỆC LÀM VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HƯNG YÊN
1.1. Thiếu việc làm và giải quyết tình trạng thiếu việc làm trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


1.1.1. Một số khái niệm có liên quan đến thiếu việc làm
Để có thể hiểu thấu đáo vấn đề thiếu việc làm và giải quyết tình trạng thiếu
việc làm nói chung, trước hết phải tiếp cận vấn đề này trong mối quan hệ giữa lao
động và việc làm. Bởi lao động và việc làm là hai phạm trù luôn gắn liền, không
thể tách rời.
- Sức lao động, là tổng hợp thể lực, trí lực, trình độ kỹ năng, kỹ xảo, kinh
nghiệm thói quen nghề nghiệp tồn tại trong cơ thể của một con người đang sống và
người đó có thể sử dụng vào quá trình lao động sản xuất.
- Lao động là quá trình kết hợp sức lao động với công cụ phương tiện và đối
tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người và xã
hội loài người.
Như vậy, sức lao động mới là khả năng lao động, còn lao động mới là nguồn
gốc của mọi của cải. Đúng như Ph. Ăngghen viết: “Lao động là nguồn gốc của mọi
của cải… lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và
như thế đến một mức độ mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động
đã sáng tạo ra bản thân con người" [1, tr.641]. Lao động và sức lao động là hai
phạm trù khác nhau. Sức lao động tồn tại ở bên trong cơ thể sống, còn lao động
được biểu hiện ra bên ngoài thông qua việc kết hợp với công cụ lao động.
- Việc làm, Theo điều 13 chương II của Bộ Luật lao động nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, khái niệm việc làm được xác định là: Mọi hoạt động lao động

tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm .
Như vậy, việc làm là lao động của con người trong những lĩnh vực ngành
nghề có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân
và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. Việc làm là sự thống nhất giữa sức
lao động và lao động với một ngành nghề chuyên môn, nghiệp vụ nhất định, sử
dụng công cụ phương tiện nhất định.
- Lực lượng lao động. Theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế ILO:
Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, bao gồm những
người có việc làm, đang tìm việc làm và những người thất nghiệp.


- Thất nghiệp: Có nhiều quan niệm khác nhau về thất nghiệp. Theo quan
niệm của tổ chức lao động Quốc tế ILO: Thất nghiệp là người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động, hiện chưa có việc làm và đang tích cực tìm việc làm.
Theo quan niệm của kinh tế học hiện đại: "Thất nghiệp là người
không có việc làm, bao gồm cả những người đang trong giai đoạn tìm việc làm
mới hoặc những người không thể tìm được việc làm với đồng lương thực tế hiện
hành" [24, tr.1053].
Hai khái niệm trên đều phản ánh bản chất của thất nghiệp là người
không có việc làm, đó là sự tách rời giữa sức lao động và lao động, là những người
có khả năng lao động nhưng không lao động. Tuy nhiên, khái niệm của tổ chức lao
động quốc tế ILO phản ánh rõ hơn thất nghiệp chỉ được áp dụng đối với những
người trong độ tuổi lao động. Khái niệm của kinh tế học hiện đại chỉ nêu bản chất
của thất nghiệp, điều đó rất khó phân biệt người trong độ tuổi lao động với người
ngoài độ tuổi lao động, vì thế việc xác định giải pháp khắc phục nó sẽ gặp khó
khăn.
Như vậy, thất nghiệp được hiểu là người trong độ tuổi lao động, có sức lao
động, chưa có việc làm, đang muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Theo
Bộ luật lao động ở nước ta những người từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam và từ
15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ đang ở độ tuổi lao động, không tìm được việc làm,

đang mong muốn làm việc nhưng không có việc làm là những người thất nghiệp.
Tỉ lệ thất nghiệp là tỉ lệ người trong lực lượng lao động không có việc làm
và tích cực tìm kiếm việc làm. Tỉ lệ này được tính bằng số người thất nghiệp hoặc
bằng số những người đăng ký thất nghiệp hoặc điều tra các hộ gia đình chia cho
lực lượng lao động.
Số người thất nghiệp
Tỉ lệ thất nghiệp =

x 100%
Lực lượng lao động

- Thiếu việc làm là trạng thái có việc làm, nhưng ngoài ý muốn của người
lao động, họ làm việc không hết thời gian cần thiết hoặc làm những việc có thu
nhập thấp, không đủ sống, muốn tìm việc làm bổ sung.


Thực chất của thiếu việc làm là tình trạng người lao động có việc làm
nhưng không sử dụng hết khả năng sức lao động của mình, làm việc không hết thời
gian lao động hoặc những người có thu nhập thấp, mong muốn được làm thêm,
hiện trạng này diễn ra phổ biến trong nền kinh tế ở nước ta. Từ khái niệm trên đây
phân chia các hình thức thiếu việc làm như sau:
Thiếu việc làm do thời gian lao động rút ngắn (thời gian làm việc trong
ngày, trong tuần hoặc trong năm ngắn hơn theo mức trung bình). Biểu hiện là
người lao động không đủ số giờ làm việc trong ngày, số ngày làm việc trong tuần
hoặc số ngày làm việc trong năm. Theo bộ Luật lao động ở nước ta, những người
làm việc dưới 40 giờ/ tuần, và dưới 240 ngày/ năm là những người thiếu việc làm.
Thiếu việc làm theo mùa vụ thực chất là sự gián đoạn lao động theo chu kỳ
kinh tế, sau mỗi mùa vụ hoặc mỗi kỳ chu chuyển kinh tế người lao động phải nghỉ
việc trong một khoảng thời gian nhất định chờ mùa vụ tiếp theo.
Thiếu việc làm do không sử dụng hết khả năng sức lao động là tình trạng

người lao động có việc làm nhưng làm việc không đúng chuyên môn ngành nghề
đào tạo năng suất lao động thấp, người lao động mong muốn chuyển đổi nghề.
Thiếu việc làm vô hình là những người đang làm việc với số giờ gần như
bình thường, nhưng đó chưa phải là một việc làm đích thực cho họ. Đa số trong
trường hợp này là những thanh niên trẻ có trình độ học vấn cao.
Giữa việc làm, thất nghiệp và thiếu việc làm là các khái niệm không đồng
nhất, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau và có thể chuyển hoá cho nhau, trong đó
thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa có việc làm và thất nghiệp. Về bản chất
thiếu việc làm và thất nghiệp đều không phát huy và sử dụng hết năng lực lao
động, lãng phí nguồn nhân lực, thậm chí còn cản trở đến sự phát triển kinh tế - xã
hội. Sự khác nhau cơ bản giữa thất nghiệp và thiếu việc làm ở chỗ, thiếu việc làm
là người lao động có việc làm nhưng làm việc không hết thời gian hoặc không có
điều kiện để phát huy hết khả năng lao động. Thất nghiệp là người có sức lao động
nhưng không có việc làm hoặc không có điều kiện để lao động. Phân biệt các khái
niệm việc làm, không có việc làm và thiếu việc làm nhằm mục đích nghiên cứu chỉ
rõ bản chất và hiện tượng của nó. Trong thực tế giữa việc làm, thất nghiệp và thiếu


việc làm luôn có tác động đan xen vào nhau. Với mỗi đối tượng, ở thời điểm này
có thể không có việc làm, nhưng vào thời điểm khác lại tìm được việc làm, hoặc
thiếu việc làm. Ngược lại, cũng đối tượng đó, thời điểm này đang có việc làm hoặc
thiếu việc làm nhưng ở thời điểm khác lại trở thành không có việc làm (thất
nghiệp). Việc nghiên cứu chỉ rõ các khái niệm trên chỉ tính đến các đối tượng trong
lực lượng lao động, nhưng khi đề ra giải pháp phải quan tâm đến cả việc làm, thất
nghiệp, thiếu việc làm và đối tượng ngoài lực lượng lao động nhưng có nhu cầu
làm việc để đảm bảo cuộc sống của bản thân, gia đình, đồng thời đóng góp một
phần cho sự phát triển của xã hội.
1.1.2. Thất nghiệp, thiếu việc làm trong lịch sử và quan điểm của Đảng ta
về giải quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa

Thất nghiệp, thiếu việc làm là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Trong các chế độ xã hội trước CNTB,
thất nghiệp, thiếu việc làm chưa trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến đòi hỏi cần
có sự can thiệp của nhà nước. Với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mà đặc trưng
của sức sản xuất thời kỳ này chủ yếu dựa vào sức lao động giản đơn của con người
và súc vật. Lao động thủ công là phương thức sản xuất chủ yếu, năng suất lao động
thấp, trong khi các nguồn lực tự nhiên của sản xuất như đất đai, tài nguyên còn rất
dồi dào. Do đó, lao động của con người là nguồn lực chính và được thu hút hầu hết
vào các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Mặc dù lực lượng sản xuất đã có sự tiến bộ so với các chế độ trước đó,
nhưng phân công lao động trong xã hội Phong kiến chưa phát triển, chủ yếu diễn ra
ở lĩnh vực nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, người lao động vừa là người sở
hữu tư liệu sản xuất vừa là người trực tiếp sản xuất. Sự tách biệt sức lao động và tư
liệu sản xuất chưa trở thành phổ biến, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung,
tự cấp khép kín. Quan hệ sản xuất phong kiến dựa trên chế độ bóc lột bằng địa tô
và bằng các biện pháp cưỡng bức lao động, đã biến người nông dân thành công cụ
lao động và được toàn dụng một cách triệt để. Ngoài phần nộp tô cho địa chủ, để
có thể sống được người nông dân phải làm việc hết sức mình trên mảnh ruộng thuê


của địa chủ. Với điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, thất nghiệp, thiếu việc làm
chưa thể xuất hiện và chưa trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến.
Đến thời kỳ TBCN, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
mà đặc trưng của nó là chuyển từ lao động thủ công sang lao động bằng máy móc
đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động trên phạm vi toàn xã hội.
Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất TBCN và quá trình tích luỹ tư bản đã biến hàng
triệu nông dân trở thành những người vô sản, cung cấp lực lượng lao động cho sự
phát triển của CNTB trong quá trình công nghiệp hoá. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất TBCN, một mặt làm tăng thêm lượng cung về sức lao động do những
người sản xuất nhỏ bị phá sản trong cạnh tranh và gia tăng dân số tự nhiên. Mặt

khác, tích luỹ tư bản làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản tăng lên, trong khi đó tỉ lệ tư
bản khả biến quyết định quy mô cầu về sức lao động ngày càng giảm xuống một
cách tương đối so với tư bản bất biến. Trong quá trình tích luỹ tư bản, cầu về sức
lao động bổ sung cũng giảm xuống một cách tương đối do cường độ lao động sản
xuất tăng lên và do ngày lao động thường bị kéo dài. C.Mác viết: "Vì lượng cầu về
lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định, mà do quy mô của bộ
phận tư bản khả biến của tư bản quyết định, cho nên cùng với sự tăng lên của tổng
tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần giảm bớt đi chứ không phải tăng lên
theo tỷ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản" [13, tr.886]. Điều này đã dẫn đến tình
trạng nhân khẩu thừa tương đối và là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất
nghiệp trong nền sản xuất TBCN.
Số người lao động dư thừa không được sử dụng trong nền sản xuất TBCN là
hiện tượng kinh tế khách quan, là hậu quả của quá trình tích luỹ TBCN. Tuy nhiên,
đây chỉ là hiện tượng thừa tương đối so với nhu cầu của tư bản về sức lao động bổ
sung. Thất nghiệp, thiếu việc làm vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện tồn tại và
phát triển của phương thức sản xuất TBCN. Sự có mặt của những người thất
nghiệp muốn có việc làm không những tạo điều kiện cho nhà tư bản lợi dụng để
duy trì mức lương thấp, mà còn là cớ để đe doạ sa thải công nhân hoặc buộc họ
phải cam chịu tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, và giảm tiền lương
xuống thấp hơn giá trị sức lao động. Đồng thời, đội quân lao động hậu bị lại là sự


cần thiết để bổ sung cho nền sản xuất TBCN khi nền kinh tế trong thời kỳ phục
hồi. Số nhân khẩu thừa tương đối, hoặc là đội quân lao động hậu bị như V.I. Lênin
đã viết: "đó là những công nhân mà CNTB cần có cho trường hợp sắp tới có khả
năng mở rộng các xí nghiệp, nhưng họ vẫn không bao giờ có thể làm việc một cách
thường xuyên, nhân khẩu thừa là một yếu tố cần thiết của nền kinh tế TBCN,
không có nhân khẩu thừa thì kinh tế TBCN không thể tồn tại và cũng không thể
phát triển được" [12, tr.208].
Đội quân thất nghiệp dưới CNTB ngày càng gia tăng cùng với sự tăng quy

mô tích luỹ của tư bản. Mức độ thất nghiệp phụ thuộc vào các giai đoạn biến đổi
của chu kỳ công nghiệp, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và ngừng trệ. Tuy
vậy, ở thời kỳ hưng thịnh, thì thất nghiệp cũng không phải là hoàn toàn biến mất
mà nó chỉ được khắc phục một phần nào. Số người thất nghiệp luôn biến đổi còn
do sự thay đổi trong phân bố lao động trong từng ngành, từng vùng và giữa các
ngành, các vùng kinh tế khác nhau. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt
trong thời kỳ tổng khủng hoảng của CNTB, thất nghiệp đã trở thành căn bệnh trầm
kha của CNTB và trở nên phổ biến ngay cả ở những nước TBCN phát triển nhất.
Đứng trước tình trạng đó các nhà nước tư sản đã cố gắng tìm mọi cách để hạn chế,
nhưng mọi nỗ lực đều có hạn bởi không thể vượt qua những cản trở của quan hệ
sản xuất TBCN đã lỗi thời. Bằng chứng sinh động là trong những năm 1980-1984
số người thất nghiệp ở các nước TBCN đăng ký chính thức bình quân hàng năm là
25,5 triệu. Riêng năm 1984 các nước TBCN có 28,4 triệu người thất nghiệp, trong
đó ở Mỹ chiếm 8,5 triệu người. Tỉ lệ những người thất nghiệp đăng ký chính thức
trong số dân có khả năng lao động ở tất cả các nước TBCN là 8%, ở Mỹ là 7,5%,
ở các nước Tây Âu là 10% [25, tr.340]. Bên cạnh đó, nạn thất nghiệp bộ phận cũng
phát triển rộng rãi, nó biểu hiện ở việc không sử dụng hết thời gian của ngày làm
việc hoặc không sử dụng hết công suất sản xuất. Trong điều kiện hiện nay dưới tác
động sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm cho cơ cấu sản xuất
TBCN phải không ngừng biến đổi để thích nghi, theo đó mà tác động đến cả cơ
cấu thất nghiệp. Sự xuất hiện những ngành, lĩnh vực mới kéo theo sự hối thúc đội
ngũ người lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đòi hỏi đào


tạo công phu để thích ứng với điều kiện sản xuất mới. Đồng thời với quá trình đó
cũng tạo nên những tình cảnh mà người lao động không theo kịp do trình độ, sức
khoẻ, tuổi tác và khả năng lao động buộc phải bật khỏi guồng máy sản xuất và trở
thành người thất nghiệp. Điều đáng lưu ý là, số người thất nghiệp ngày nay ở các
nước TBCN không chỉ có những người lao động phổ thông mà còn có cả đông đảo
những người lao động trí thức.

Như vậy, CNTB tỏ ra bất lực trước tình trạng thất nghiệp. Điều đó cũng là
hiển nhiên bởi thất nghiệp, thiếu việc làm vừa là hậu quả của phương thức kinh
doanh tư bản, vừa là điều kiện phát triển CNTB. Nó được xem là phương cách của
các chủ tư bản chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Mục tiêu giải
quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm trong nền kinh tế thị trường TBCN chỉ
được xem là phương tiện duy trì sự ổn định tạm thời của CNTB chứ không phải là
mục đích của chế độ TBCN.
Dưới chế độ xã hội XHCN giải quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
luôn là mục tiêu phấn đấu trong mọi đường lối chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
của mọi quốc gia, trong mọi thời kỳ. Đó cũng là bản chất ưu việt của chế độ
XHCN, điểm khác nhau căn bản so với chế độ TBCN. Một trong những thành tựu
quan trọng của hệ thống XHCN hiện thực trước đây chính là đã giải quyết căn bản
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Trong thời kỳ này, các nước XHCN trong đó
có cả Việt Nam đã giải quyết cơ bản tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mọi
người đến tuổi lao động đều được vào làm việc trong thành phần kinh tế quốc
doanh, và kinh tế tập thể. Các nông trường, lâm trường, công trường, các hợp tác
xã tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp dưới
hai hình thức: quốc doanh và tập thể đã thu hút và tạo việc làm ổn định cho người
lao động. Trong thời kỳ này, người lao động không lo sợ bị thất nghiệp, thiếu việc
làm, bởi Nhà nước XHCN đã giải quyết việc làm ổn định cho mọi người lao động.
Giải quyết thất nghiệp, thiếu việc làm theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
quan liêu, bao cấp đã dần bộc lộ những hạn chế làm nảy sinh tư tưởng thụ động, ỷ
lại của người lao động, gây nên những lãng phí về sức lao động, của cải vật chất,


kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự trì trệ, tụt hậu của các nước XHCN trong những năm 80 của thế kỷ XX.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta từng bước chuyển đổi sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH đã tác động đến chuyển dịch lao động, phân bố và sử dụng lao

động xã hội theo hướng hiệu quả. Việc tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, phân công lại
lao động đều phải tính đến các yêu cầu khách quan của cơ chế thị trường và tác
động của các quy luật thị trường. Trong tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách giải quyết vấn đề thất nghiệp, thiếu việc làm. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã xác định: Bảo đảm việc làm cho người
lao động, trước hết ở thành thị và cho thanh niên là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng
đầu trong những năm tới. Nhà nước cố gắng tạo thêm nhiều việc làm và có chính
sách để người lao động tự tạo ra việc làm, tăng thu nhập. Sau 5 năm thực hiện nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tình hình giải quyết việc làm cho người
lao động vẫn chưa có kết quả đáng kể. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã
thông qua một loạt các văn kiện chứa đựng những quan điểm, giải pháp quan trọng
đối với vấn đề việc làm cho người lao động, trong đó đặc biệt nhấn mạnh nhân tố
con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Mọi chủ trương chính
sách giải quyết việc làm đều phải bám vào mục tiêu đó để phấn đấu. Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 của đất nước đã xác định giải
quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng
hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa
chọn công nghệ. Hội nghị Trung ương V (khoá VII) họp tháng 6 năm 1993, tiếp
tục bàn sâu thêm về chính sách nông nghiệp, nông thôn. Hội nghị đã đề ra phương
hướng giải pháp cụ thể đổi mới nông nghiệp, nông thôn, trong đó xác định giải
quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm là một nhiệm vụ cấp bách. Hội nghị đã
nhấn mạnh những năm trước mắt cần phải quan tâm giải quyết việc làm, nâng cao
thu nhập của người lao động. Chương trình giải quyết việc làm, phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn được Hội nghị xác định là: Phát triển đa dạng công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, khôi phục


và phát triển các làng nghề, nhà nghề; tranh thủ công nghệ hiện đại, kết hợp với
công nghệ truyền thống, chú trọng những công nghệ tốn ít vốn và tạo nhiều việc
làm. Các cơ sở phục vụ xuất khẩu cần nhanh chóng áp dụng công nghệ hiện đại để

tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Tiếp đó Hội nghị đại
biểu Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ (Khoá VII) nhấn mạnh: "Phương hướng quan
trọng nhất để tạo công ăn việc làm là nhà nước cùng toàn dân ra sức tiết kiệm để
đầu tư phát triển, thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích
mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước mở
rộng ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm nhanh số người
chưa có hoặc thiếu việc làm" [5. tr.51].
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ IV (khoá VIII) tháng 12 năm
1997 đã dành một phần nói về chủ trương, chính sách lớn tích cực giải quyết việc
làm. Hội nghị đã đề ra những vấn đề có tính nguyên tắc và xác định những vấn đề
cấp bách để giải quyết việc làm. Hội nghị đã nhấn mạnh: "Kết hợp chương trình
quốc gia giải quyết việc làm với chương trình dự án phát triển kinh tế để tạo nhiều
chỗ làm việc mới, đặc biệt là dự án đầu tư bằng vốn ngân sách và đầu tư của nước
ngoài. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các làng nghề truyền
thống, phát triển các ngành nghề ở nông thôn để giải quyết việc làm tại chỗ. Hoàn
thiện cơ chế quản lý và tăng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm" [6, tr.80]. Hội nghị đã
đánh giá sâu sắc những thành tựu và hạn chế, chỉ rõ những yếu kém trong chỉ đạo
và thực hiện giải quyết tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Trong đó nhấn mạnh:
cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, việc ứng dụng khoa học, công nghệ nhất là về
giống, cây trồng, vật nuôi còn hạn chế; công nghiệp chế biến, và ngành nghề kém
phát triển, thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá gặp nhiều khó khăn, khả năng
cạnh tranh của nông sản hàng hoá yếu, lao động dư thừa nhiều, cơ sở hạ tầng phục
vụ sản xuất và đời sống ở một số vùng còn thấp; tiềm năng về đất đai, rừng, biển
và lao động ở nhiều vùng chưa được khai thác có hiệu quả. Trên cơ sở đánh giá
đúng thực trạng Nghị quyết đã xác định một số chủ trương giải pháp để phát triển
kinh tế nông thôn, giải quyết việc làm là: đẩy mạnh CNH, HĐH trong nông nghiệp
và kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh thâm canh hình thành các vùng tập trung sản xuất


lúa, cây công nghiệp, rau quả, thực hiện thâm canh tăng vụ, sử dụng các giống có

năng suất cao gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; khuyến khích kinh tế hộ,
hợp tác xã và trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn. Nền kinh tế nhiều thành
phần trong nông nghiệp, nông thôn tồn tại lâu dài, đều được khuyến kích phát triển
mở rộng đầu tư tạo nhiều chỗ làm việc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở nông thôn là một vấn đề kinh tế - xã hội nổi cộm nhất hiện nay,
đồng thời đã chỉ rõ yêu cầu, giải pháp cơ bản giải quyết tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm là: "Bằng nhiều giải pháp, tạo ra nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời
gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành
phần kinh tế, mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử
dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn và vệ
sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động" [4,
tr.105].
Bộ Luật lao động đầu tiên ở nước ta được Quốc hội khoá IX thông qua đã
thực sự đánh dấu bước ngoặt quan trọng, tạo cơ sở điều kiện pháp lý cho giải quyết
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Ngày 11/4 /1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành Nghị quyết số 120/HĐBT về thực hiện chương trình quốc gia
giải quyết việc làm, trong đó đã nhấn mạnh: "Lập quỹ quốc gia về việc làm, cho
vay với lãi suất nâng đỡ đối với hộ tư nhân, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp tạo
được chỗ làm việc mới hoặc thu hút thêm lao động… mở rộng các trung tâm dạy
nghề và dịch vụ việc làm ở một số ngành, tổ chức xã hội và địa phương có yêu cầu
lớn về dạy nghề trước hết là cho thanh niên đến tuổi lao động" [10,tr.13]. Ngày
11/7/1998 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm đến năm 2010, mục cơ bản là giải quyết việc làm cho người lao động,
giảm tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỉ lệ thời gian lao động ở nông
thôn lên hơn 75%. Chính phủ đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc gia và quốc tế
về thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, phát triển ngành nghề, tạo công
ăn việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, mở rộng hợp tác đầu tư, xuất khẩu lao



động ra nước ngoài, liên kết đào tạo nghề, truyền nghề cho người lao động. Báo
cáo của Chính phủ tại Hội nghị nhóm tư vấn 12/1998 đã chỉ đạo các hoạt động hỗ
trợ như: quỹ quốc gia giải quyết việc làm, tiến hành các dự án hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển sản xuất, tạo việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp và thiếu
việc làm ở nông thôn [11, tr.19]. Gắn chương trình giải quyết việc làm với chương
trình kinh tế - xã hội khác như: chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc,
chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình phát triển đánh bắt xa bờ, chương
trình phát triển giao thông nông thôn, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
chương trình dân số kế hoạch hoá gia đình nâng cao chất lượng cuộc sống, chương
trình xoá đói giảm nghèo, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo, đặc biệt chú trọng đào tạo
nghề cho người lao động, tổ chức hội chợ việc làm... Thực hiện các chương trình,
kế hoạch giải quyết việc làm của Chính phủ các địa phương đã cụ thể hoá thành
các chương trình, kế hoạch, dự án, biện pháp giải quyết việc làm phù hợp với đặc
điểm tình hình kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh.
Như vậy, thất nghiệp, thiếu việc làm trong nền kinh tế thị trường là một hiện
tượng kinh tế khách quan. Song dưới CNXH Đảng, Nhà nước và các cấp chính
quyền địa phương thường xuyên quan tâm giải quyết việc làm, coi đó là nhiệm
kinh tế - xã hội vì con người, do con người.
1.2. Thực trạng và nguyên nhân thiếu việc làm ở Hưng Yên
1.2.1. Thực trạng thiếu việc làm ở Hưng Yên
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường tình trạng thiếu việc làm đã trở
thành hiện tượng phổ biến không chỉ đối với Hưng Yên mà còn trên phạm vi cả
nước. Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương trong đó có Hưng Yên đã có
nhiều cố gắng tập trung giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên do
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên giải quyết tình trạng thiếu việc
làm vẫn chưa được như mong muốn. Thực trạng lao động thiếu việc làm của Hưng
Yên trong những năm từ khi tái lập Tỉnh đến nay có thể được xem xét trên những
nội dung chủ yếu sau đây:
Một là: Thiếu việc làm phân theo vùng lãnh thổ:



Là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, do đặc điểm vị trí địa lý nên Hưng
Yên có hai vùng kinh tế chủ yếu là thành thị và nông thôn. Ở các vùng nông thôn
trong Tỉnh tỉ lệ thất nghiệp thấp hơn so với các thị trấn, thị xã và các khu công
nghiệp tập trung. Nhưng đặc trưng nổi bật ở các vùng nông thôn là hiện tượng
thiếu việc làm trở thành phổ biến, kéo dài và đáng lo ngại. Kết quả điều tra lao
động, việc làm của Tỉnh năm 2003 cho thấy tỉ lệ lao động có đủ thời gian làm việc
ở khu vực nông thôn chỉ chiếm 72,7%. Số lao động thiếu việc làm ở khu vực này
vẫn chiếm tỉ lệ cao 27,3% và số người không có việc làm 4,1%. Số người thiếu
việc làm ở thị xã, thị trấn là 16,9%, đủ việc làm 83,1% và không có việc làm là
7,6%. Tính chung trong toàn Tỉnh số người đủ việc làm 74,2%, số người thiếu việc
làm 25,8% và không có việc làm 4,62 (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tình hình lao động thiếu việc làm và tỉ lệ thời gian lao động
được sử dụng ở các vùng trong tỉnh Hưng Yên năm 2003
Đơn
vị
Tổng dân số tỉnh Hưng
Yên

cả tỉnh

Người

Khu

vực thành

vực nông


thị

thôn

112.91

999.537

451

4

89,85

100

10,15

Người

549.91

82.873

467.042

%

5


15,06

84,94

Tỉ lệ
động

Khu

1.112.

%

Tổng số lực lượng lao

Chung

Tỉ lệ

100

1. Số người có việc làm

Người

524.46

76.575

447.894


- Đủ việc làm

Người

9

63.633

325.618

Tỉ lệ

%

389.25

83,10

72,70

Người

1

12.942

122.276

%


74,20

16,90

27,30

- Thiếu việc làm
Tỉ lệ

135.21
8


25,80
2. Số người thất nghiệp
Tỉ lệ

Người

25.446

6.298

19.148

%

4,62


7,60

4,10

Nguồn: Báo cáo dân số, lao động, việc làm ở Hưng Yên - Sở lao động
thương binh - xã hội. Năm 2003 [17, tr.5]
Thực trạng trên đây cho thấy, đến nay Hưng Yên vẫn là một tỉnh nông
nghiệp, cư dân nông thôn chiếm gần 89,85%, thành thị 10,5%. Việc phấn đấu để
giảm tỉ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động là một trong những vấn đề cần
được quan tâm hàng đầu hiện nay cả về mặt kinh tế và xã hội. Phần lớn các hộ đói
nghèo trong vùng thuần nông là do thiếu việc làm, thu nhập không ổn định. Đây
chính là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến phân hoá giữa hộ giầu và hộ nghèo, đẩy
nhanh tốc độ phân cực xã hội. Phân hoá giầu nghèo dẫn đến phân tầng trong văn
hoá, giáo dục và nguy cơ mất việc làm, hoặc không kiếm được việc làm của con
em các hộ đói, nghèo càng lớn. Thực trạng thiếu việc làm trong nông thôn đi liền
với các tệ nạn xã hội: rượu, chè, nghiện hút, trộm cắp, buôn lậu, mại dâm, và gây
nên những vấn đề xã hội phức tạp khác.
Như vậy, thiếu việc làm không chỉ làm lãng phí sức lao động, kìm hãm tốc
độ tăng trưởng kinh tế mà còn làm biến dạng các giá trị văn hoá truyền thống, băng
hoại đạo đức xã hội, vì thế giải quyết việc làm cho người lao động là một nội dung
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên hiện
nay.
Hai là: Thiếu việc làm phân theo nhóm tuổi
Theo phân tích của Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Hưng Yên, trong
cách phân nhóm theo lứa tuổi, điều đáng chú ý là số người trẻ tuổi trong tổng số
lao động thất nghiệp, thiếu việc làm chiếm một tỉ lệ rất cao. Theo thống kê năm
2003 số người thiếu việc làm của toàn tỉnh trong độ tuổi từ 15 đến 34 chiếm
76,34%. Trong đó, tỷ lệ thiếu việc làm ở độ tuổi từ 15 - 24 là cao nhất chiếm
52,59% tổng số người thiếu việc làm toàn Tỉnh, tiếp đến là nhóm tuổi từ 25 -34
chiếm tỉ lệ 23,4% (xem bảng 1.2). Thất nghiệp, thiếu việc làm trong nhóm tuổi 15



-24 chiếm tỉ lệ cao bởi nhóm này mới bước vào tuổi lao động còn non kém về
kinh nghiệm tìm việc làm và tự tạo việc làm, mặt khác công tác định hướng nghề
nghiệp của các cấp chính quyền địa phương, nhà trường phổ thông chưa quan tâm
đúng mức.
Bảng 1.2 Tỉ lệ thiếu việc làm của các nhóm tuổi ở Hưng Yên năm
2003
Đơn vị: %
CHIA THEO NHÓM TUỔI
Độ tuổi

15-24

25-34

35-44

45-54

55-59

Thành

52,03

23,86

15,19


7,17

1,3

Nông

54,39

22,65

13,06

7,03

1,49

thị

thôn
Nguồn: Báo cáo, dân số, lao động, việc làm ở Hưng Yên. Sở lao động
thương binh - xã hội năm 2003. [17. tr.7]
Thực trạng trên cho thấy lực lượng lao động trẻ thiếu việc làm chiếm tỉ lệ
cao, đồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế
- xã hội. Bởi vì, nhóm lao động này có ưu thế về thể lực và tiềm năng về trí tuệ.
Mặt khác, tình trạng thiếu việc làm trong nhóm lao động trẻ dễ làm nảy sinh nhiều
hiện tượng tiêu cực, phức tạp. Các tệ nạn xã hội từ tầng lớp thanh niên thiếu việc
làm rất khó kiểm soát, ảnh hưởng lâu dài và lan tràn nhanh ra các vùng lân cận
trong toàn xã hội. Đây là điều mà trong chính sách kinh tế - xã hội, giải quyết việc
làm cho đối tượng thanh niên phải được quan tâm đặc biệt.
Ba là: Thiếu việc làm phân theo trình độ học vấn và chuyên môn kỹ

thuật nghề nghiệp
Hưng Yên đang trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Trong cơ cấu lao động đang tồn tại ở


Hưng Yên hiện nay lao động thiếu việc làm chiếm tỉ lệ cao ở nhóm người không
có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong khi đó lao động có chuyên môn kỹ thuật lại
thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Theo điều tra
trong 23 doanh nghiệp trong tỉnh kết quả cho thấy: các doanh nghiệp đều có nhu
cầu tuyển dụng lao động là công nhân kỹ thuật có trình độ nghề nghiệp từ sơ cấp
trở lên, nhưng nguồn đáp ứng còn thiếu nghiêm trọng. Trong khu công nghiệp Phố
Nối, Như Quỳnh hiện nay hàng năm cần khoảng hơn 2000 công nhân có trình độ
chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp hoặc đào tạo nghề trở lên, nhưng thường chỉ
tuyển được 60% lao động trong tỉnh. Do vậy, số lao động thiếu việc làm ở Hưng
Yên phần lớn là do không có trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Số lao động từ 15
tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực thành thị không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật chiếm đến 54,24%, có trình độ sơ cấp học nghề 1à 14,76%,
có trình độ chuyên môn kỹ thuật được cấp bằng là 31%. Tương tự như vậy, tỉ lệ
này ở nông thôn là 70,19%; 20,81%; 8,78%. Đây cũng là tình trạng phổ biến hiện
nay trong cả nước. Song điều đặt ra đáng phải suy nghĩ đối với một tỉnh đồng
bằng, điều kiện vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều khả năng phát triển kinh tế, mở rộng
ngành nghề, người lao động có truyền thống cần cù, thông minh sáng tạo như
Hưng Yên. (Xem bảng 1.3)
Bảng 1.3. Cơ cấu số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường
xuyên trong 12 tháng qua chia theo nhóm trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Đơn
vị: %
Không có
Đơn vị


chuyên môn kỹ

Sơ cấp học
nghề trở lên

Chuyên môn
kỹ thuật có bằng

thuật
Thành thị

54,24

14,76

31,00

Nông thôn

70,19

20,81

8,78

Toàn tỉnh

62,21

17,78


19,89


Nguồn: Dân số, lao động, việc làm, Nxb Tổng cục thống kê, Hà Nội
6/2004 [23. tr 45- 48].
Như vậy, tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở Hưng Yên chủ yếu là do không
có trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp giáo
dục và đào tạo ở nước ta nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng là cần quan tâm
chú trọng đào tạo nghề, coi đó là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Tuy nhiên, tình
trạng sử dụng nguồn nhân lực không đúng với trình độ chuyên môn nghề nghiệp
được đào tạo đang diễn ra, vì thế không phát huy hết được khả năng của người lao
động, đó là biểu hiện của thất nghiệp trá hình. Theo kết quả điều tra khảo sát của
Sở lao động thương binh - xã hội Tỉnh thì chỉ có 48,8% nhân lực đã qua đào tạo
được sử dụng đúng với ngành nghề chuyên môn. Học sinh tốt nghiệp các ngành
nông, lâm nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp chỉ có 40% làm việc đúng
ngành nghề, số sinh viên tốt nghiệp đại học ở khoa nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có
20 % lao động đúng ngành nghề trong địa bàn Tỉnh. Tình trạng đó đòi hỏi phải đổi
mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu, giáo
dục đào tạo phải bám sát với đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế - xã hội.
Qua phân tích ở bảng 1.4 cho thấy trình độ học vấn của lực lượng lao động
trong tỉnh còn thấp. Số người hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực thành thị
có trình độ học vấn cao hơn số người hoạt động kinh tế thường xuyên ở khu vực
nông thôn. Theo số liệu thống kê năm 2003 chỉ rõ số lao động hoạt động kinh tế
thường xuyên, ở thị xã, thị trấn, khu công nghiệp chưa biết chữ chiếm tỉ lệ 0,55%;
số lao động chưa tốt nghiệp tiểu học 6,12%; số lao động đã tốt nghiệp tiểu học là
16,73%; đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở là 55,34%; số lao động đã tốt nghiệp phổ
thông trung học là 21,26%. Ở nông thôn tỉ lệ lao động hoạt động kinh tế thường
xuyên chưa biết chữ là 0,57%; số lao động chưa tốt nghiệp tiểu học là 6,50%; số
lao động đã tốt nghiệp tiểu học là 17,46%; số lao động đã tốt nghiệp phổ cơ sở là

56,65% và số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học là 18,81% (xem bảng 1.4).
Bảng 1.4 Cơ cấu số người đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
thường xuyên trong 12 tháng chia theo trình độ học vấn.
Đơn vị: %


Đơn
vị

Chưa
biết chữ

Chưa tốt

Đã tốt

Đã tốt

Đã tốt

nghiệp tiểu nghiệp tiểu nghiệp phổ nghiệp phổ
học

học

thông cơ sở thông trung
học

Thành


0,55

6,12

16,72

55,34

21,26

Nông

0,54

6,50

17,46

56,65

18,84

Toàn

0,54

6,31

17,09


55,99

20,05

thị
thôn
tỉnh
Nguồn: Dân số, lao động, việc làm năm 2003, Nxb Tổng Cục thống
kê, H.6/2004, [23. tr. 21 - 33].
Như vậy, việc phân bố lao động trên đây cho thấy, lực lượng lao động
ở thành thị có trình độ học vấn cao hơn so với lao động ở nông thôn. Điều này
phản ánh thực tế khách quan quá trình phân công lại lao động và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn diễn ra
chậm chạp, biểu hiện tính chất thuần nông nghiệp còn tồn tại phổ biến và khá lâu
dài ở Hưng Yên. Điều đó làm cho tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm trở thành
"căn bệnh" kinh tế - xã hội phức tạp đòi hỏi các cơ quan lãnh đạo, chính quền địa
phương phải đặc biệt quan tâm giải quyết.
Bốn là: Thực trạng thiếu việc làm phân theo thành phần kinh tế
Trước hết phải nói đến tình hình thiếu việc làm của lao động trong khu
vực kinh tế nhà nước. Đây là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, chi phối các
thành phần kinh tế khác. Do đó, cố gắng giải quyết việc làm trong khu vực này sẽ
có ý nghĩa củng cố vai trò, uy tín của khu vực kinh tế nhà nước, đồng thời có tác
động không nhỏ đến các khu vực khác của nền kinh tế.
Trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hưng
Yên theo hướng cổ phần hoá đã xuất hiện tình trạng dôi dư lao động khá phổ biến
ở nhiều doanh nghiệp. Thành phần kinh tế nhà nước sau khi sắp xếp lại ở thời điểm
năm (2002) chỉ thu hút được 57.010 người chiếm 10,87% tổng lao động. So với


năm 1997 số lao động trong doanh nghiệp nhà nước thu hút trên địa bàn là 83.400

người. Như vậy, số lao động dôi dư từ khu vực kinh tế nhà nước sau khi sắp xếp lại
chiếm 26.390 người bằng 1/3 tổng số lao động trước khi sắp xếp [19, tr.88]. Số lao
động này để có thể tái sử dụng và thích ứng với sự phân công lao động mới đòi hỏi
phải có thời gian đào tạo lại. Đây thực sự đang là gánh nặng của doanh nghiệp nhà
nước và tích tụ những vấn đề chính sách xã hội mà địa phương phải giải quyết.
Trước đổi mới, thành phần kinh tế hợp tác ở địa bàn tỉnh Hưng Yên là
khu vực thu hút hầu hết lực lượng lao động trong tỉnh. Từ khi chuyển sang cơ chế
thị trường, các hợp tác xã kiểu cũ bị giải thể hàng loạt, người lao động làm việc
trong mô hình kinh tế hộ gia đình, theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình thực hiện Luật hợp tác xã (sửa đổi 1997) mô hình hợp tác kiểu mới
ra đời, tuy nhiên đến nay thành phần kinh tế này phát triển rất chậm chạp. Đến năm
2002 mới chỉ có 163 hợp tác xã kiểu mới, thu hút được 14.520 lao động chiếm
2,76% tổng lao động toàn tỉnh [19, tr.101]. Mặc dù, thành phần kinh tế hợp tác
đang có xu hướng tăng lên cả về tỉ trọng GDP và tỉ lệ lao động, nhưng so với các
thành phần kinh tế khác thì tỉ lệ lao động trong thành phần kinh tế này còn hết sức
nhỏ bé. Điều đó phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động
trong các thành phần kinh tế diễn ra chậm chạp, khó khăn cho công tác quản lý lao
động, phân công lao động, phân bố dân cư trên địa bàn.
Hiện nay, trên địa bàn Hưng Yên, lao động phổ biến làm việc trong
thành phần kinh tế tư nhân, cá thể. Theo kết quả điều tra của Tổng Cục thống kê
năm 2002 số lao động trong khu vực kinh tế cá thể là 271.800 người chiếm
51,83% tổng số lao động có việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân 17.300 người chiếm
3,29%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 8750 người chiếm 1,66% tổng số
lao động có việc làm, khu vực kinh tế hỗn hợp 3300 người chiếm 0,62% tổng số
lao động có việc làm [19, tr.105, 110]. Ngoài ra còn hơn 20% lực lượng lao động
làm việc trong các cơ quan hành chính. Đặc điểm nổi bật trong thành phần kinh tế
tư nhân cá thể là việc làm bấp bênh, thiếu ổn định. Theo tổng hợp của Tổng Cục
thống kê năm 2003, ở vùng nông thôn thời gian lao động 180 ngày đến dưới 200
ngày/ năm chiếm tới 25,39%; từ 200 ngày đến dưới 240 ngày/ năm chiếm 25,97%,



điều đó đồng nghĩa với tình trạng thiếu việc làm [23, tr.57, 60]. Thời gian lao động
trong các doanh nghiệp tư nhân, trong các xí nghiệp, các đội nhóm sản xuất mang
tính thời vụ, trong đó rõ nhất là các ngành xây dựng, may mặc… thời gian lao
động trong các xí nghiệp này liên tục bị co giãn và thường không đảm bảo được số
ngày làm việc/ năm và số giờ làm việc/ tuần, đó là biểu hiện của thiếu việc làm.
Hiện trạng lao động trong các thành phần kinh tế ở Hưng Yên phản ánh sự
bất hợp lý giữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động. Trong
khi các thành phần kinh tế đang đổi mới sắp xếp tổ chức sản xuất kinh doanh theo
hướng CNH, HĐH cần nhiều lao động có trình độ chuyên môn nghề nghiệp được
đào tạo, thì nguồn lực lao động lại phổ biến là lao động thủ công. Mặt khác, tỉ lệ
lao động trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã chiếm tỉ trọng
lao động rất nhỏ, đó là trở ngại cho công tác giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở
Hưng Yên.
Như vậy, thất nghiệp, thiếu việc làm ở Hưng Yên hiện nay vẫn còn là
vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp, đang là lực cản đến tiến trình đẩy nhanh
CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn, tác động không nhỏ đến an sinh xã hội và
củng cố quốc phòng.
1.2.2. Nguyên nhân thiếu việc làm ở Hưng Yên
Thiếu việc làm là một hiện tượng kinh tế, xã hội gắn liền với sự vận động
của nền kinh tế thị trường. Với tính đặc thù của một tỉnh thuần nông nghiệp, đang
trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, thất
nghiệp, thiếu việc làm ở Hưng Yên có thể được xem xét bởi những nguyên nhân
cơ bản sau đây:
Một là, sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, yêu cầu sắp xếp lại tổ chức, hoạt động trong khu vực kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, dẫn đến có một lực lượng lao động dôi dư.
Do hậu quả của cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp đã dẫn đến tình
trạng "nhà nước hoá" trong việc đào tạo, sắp xếp bố trí tuyển dụng lao động đến
thôi việc. Nhà nước thực hiện "biên chế suốt đời", chế độ tiền lương do nhà nước

bao cấp và chi trả do đó quan hệ lao động bị hành chính hoá. Người lao động khi


vào biên chế nhà nước sẽ được nhà nước bao cấp nuôi suốt đời. Vì vậy, đã tạo ra
tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự sắp xếp việc làm của nhà nước, chính sách phân phối
bình quân nên việc làm cũng bình quân chia đều, triệt tiêu động lực thúc đẩy người
lao động học tập, sáng tạo nâng cao trình độ tay nghề. Bước vào cơ chế thị trường
cũng như các tỉnh khác trong cả nước, các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh cũng
phải thực hiện hạch toán kinh doanh, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa
bàn, thực hiện đổi mới công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để thực
hiện điều đó buộc các doanh nghiệp nhà nước phải tổ chức lại sản xuất và đầu tư
đổi mới công nghệ, sắp xếp lại quản lý và lao động, một số doanh nghiệp phá sản,
do đó một bộ phận lao động không đáp ứng với yêu cầu mới bị loại khỏi quá trình
sản xuất trở thành thất nghiệp, thiếu việc làm.
Các hợp tác xã kiểu cũ giải thể hàng loạt, chuyển sang tổ chức sản xuất mới,
nhiều cán bộ quản lý, kế toán trong các ban quản trị và người lao động bị thất
nghiệp, thiếu việc làm. Quá trình chuyển đổi các hợp tác xã diễn ra chậm chạp, các
hợp tác xã mới hình thành còn non kém trong tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh
thua lỗ cũng là nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm .
Các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể và kinh tế hộ gia đình chiếm tỉ trọng
lao động lớn nhưng do tính chất cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, các thành
phần kinh tế này sức cạnh tranh yếu, cộng với tính chất tiểu nông, nhỏ lẻ từ lâu đời
đã hạn chế sự vươn lên của khu vực kinh tế nông nghiệp trong tỉnh. Sản xuất kinh
doanh mang nặng tính chất tự nhiên, bấp bênh, thiếu nhạy bén trong tìm nguồn đầu
vào, và đầu ra, dẫn đến thu lỗ, phá sản, lao động trở thành thất nghiệp, thiếu việc
làm .
Hai là, do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp nên khả năng
tạo việc làm hạn chế, không thu hút được nhiều lao động, dẫn đến thất nghiệp
thiếu việc làm.
Theo số liệu thống kê của tỉnh, ở thời điểm năm 2003 lao động nông nghiệp

chiếm 74,3% tổng lực lượng lao động, chỉ có 13,4% lao động trong công nghiệp
xây dựng, tiểu thủ công nghiệp và 12,2% trong ngành dịch vụ, còn trong cơ cấu sử
dụng đất nông nghiệp vẫn dành chủ yếu cho trồng cây lương thực là 102 nghìn ha,


trong đó trồng lúa 89.5 nghìn ha chiếm 68,6% diện tích đất nông nghiệp, diện tích
trồng cây công nghiệp hàng năm 1500 ha chiếm 31,4% diện tích đất nông nghiệp
[17, tr.17]. Điều đó cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn diễn ra rất chậm, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng trong Tỉnh. Vì thế tỉ lệ thời gian lao động
được sử dụng ở khu vực nông thôn thấp, tình trạng thiếu việc làm diễn ra phổ biến.
Hiện nay, lực lượng lao động ở vùng nông thôn trong tỉnh chiếm tỉ lệ cao
(89,85%). Để tạo việc làm thu hút lao động lại phụ thuộc vào đầu tư vốn, quy mô
ruộng đất và hiệu quả sử dụng ruộng đất, cũng như quy mô ngành nghề còn hạn
chế. Là một tỉnh thuần nông, trồng lúa là chủ yếu, bình quân ruộng đất đầu người
thấp (225,5 m2/ người), trong khi quá trình đô thị hoá, xây dựng các công trình
thuỷ lợi, do sự phát triển mạnh mẽ các thị tứ, thị trấn, thị xã, các khu công nghiệp
tập trung trên địa bàn đã chiếm đi một phần đất canh tác. Đến nay các khu công
nghiệp Phố Nối, Như Quỳnh, Chợ Gạo, đang hoàn thành, điều này tạo cơ hội cho
thu hút đầu tư, phát triển ngành nghề và thu hút lao động trong Tỉnh, nhưng cũng
làm cho hàng trăm ha đất nông nghiệp phải chuyển đổi mục đích sử dụng, theo đó
số lao động nông nghiệp dôi ra sẽ phải đối phó với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
và thích ứng với quá trình đó. Trong khi đó phân công lại lao động ở nông thôn
diễn ra chậm chạp. Trình độ của lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn chưa
thích ứng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào tạo nghề cho người lao
động chưa được quan tâm đúng mức, họ không được dung nạp vào làm việc ở các
khu công nghiệp, nên đã làm cho tình trạng thiếu việc làm thêm trầm trọng.
Điều đáng lo ngại hơn là trong số những người thiếu việc làm ở nông thôn
thì đại bộ phận là không có nghề, không có vốn, thiếu ruộng đất, cá biệt không có
ruộng đất. Điều tra ở các vùng thuần nông trong tỉnh cho thấy có tới 70 - 80% số

hộ thiếu vốn, 30- 40 % số hộ thiếu đất canh tác và phương tiện sản xuất [17, tr.15].
Ở một số nơi trong tỉnh đã xuất hiện tích tụ ruộng đất, số lao động nông nghiệp
thiếu ruộng đất và không có ruộng đất tăng lên. Trong khi đó quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn diễn ra chậm chạp. Việc khôi phục và
phát triển các làng nghề, nhà nghề ở nông thôn chưa được chú trọng, phần lớn các


hộ ngành nghề lao động thủ công hoặc trang bị máy móc cũ, năng suất lao động
thấp. Mặc dù, các làng nghề truyền thống được khôi phục nhưng số lượng, quy mô
nhỏ bé nên không đủ sức dung nạp số lao động dư thừa. Thực tế này cho thấy nguy
cơ thiếu việc làm ở các vùng thuần nông trong tỉnh rất khó có thể giải quyết trong
thời gian ngắn. Do sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế đang diễn ra chạm chạp trên địa
bàn tỉnh, lực lượng lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao, trong đó lao
động trong trồng trọt và chăn nuôi chiếm tỉ trọng: 66,7%. Mặt khác, khả năng thâm
canh gối vụ còn hạn chế, cộng với tính chất mùa vụ đã làm cho thiếu việc làm chưa
thể giải quyết một cách đáng kể.
Ba là, do cung lao động chưa phù hợp với cầu lao động về số lượng, chất
lượng và cơ cấu.
Sự gia tăng dân số cao trong những năm trước làm cho chu kỳ dân số
đến độ tuổi lao động trong những năm gần đây liên tục tăng. Thêm nữa nhờ thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải
thiện, y tế cộng đồng, giáo dục dinh dưỡng sức khoẻ của nhân dân được nâng cao,
tỉ lệ tử vong trẻ em giảm, tuổi thọ của dân cư tăng làm cho số người có khả năng
lao động tăng cao. Đó là một thế mạnh trong phát triển kinh tế, đồng thời lại là sức
ép giải quyết vấn đề thiếu việc làm do cung lao động liên tục gia tăng trong khi cầu
về nguồn nhân lực trong tỉnh giải quyết việc làm có hạn [xem bảng 1.5].
Bảng 1.5 cho thấy, từ năm 1999 đến năm 2003 tỉ lệ tăng số người trong độ
tuổi lao động ở Hưng Yên là 3,34 % đồng nghĩa với cung lao động tăng. Trong khi
đó cầu về lao động phụ thuộc vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quy mô
đầu tư, mở rộng sản xuất tăng chậm hơn dẫn đến một bộ phận lao động không có

việc làm. Cung lao động chưa phù hợp với cầu lao động, biểu hiện nguồn cung lao
động của tỉnh hiện nay chủ yếu là lao động không có chuyên môn kỹ thuật thì cầu
về lao động đòi hỏi chủ yếu là lao động chuyên môn kỹ thuật cao, các nhà quản lý
am hiểu cơ chế thị trường. Tình hình trên đã dẫn đến thực trạng hiện nay là trong
khi hàng nghìn người không có chuyên môn kỹ thuật không tìm được việc làm, thì
ở một số ngành nghề và cơ sở sản xuất kinh doanh đang thiếu lao động kỹ thuật có
trình độ chuyên môn nghề nghiệp và trình độ kỹ thuật phù hợp. Điều đó tất yếu


×