Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ẢNH HƯỞNG của tư TƯỞNG TRIẾT học NHO GIÁO đến xây DỰNG đạo đức CÁCH MẠNG của đội NGŨ cán bộ QUÂN sự địa PHƯƠNG QUÂN KHU 5 HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.61 KB, 111 trang )

1
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chỉ huy quân sự

CHQS

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Công tác đảng, công tác chính trị

CTĐ, CTCT

Đạo đức cách mạng

ĐĐCM

Lực lượng vũ trang

LLVT

Quân đội nhân dân



QĐND

Quân sự địa phương

QSĐP

Quốc phòng, quân sự địa phương

QP,QSĐP


2

MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU
Chương 1 THỰC CHẤT ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO
GIÁO ĐẾN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUÂN SỰ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN KHU 5 HIỆN NAY
1.1

11

Quan niệm về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương
11


Quân khu 5
1.2

Đặc điểm ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân khu 5

33

Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY
ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, KHẮC PHỤC ẢNH HƯỞNG TIÊU
CỰC CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐẾN XÂY
DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUÂN
SỰ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN KHU 5 HIỆN NAY
2.1

52

Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương
52

Quân khu 5
2.2

Một số giải pháp cơ bản phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục ảnh
hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân Khu 5

73


KẾT LUẬN

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

97

PHỤ LỤC

100
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN)
đòi hỏi phải có con người mới hội tụ những phẩm chất cần thiết, được xây


3
dựng trên nền tảng đạo đức cách mạng (ĐĐCM), trong đó, đội ngũ cán bộ có
vị trí, vai trò rất quan trọng. Vì thế, xây dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ nói
chung, cán bộ quân đội nói riêng để đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn
đất nước trong giai đoạn hiện nay đã trở thành vấn đề thường xuyên và cấp bách.
Hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đội ngũ cán bộ quân sự
địa phương (QSĐP) Quân khu 5 luôn trau dồi phẩm chất ĐĐCM, đây là một
trong những nhân tố cơ bản, đảm bảo cho Quân khu luôn hoàn thành tốt nhiệm
vụ công tác quốc phòng, quân sự địa phương (QP,QSĐP). Hiện nay, trước sự
phát triển về yêu cầu nhiệm vụ, đòi hỏi phẩm chất ĐĐCM của đội ngũ cán bộ
QSĐP Quân khu 5 phải được xây dựng, nâng lên tầm cao mới.
ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 là kết quả tổng hợp của

nhiều hoạt động, trong đó có sự phủ định biện chứng ảnh hưởng của tư tưởng
triết học Nho giáo, bởi lẽ: tuy là sản phẩm của xã hội Trung Hoa cổ đại,
nhưng Nho giáo lại có mặt rất sớm ở Việt Nam, để lại dấu ấn sâu đậm trong
đời sống tinh thần, đạo đức của nhân dân ta. Hiện nay, mặc dù Nho giáo
không còn cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại, song với tư cách là một học thuyết
về chính trị- xã hội và đạo đức được tiềm ẩn trong văn hoá truyền thống dân
tộc, những tàn dư của nó vẫn còn ảnh hưởng nhất định, cả tích cực lẫn tiêu
cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, qua đó ảnh hưởng đến xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5.
Xác định đúng thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo, đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của nó đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân
khu 5 là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, không chỉ đáp ứng yêu cầu
xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP, hoàn thành tốt nhiệm vụ công
tác QP,QSĐP của Quân khu 5, mà còn góp phần tích cực vào sự nghiệp xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng, phát triển đất nước trong giai đoạn hiện
nay.


4
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Ảnh hưởng của
tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ quân sự địa phương Quân khu 5 hiện nay” để làm luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Trong lịch sử, Nho giáo không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Trung
Quốc mà còn ảnh hưởng khá toàn diện đến xã hội các nước trong “vành đai
Nho giáo” như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên… Hiện nay, Nho giáo vẫn
còn in đậm dấu ấn và có những tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã
hội của các nước nói trên. Trước thực trạng này, các học giả quốc tế và trong
nước đã thống nhất cho rằng: cần tiếp tục nghiên cứu về Nho giáo để có thái

độ đúng đắn đối với một học thuyết có ảnh hưởng lớn đến tư tưỏng, tình cảm
và sinh hoạt ở nhiều nước phương Đông ngày nay, trong đó có Việt Nam.
Đáp ứng yêu cầu đó, thời gian qua, việc nghiên cứu về Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đến đời sống mọi mặt của người Việt Nam cả trong quá khứ và
hiện tại, đã được giới khoa học nước ta quan tâm đúng mức và thu được nhiều
kết quả quan trọng. Các công trình khoa học tiêu biểu, có giá trị lớn đã được
công bố như: Tổng cục Chính trị “Một số hiểu biết về tôn giáo - tôn giáo ở
Việt Nam”, Nxb QĐND, Hà Nội 1993; Vũ Khiêu “Nho giáo xưa và nay”,
Nxb KHXH, Hà Nội 1991, “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam”, Nxb KHXH,
Hà Nội 1997; Nguyễn Tài Thư “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo
đối với con người Việt Nam hiện nay”, Nxb CTXH, Hà Nội 1997; Nguyễn
Đăng Duy “Nho giáo với văn hoá Việt Nam”, Nxb Hà Nội, 1998; Phan Đại
Doãn “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam”, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998;
Trần Thị Hồng Thuỷ, Luận án Tiến sĩ triết học “Ảnh hưởng của Nho giáo đối
với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống”, Hà Nội 1996; Nguyễn
Thanh Bình, Luận án Tiến sĩ triết học “Học thuyết chính trị - xã hội của Nho
giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX”,
Hà Nội 2005; Nguyễn Thị Tuyết Mai, Luận án Tiến sĩ triết học “Quan niệm


5
của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người”, Hà Nội
2005…
Điểm chung nhất của các công trình khoa học trên đây là, chỉ ra được
mối liên hệ chặt chẽ giữa học thuyết Nho giáo với nền văn hoá và sự phát
triển của Việt Nam trong tiến trình lịch sử, khẳng định học thuyết đó còn tồn
tại tất yếu, đã và đang ảnh hưởng nhất định đến đời sống tinh thần, đạo đức của
nhân dân ta; đồng thời, đưa ra được những dự báo xác đáng về ảnh hưởng đó
đến xã hội ta trong tương lai, cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà
nước hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trọng

tâm là các chủ trương, chính sách liên quan đến xây dựng nền đạo đức mới,
con người mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới và xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đảm bảo cho văn hoá luôn
giữ được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của đất nước.
Về ĐĐCM và xây dựng ĐĐCM của người Việt Nam trong thời đại mới,
đặc biệt là vấn đề xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quân
đội, cũng thu hút được sự quan tâm đầu tư nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học. Một số công trình có giá trị lý luận và thực tiễn đã được công bố gần đây
như: Tổng cục Chính trị “Nâng cao đạo đức cách mạng đội ngũ cán bộ chính
trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới”, Nxb QĐND, Hà Nội
2006; Vũ Khiêu (chủ biên) “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống
và nhân loại”, Nxb KHXH, Hà Nội 1993; Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) “Sự
biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây
dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay”, Nxb CTQG, Hà
Nội 1999; Lê Thị Thuỷ, Luận án Tiến sĩ triết học “Vai trò của đạo đức với sự
hình thành nhân cách người Việt Nam trong tình hình mới hiện nay”, Hà Nội
2001; Nguyễn Văn Bình, Luận án Tiến sĩ triết học “Quan niệm Nho giáo về
các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày
nay”, Hà Nội 2001; Nguyễn Hùng Oanh, Luận án Tiến sĩ triết học “Phát


6
triển đạo đức cách mạng ở người thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam
trong tình hình hiện nay”, Hà Nội 2002; Nguyễn Thị Thanh Mai, Luận án
Tiến sĩ triết học “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán
bộ lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội 2007…
Các công trình khoa học nêu trên không những tiếp tục khẳng định vị trí,
vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của ĐĐCM đối với việc hoàn thiện nhân
cách, phát triển năng lực và nâng cao tính hữu ích của con người Việt Nam
nói chung, của một số đối tượng công dân cụ thể nói riêng, mà còn nghiên

cứu một cách nghiêm túc, sâu sắc, có hệ thống tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, khẳng định vị trí chủ đạo của tư tưởng đó trong quá trình xây dựng
ĐĐCM của nhân dân ta hiện nay. Mặt khác, những công trình khoa học trên
đây, bên cạnh chỉ ra thực chất của sự biến đổi về giá trị và thang giá trị đạo đức
đang diễn ra phổ biến ở nước ta bởi tác động của cơ chế thị trường, còn nêu
được thực trạng ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo, nhất là ảnh hưởng bởi tư
tưởng đạo đức của học thuyết ấy đến đời sống tinh thần, đạo đức của nhân dân
ta, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản để phủ định biện chứng sự ảnh
hưởng đó, nhằm nâng chất lượng xây dựng ĐĐCM của các đối tượng đã được
đề cập trong đề tài nghiên cứu. Vấn đề nổi lên đáng chú ý là, tuy đối tượng
nghiên cứu không đồng nhất và cách tiếp cận được thể hiện ở các góc độ khác
nhau, nhưng các công trình khoa học nói trên đều có điểm chung ở chỗ: trong
những hệ thống giải pháp đã nêu, các công trình đó đều đề cập đến các giải
pháp về tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng môi
trường đạo đức lành mạnh, đề cao vai trò tự rèn luyện đạo đức của cá nhân.
Những giải pháp đó đều được căn cứ vào tính quy luật của việc hình thành và
phát triển ĐĐCM, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn trong giai đoạn
hiện nay.
Thực tế không thể phủ nhận là, ở các nhà trường, các trung tâm nghiên cứu
Khoa học xã hội và nhân văn, cả trong và ngoài quân đội, vì chịu nhiều lý do
khác nhau nên đề tài nghiên cứu liên quan đến mối liên hệ giữa đạo đức Nho


7
giáo với quá trình xây dựng ĐĐCM của công dân Việt Nam nói chung, quân
nhân trong QĐND Việt Nam nói riêng, xuất hiện chưa nhiều. Công trình
nghiên cứu về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng
ĐĐCM của các đối tượng quân nhân cụ thể lại càng hiếm hơn.
Đáng chú ý là, Luận án Tiến sĩ triết học của Nguyễn Thị Thanh Mai với
đề tài “Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh

đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay” được hoàn thành trong năm 2007, đã khẳng
định tính tất yếu khách quan của sự ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đối với đạo
đức con người Việt Nam nói chung và đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
riêng hiện nay. Trong Luận án, tác giả đã nêu bật những nội dung cơ bản
trong tư tưởng đạo đức Nho giáo và đạo đức Nho giáo ở Việt Nam, đồng thời
nhấn mạnh: “Khi xây dựng đạo đức cho những người cán bộ lãnh đạo, quản
lý, dù muốn hay không muốn, việc đề cập đến ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo và kế thừa những giá trị tích cực của nó là không thể bỏ qua, thậm chí
còn là cần thiết” [23,tr23]. Qua nghiên cứu, khảo sát, tác giả đã làm rõ những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ
lãnh đạo, quản lý, rút ra một số vấn đề cần giải quyết và đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của ảnh hưởng
đạo đức Nho giáo trong xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
nước ta hiện nay.
Gần đây, ở Học viện Chính trị quân sự, Trần Văn Hùng, học viên Cao học
khoá 2005-2007 đã hoàn thành Luận văn Thạc sĩ triết học với đề tài “Ảnh
hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo đến phát triển đạo đức cách mạng của
học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục quân 1
hiện nay”. Trong luận văn, tác giả đã khẳng định: “Tư tưởng đạo đức Nho giáo
ảnh hưởng đến phát triển đạo đức cách mạng của quân nhân trong QĐND Việt
Nam, của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục
quân 1 là tất yếu” [18,tr62]. Đóng góp về mặt khoa học của tác giả trong luận
văn này là, đã góp phần làm rõ quan niệm về ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức


8
Nho giáo và đặc điểm, con đường ảnh hưởng của tư tưởng đó đến phát triển
ĐĐCM của học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan
Lục quân 1, đồng thời, nêu được thực trạng và đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm kế thừa những giá trị tích cực, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tư

tưởng đạo đức Nho giáo trong quá trình phát triển ĐĐCM của đối tượng học
viên nêu trên. Mặt khác, tuy đối tượng nghiên cứu của luận văn không phải là
toàn bộ học thuyết Nho giáo mà chỉ trong phạm vi tư tưởng đạo đức Nho giáo
và sự ảnh hưởng bởi tư tưởng đạo đức của học thuyết đó chỉ giới hạn trong
phạm vi học viên đào tạo sĩ quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Lục
quân 1, song luận văn không chỉ góp phần giải quyết vấn đề cấp thiết đang đặt
ra đối với yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của Trường Sĩ quan
Lục quân 1, mà còn có thể nghiên cứu, vận dụng để giải quyết vấn đề cấp thiết
đặt ra tương tự ở một số nhà trường quân đội có chức năng đào tạo học viên
với cấp học và bậc học tương đương. Ngoài ra, một số nội dung mà luận văn
nói trên đã đề cập có thể vận dụng phù hợp với các đối tượng khác.
Nhìn chung, tất cả những công trình khoa học đề cập trên đây, với các
góc độ nghiên cứu và bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, đã làm sáng tỏ
nhiều nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Nho giáo, trọng tâm là tư
tưởng về đạo đức; sự tiếp biến tư tưởng ấy trong tiến trình lịch sử dân tộc
và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần, đạo đức của người Việt Nam
trước đây, đến xây dựng ĐĐCM của một số đối tượng quân nhân cụ thể
trong QĐND Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đưa ra được những dự báo
khoa học về xu hướng diễn biến của hiện tượng đó, cũng như tác động của
nó đến mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới,
đề xuất các giải pháp khả thi, nhằm góp phần giải quyết nhiều vấn đề cấp
bách do thực tiễn đặt ra chung quanh vấn đề xây dựng ĐĐCM của con
người trong xã hội mới. Thế nhưng, đến thời điểm này, vẫn chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho
giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5. Vì thế,


9
tác giả chọn đề tài này và xem những công trình khoa học đã công bố là
nguồn tài liệu quý để tham khảo, tiếp thu và kế thừa trong quá trình xây

dựng luận văn của mình, tiếp tục góp phần phát triển lý luận, giải quyết yêu
cầu cấp bách mà thực tiễn đã và đang đặt ra xoay quanh vấn đề nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu từ góc độ triết học về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho
giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 hiện nay,
làm cơ sở đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát huy những ảnh hưởng tích
cực, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng ấy đến xây dựng
ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5. Từ mục đích đó, nhiệm vụ của
luận văn được xác định như sau:
- Làm rõ thực chất ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng ảnh hưởng và đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP
Quân khu 5 trên cơ sở phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục ảnh hưởng tiêu
cực của tư tưởng triết học Nho giáo.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tư tưởng cơ bản của triết
học Nho giáo và những ảnh hưởng của nó đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ
cán bộ QSĐP Quân khu 5 hiện nay.
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ thực trạng
tư tưởng triết học Nho giáo đã và đang ảnh hưởng nhiều mặt đến xây dựng
ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận văn


10
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống các quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chính sách của Đảng,

Nhà nước và Quân đội về xây dựng đạo đức mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình kinh tế - xã hội, đời sống tinh
thần, đạo đức của nhân dân, cán bộ và chiến sĩ ở các địa phương trên địa
bàn Quân khu 5, trọng tâm là đời sống tinh thần, đạo đức của đội ngũ cán
bộ QSĐP trong Quân khu; kết quả khảo sát của tác giả về ảnh hưởng của tư
tưởng triết học Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ này; các
báo cáo của các địa phương, đơn vị và cơ quan chức năng có liên quan.
*Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu
như: phân tích và tổng hợp, logíc và lịch sử, hệ thống và cấu trúc, so sánh, đối
chiếu, quy nạp và diễn dịch, trừu tượng hoá, khái quát hoá…; đồng thời, sử dụng
phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học và khảo sát thực tế ở một số
đơn vị bộ đội địa phương Quân khu 5.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần phát triển lý luận, tăng cường nhận thức về xây
dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5.
- Luận văn có thể giúp các tổ chức, cơ quan và đội ngũ cán bộ các cấp có
liên quan trên địa bàn Quân khu 5 nhận thức rõ hơn ảnh hưởng của tư tưởng
triết học Nho giáo đến xây dựng ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP trong Quân
khu. Trên cơ sở đó, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ
các giải pháp nhằm kế thừa, phát huy những yếu tố tích cực; khắc phục, loại bỏ
những yếu tố tiêu cực trong ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo; xây dựng
ĐĐCM của đội ngũ cán bộ QSĐP Quân khu 5 ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ trong
thời gian tới.


11
- Học viên các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội có thể sử

dụng luận văn này làm tài liệu tham khảo.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm có: mở đầu, 02 chương (04 tiết), kết luận, kiến nghị và danh
mục tài liệu tham khảo.


12
Chương 1
THỰC CHẤT ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO
GIÁO ĐẾN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ QUÂN SỰ ĐỊA PHƯƠNG QUÂN KHU 5 HIỆN NAY
1.1 Quan niệm về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Nho giáo đến xây
dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân sự địa phương Quân khu
5
1.1.1 Nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Nho giáo
Nho giáo ra đời vào thế kỷ VI tr.CN, tư tưởng triết học của nó là hệ thống
quan điểm về tự nhiên, xã hội và con người, về lẽ sống và cách ứng xử của
con người với tự nhiên, xã hội và giữa con người với nhau. Đây là sản phẩm
văn hoá đặc thù của xã hội Trung Hoa cổ đại, gắn liền với tên tuổi của Khổng
Tử.
Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo có nguồn gốc từ quan niệm của dân
gian Trung Hoa. Khổng tử đã hệ thống lại những tư tưởng đó và khái quát
thành học thuyết, gồm các tác phẩm: Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc và viết sách
Xuân Thu để tỏ rõ quan điểm của mình (nền tảng của Ngũ Kinh). Các thế hệ
học trò kế tiếp đã dựa vào quan điểm ấy để viết sách Luận Ngữ, Đại Học,
Trung Dung, Mạnh Tử (Tứ thư). “Tứ thư” và “Ngũ kinh” đã trở thành kinh
điển của Đạo Nho, là con đường mà đi theo đó, nhân loại sẽ đạt tới một xã hội
hoà mục, một thế giới đại đồng giống như thời Tây Chu.
Kinh điển Nho giáo chủ yếu phản ánh thực trạng của xã hội Trung Hoa,
vì thế, nó xuất hiện và tồn tại với tư cách là một học thuyết về chính trị - xã

hội và đạo đức rõ nét hơn với tư cách của một tôn giáo. Đặc điểm nổi bật của
Nho giáo là triết lý về “thiên mệnh” và “nhân sinh” được thể hiện một cách sâu sắc.
“Thiên mệnh” luôn được gắn chặt với “nhân sinh”, cái vĩ đại của “nhân sinh”
được thăng hoa vào “thiên mệnh”, làm cho “thiên mệnh” và “nhân sinh” hoà


13
hợp, quyện vào nhau thành một thể thống nhất, tuy bình thường nhưng vĩ đại,
tuy thực tế nhưng lại rất cao xa [01,tr26].
Tư tưởng triết học Nho giáo thể hiện trên các phương diện cơ bản sau
đây:
Tư tưởng về thế giới quan:
Nho giáo cho trời đất và vạn vật là nhất thể, lưu hành khắp vũ trụ, theo cái
lẽ tương đối, tương điều hoà mà sinh sinh hoá hoá. Trong vũ trụ luôn có cái lý
vô hình, linh diệu là Thái cực. Con người không thể biết rõ chân tính và chân
tướng của thiên lý (lẽ trời), song qua sự biến hoá của vạn vật mà biết được
thiên lý với hai thể khác nhau là động và tĩnh. Động là dương, tĩnh là âm.
Dương lên đến cực độ lại biến ra âm, âm lên đến cực độ lại biến ra dương, hai
thể ấy luôn gắn bó với nhau, tác động, chuyển hoá lẫn nhau mà sinh ra trời đất,
vạn vật.
Khởi điểm của tạo hoá là do âm và dương biến hoá, đạo của trời đất cũng
khởi đầu từ sự biến hoá ấy, bởi vì “Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi,
lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”: đạo Dịch có Thái cực, Thái
cực sinh ra hai nghi, hai nghi sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ
(Dịch: Hệ từ thượng). Dịch là biến đổi, trong trời đất không có cái gì là bất biến.
Nguồn gốc của sự biến đổi là do động và tĩnh, cứng và mềm, tức là âm và dương
tương tác lẫn nhau, như Nho giáo đã đúc kết “Cương nhu tương thôi nhi sinh
biến hoá”: cứng mềm đun đẩy nhau mà sinh ra biến hoá (Dịch: Hệ từ thượng).
Đạo của trời đất (thiên lý) có khởi đầu rất đơn giản nhưng càng biến đổi thì càng
phức tạp. Vạn vật sinh sinh, hoá hoá vô cùng vô tận, song căn nguyên của nó

cũng bởi do âm dương tương tác lẫn nhau mà thôi. Do đó, hiểu được lẽ âm
dương là hiểu được vạn vật, biết được lẽ giản dị ấy thì biết được cái lý của thiên
hạ [22,tr38-40].
Theo Nho giáo, “Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ
thần chi hội, ngũ hành chi tú khí giã”: người là cái đức của trời đất, là sự giao


14
hoà của âm dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là cái khí tinh tú của ngũ hành
(Lễ ký: Lễ vận, IX). Trời đất sinh ra người, người bẩm thụ hoàn toàn cái đức
của trời nên sáng suốt hơn các loài khác. Nhờ đó mà con người hiểu được
phải trái, hay dở và cùng với trời đất chiếm được địa vị tôn quý trong vũ trụ,
vì thế đạo người phải theo đạo Trời mà tiến hoá. Vả lại, người luôn được Trời
giám sát “Hoàng hỹ Thượng đế, lâm hạ hữu hách, giám quan tứ phương, cầu
dân chi mạc”: đức Thượng đế rất lớn, soi xuống đất rõ ràng, xem xét bốn
phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp (Kinh Thư: Thiên cáo), nên
người phải kính và sợ Trời, phải lấy phép tắc tự nhiên của Trời làm mô phạm
cho mình và xem thiên luân là nhân luân, thiên đạo là nhân đạo. Hơn nữa, do
“Thiên sinh chúng dân, hữu vật hữu tắc, dân chi bĩnh di, hiếu thị ý đức”: Trời
sinh ra dân có hình phép, dân giữ tình thường, muốn có đức tốt (Kinh Thư:
Thiên cáo) nên người phải lấy Trời làm gốc và phải theo cái bản tính của Trời
đã phú cho để ứng xử hợp với đạo Trời [22,tr08-10].
Nho giáo rất coi trọng sự sinh của trời đất nên lấy bốn cái đức lớn của
trời là nguyên, hanh, lợi, trinh để nói lên sự sinh thành của vạn vật. “Nguyên
giả thiện chi trưởng giã, hanh giả gia chi hội giã, lợi giả nghĩa chi hoá giã,
trinh giả sự chi cán giã”: nguyên là đầu mối của điều thiện, hanh là tụ hội
mọi cái tốt đẹp, lợi là sự hoà hợp với điều nghĩa, trinh là gốc của mọi sự
(Dịch: Văn ngôn truyện). Vì cái đức của trời đất là sự sinh, nên đạo người
phải theo đạo trời đất mà bồi dưỡng sự sinh. Từ bốn đạo lớn của trời đất mà
con người có bốn đức nhân, nghĩa, lễ, trí. Nguyên là nhân đứng đầu các điều

thiện, hanh là lễ tụ hội các cái đẹp, lợi tức là nghĩa định rõ các phận cho điều
hoà, trinh là trí giữ vững cái chính để làm gốc mọi sự. Bởi vậy, Nho giáo
quan niệm “Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi
vật túc dĩ hoà nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự”: quân tử có nhân là đủ làm cho
người trưởng thành, hội các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là
đủ làm hoà cái nghĩa, biết cái trinh chính mà cố giữ là đủ làm gốc cho mọi sự


15
(Dịch: Văn ngôn truyện). Vì thế, nhân là đầu mối của thiện, là chủ sự sinh của
trời đất.
Nho giáo cho rằng, Trời là chủ thể của vũ trụ, có ý chí lớn để khiến sự
biến hoá trong thế gian cho hợp lẽ điều hoà. Cái ý chí ấy được gọi là “Thiên
mệnh” hay “Đế mệnh”. Một khi Trời đã định thì con người không thể cưỡng
lại được, vì thế “Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã”: không biết mệnh trời thì
không đáng là người quân tử (Luận ngữ: Nghiêu viết, XX). Thành hay bại của
công việc, thịnh hay suy của thế cục đều do mệnh Trời. Một khi đã biết mệnh
Trời thì phải làm cho phải đạo và phải “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu
nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh”: trên không oán trời, dưới không trách người, cứ bình
dị mà đợi mệnh (Trung dung). Tuy nhiên, khi lưu hành theo Thiên lý, bao giờ
con người cũng thể hiện năng lực của mình, hành động một cách sáng suốt,
không nhu nhược hay an bài đợi mệnh, con người phải tự thân phấn đấu liên
tục theo quan niệm “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”: việc hành
động của trời rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không nghỉ
(Dịch: Tượng, thượng truyện) [22,tr55-57].
Nho giáo xem quỷ thần là khí thiêng của trời đất, tuy con người không thể
nhìn thấy, nghe thấy, nhưng quỷ thần vẫn luôn ở quanh họ. “Dương dương hồ
như tại kỳ thượng, như tại kỳ tả hữu”: quỷ thần dường như ở trên đầu, bên trái
bên phải ta (Trung dung). Do vậy, con người phải tỏ thái độ “Tế thần như thần
tại”: tế thần như có thần ở đó (Luận ngữ: Bát dật, III). Tế quỷ thần là lấy sự tận

thành để tỏ lòng tôn kính chứ không phải để cầu phúc cho riêng mình. Con
người ở đời cứ theo lẽ phải mà làm thì sẽ được quỷ thần chứng giám, hà tất
phải nay cầu mai nguyện. Những việc mà chính nhân quân tử làm đã bao hàm sự
cầu nguyện, nếu là người bất nhân bất nghĩa, làm những điều trái đạo, mắc tội với
Trời thì dẫu có cầu nguyện quanh năm cũng không ích gì, vì “Hoạch tội ư thiên,
vô sở đảo giã”: Phải tội với Trời thì còn cầu nguyện vào đâu được (Luận ngữ:
Bát dật, III). Nho giáo còn cho rằng, “thần” tức là “thành” (thành thực) nằm ngay


16
trong lòng của mỗi con người. Một khi con người khiêm tốn, thành thực thì “thần”
luôn hiện hữu trong họ, lúc ấy “nhân”, “thần” hoà hợp làm một. Con người tu
dưỡng đạt được điều đó thì sẽ thấy âm dương không khoảng cách, sinh tử là
chuyện thường tình và có quan hệ mật thiết với nhau [01,tr44].
Trời đất và quỷ thần không hề thiên vị, người và vạn vật sinh ra trong thế
gian cùng bẩm thụ lý khí của Trời, nên Trời và người có thể cảm ứng được
“thiên nhân tương dữ”, vả lại “Duy thiên vô thân, khắc kính duy thân, quỷ
thần vô thường hưởng, hưởng vu khắc thành”: Trời không thân với ai, chỉ
thân với người hay kính, quỷ thần không chứng giám cho ai, chỉ chứng giám
cho kẻ hay thành (Kinh Thư: Thái giáp hạ), có kính và thành mới làm cho trời
đất, quỷ thần cảm động được. Vì thế, Nho giáo quan niệm “Quân tử uý thiên
mệnh”: người quân tử sợ mệnh Trời (Luận ngữ: Quý thị, XVI). Con người có
sợ Trời, có giữ lòng kính cẩn thì mới giữ được cái tâm ngay thẳng để làm
những điều nhân nghĩa, hiếu đễ. Như vậy, kính và thành là cái gốc luân lý của
Nho giáo. Có kính thì mới giữ được bản tính của mình cho thuần nhất và có
thành thì người với Trời và quỷ thần mới tương cảm được với nhau.
Đạo Trời là chí thiện, chí mỹ nên đạo người phải theo đạo Trời, muốn
theo đạo Trời, trước hết phải theo đạo thành, bởi lẽ “Thành giả thiên chi đạo
giã, thành chi giả nhân chi đạo giã”: thành thực là đạo Trời, giữ cho được
thành thực là đạo người (Trung dung). Thành là bản tính tự nhiên của thiên lý,

cái tính ấy luôn chân thực, có thể sinh sinh, hoá hoá nuôi dưỡng muôn vật.
Con người một khi đạt đến bậc chí thành thì có thể giúp ích cho việc hoá dục
của trời đất và đạo làm người sẽ có ý nghĩa rất sâu xa.
Những nội dung trên cho thấy, Trời đất và quỷ thần có vai trò quan trọng
trong thế giới quan Nho giáo, vừa duy vật, vừa duy tâm, vừa vô thần, vừa hữu
thần, song yếu tố duy tâm nổi trội hơn. Thời gian càng về sau thế giới quan
Nho giáo càng đậm nét duy tâm thần bí do được bổ sung những tư tưởng triết
học của Phật giáo và Đạo giáo.
Tư tưởng về nhân sinh quan:


17
Mục đích chủ yếu của Nho giáo là “tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương
Văn Võ”, đề cao “lễ nhạc” và “nhân nghĩa”, chủ xướng đạo “trung thứ” và
đạo “trung dung”, chủ trương thi hành “đức trị” và “nhân chính”, coi trọng
giáo dục luân lý cũng như sự tu tâm, dưỡng tính cho con người, nên nhân sinh
quan Nho giáo thể hiện khá rõ nét và giữ vị trí trung tâm trong học thuyết này.
Nổi bật trong nhân sinh quan Nho giáo là triết thuyết về đạo lý làm người
sao cho phù hợp với tôn ti trật tự trong xã hội phong kiến. Do quan niệm bản
chất tâm lý, đạo đức của con người là “nhân”, nên Nho giáo coi “nhân” là
xuất phát điểm, là yếu tố cốt lõi tạo nên các phạm trù khác, liên quan chặt chẽ
với nhau. Trong đó, ba phạm trù “nhân”, “lễ” và “chính danh” có ý nghĩa
quan trọng nhất, tạo nên một triết lý nhân sinh có bản sắc hết sức độc đáo.
Theo Nho giáo, “nhân” là chuẩn mực đạo đức hoàn thiện nhất nên luôn
đề cao “đức nhân”, bản thể hoá “đạo nhân”. Các chuẩn mực đạo đức khác
như: lễ, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu… đều là biểu hiện của “nhân”. “Nhân” mang
tính nhân loại, đại biểu cho con người, để con người tự giác phân biệt với cầm
thú. Do vậy, Nho giáo không chỉ yêu cầu con người đối với đồng loại của
mình phải có nhân ái, mà còn phải đạt đến Thiên đức. Điều này chứng tỏ nhân
sinh quan Nho giáo luôn gắn chặt với thế giới quan [15,tr19-20]. Nho giáo

còn quan niệm, tuy thực hiện “nhân ái” là việc riêng của mỗi người, nhưng do
con người sống trong xã hội, nên “nhân ái” luôn được thực hiện trong mối
quan hệ giữa người với người, qua đó mà thể hiện “nhân đức”. Vì thế, đạo
“trung thứ” của Nho giáo luôn lấy vấn đề này làm phương hướng thiết yếu
nhất. Nội dung của nó bao gồm hai phương diện, một là “Kỷ sở bất dục vật
thi ư nhân”: cái gì mình không muốn thì không làm cho người (Luận ngữ: Vệ
Linh công XV), hai là “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”: cái
mà mình thành lập thì cũng lập cho người, mình thành đạt thì cũng giúp người
khác thành đạt (Luận ngữ: Ung giã, VI). “Trung” là sự tận tâm, tận lực đến
mức cao nhất để thành người toàn vẹn. “Thứ” là sự suy bụng ta ra bụng


18
người, là sự đồng cảm để hiểu được hoàn cảnh của người khác. Đạo “trung
thứ” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa người với người, yêu
cầu con người trong mọi lời nói và việc làm phải tuân theo “nhân ái”. Đồng
thời, thông qua thực hiện nhân ái mà đạt đến một sự cảm thông chan hoà để có
được một khung cảnh lý tưởng: “Thiên hạ quy tụ ở nhân ái”. Như vậy, công
dụng của đạo “trung thứ” được thể hiện qua thành tựu “nhân đức”, nó không
chỉ thích hợp với bên dưới mà còn thích hợp cả với bề trên. Đó là đạo “một lẽ
mà quán thông tất cả” của Nho giáo. Bởi thế, Nho giáo yêu cầu “Quân quân,
thần thần, phụ phụ, tử tử”: vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (Luận
ngữ: Nhan Uyên, XII) và “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”: vua lấy
lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua (Luận ngữ: Bát dật, III). Có thể nói, đạo
“trung thứ” là bậc thềm nhập đức của sự tu dưỡng cá nhân, là chuẩn mực cơ bản
để xử lý các quan hệ nhân luân [15,tr91]. Bên cạnh đó, Nho giáo còn nhấn
mạnh: “làm điều nhân là do mình”, qua đó nêu cao tính tự chủ đạo đức của con
người, có tác dụng chỉ đạo khai thác thế giới nội tại của nhân cách và khơi dậy
khả năng thông qua tự tu dưỡng đạo đức để hoàn thiện nhân cách của từng cá
nhân. Chính điều này đã thể hiện trí tuệ nhân sinh từ “nội thánh” đến “ngoại

vương” của học thuyết ấy [15,tr27-28]. Để đạt “nhân”, Nho giáo khuyên con
người phải thực hiện 5 điều cơ bản theo quan niệm “Năng hành ngũ giả ư thiên
hạ vi nhân hỹ. Viết cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc
chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân”: làm
được năm điều trong thiên hạ là nhân, đó là cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung thì
không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì được tin cậy, mẫn thì có
công lao, huệ thì khiến được người (Luận ngữ: Dương hoá, XVII). Như vậy,
“nhân” là kết tinh cao nhất trong triết lý nhân sinh, là cơ sở lý luận cho đường lối
“đức trị” của Nho giáo.
Nho giáo cho rằng, để thi hành đường lối “đức trị” thì phải thi hành “lễ”;
bởi vì, “nhân” được biểu hiện trước hết thông qua “lễ”, “lễ” là phương tiện để


19
đạt tới điều “nhân” và là căn nguyên quan trọng tạo nên sự ổn định của xã
hội. Nhờ có lễ mà hành vi của con người luôn có chừng mực, lúc nào cũng
phù hợp với đạo trung. “Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi
vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo”: cung kính mà không có lễ thì phiền
phức, cẩn thận mà không có lễ thì sợ hãi, dũng mà không có lễ thì loạn, trực
mà không có lễ thì vội vã (Luận ngữ: Thái bá, XIII). Vì thế, Nho giáo yêu cầu
“Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”: Không trông
điều trái lễ, không nghe điều trái lễ, không nói điều trái lễ, không làm điều trái
lễ (Luận ngữ: Nhan Uyên, XII). Hơn nữa, trong xã hội mỗi người đều có một
chức năng, địa vị nhất định, trong mối quan hệ nhất định, với một “danh” cụ
thể, muốn thực hiện đúng “lễ” thì một mặt phải nắm được “lễ”, mặt khác phải
xác định đúng vị trí và danh phận của mình (“chính danh”), bởi lẽ, “Chính giả
chính giã, tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính”: chính trị là làm mọi việc cho
ngay thẳng, bề trên mà lấy ngay thẳng để khiến thì ai dám không ngay thẳng
(Luận ngữ: Nhan Uyên, XII), hơn nữa “Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ
thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”: mình ngay chính thì không sai khiến người

ta cũng làm, mình không ngay chính thì tuy có sai khiến cũng không ai theo
(Luận ngữ: Tử Lộ, XIII). Vả lại, muốn chính danh thì phải lấy “lễ” làm chuẩn
mực và phải hành động sao cho tương xứng giữa “thực” với “danh”. Danh thực tương xứng vừa là điều kiện, vừa là kết quả của việc thực hiện đúng “lễ”.
Vì thế, “chính danh” cũng là con đường để đạt tới điều “nhân”.
Nho giáo quan niệm “thiện” cũng là bản chất của con người, thể hiện qua
các đức lớn là: “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”, được bắt nguồn từ “tứ đoan”
(bốn đầu mối của thiện, còn gọi là “thiện đoan”); “thiện” là bản nguyên tinh
thần, là đức “tính” do trời phú cho con người; nó luôn biến đổi vì chịu tác động
của môi trường xã hội; bản tính “thiện” còn được xuất phát từ “tâm” của con
người và cái “tâm” ấy cũng do trời phú. Hơn nữa, trong mỗi người, bên cạnh
“tính” và “tâm” còn có “khí”, vì “khí” lưu hành khắp vũ trụ, ngưng tụ lại tạo nên


20
vạn vật và con người; “tâm”, “tính” là phần tinh thần điều khiển cái “khí”, còn
“khí” là phần vật chất để cho “tâm” và “tính” cư ngụ, hai phần ấy được điều hoà
thì con người mới tồn tại. Vì thế, Nho giáo khuyên mọi người tích cực tu dưỡng
đạo lý nhằm làm cho cái tâm sâu rộng, cái trí sáng suốt, cái khí điều hoà, với
mục đích chủ yếu là để bảo tồn tính “thiện”.
Nhân sinh quan Nho giáo luôn chú trọng đến ý nghĩa và giá trị sinh mệnh
cá nhân trong quan hệ giữa người với người. Theo Nho giáo, con người có năm
mối quan hệ chính (ngũ luân): vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn;
từng mối quan hệ phải được giải quyết theo tiêu chí riêng trong ngũ thường.
Ngũ thường là kỷ cương của nhân luân, nó không chỉ là năm dáng vẻ của đức
thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), mà còn là chuẩn mực giải quyết các quan hệ nói
trên theo yêu cầu: vua nhân tôi trung, cha hiền con hiếu, chồng biết điều vợ nghe
lẽ phải, anh tốt em ngoan, bạn bè tín nghĩa; trong đó, Nho giáo đặc biệt coi trọng
quan hệ vua tôi và quan hệ cha con. Trong quan hệ vua tôi, Nho giáo yêu cầu
nhà vua phải có đức, có tài, thương yêu dân như con, dân phải đối với vua
như cha mẹ mình; vì thế, nội dung phạm trù “trung” của quan hệ này đòi hỏi

phải có sự tận tuỵ và thành tâm, thật ý của mỗi người trong quá trình thực
hiện. Trong quan hệ cha con, Nho giáo đề cao phạm trù “hiếu” và lấy cái “tâm”
để đánh giá mức độ hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, vì hiếu thảo không
chỉ là phụng dưỡng, mà trước hết là phải có thái độ thành kính. Như vậy, để
thực hiện tốt “trung”, “hiếu” phải trên cơ sở hai chiều: vua có nhân thì tôi mới
trung, cha có từ thì con mới có hiếu, bề trên có rộng rãi thì bề dưới mới kính
trọng.
Là học thuyết mang đậm màu sắc đạo đức, mục đích của Nho giáo là
muốn mỗi người đều trở thành một người quân tử (quân: cai trị, quân tử: người
cai trị), nối gót theo thánh nhân để đạt đến đỉnh cao của nhân luân. Theo Nho
giáo, muốn thành quân tử thì trước hết phải “tu thân” để đạt ba yếu tố: “đạt
đạo” thông qua ứng xử “trung dung”, “đạt đức” thông qua hành vi chuẩn


21
mực và “đạt trí” thông qua học tập. “Tu thân” xong phải “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” theo phương châm: “đức trị” - người cầm quyền phải nêu gương, cảm
hoá người dưới bằng đạo đức, “lễ trị” - người cầm quyền cai trị bằng cách duy
trì các chuẩn mực mà con người phải tuân theo, “văn trị” - người cầm quyền
phải coi trọng văn hiến để thu phục nhân tâm. Do đó, Nho giáo luôn phê phán
các phương pháp trị nước theo tư tưởng “pháp trị”, “khiêm ái”, “vô vi” và cho
rằng, để thuận đạo trời và hợp lòng người thì nhà cầm quyền phải thi hành “nhân
chính” với tinh thần cốt lõi là “trọng nhân”, “trọng dân”, dùng nhân nghĩa để trị
nước, người cầm quyền phải theo ý dân để định ra đường lối theo tinh thần
“Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi. Thử chi vị dân chi phụ mẫu”:
phải thích cái thích của dân, phải ghét cái ghét của dân. Thế mới là cha mẹ dân.
Đồng thời phải “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”: lo
trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” (Đại học).
Như vậy, từ “nhân” đến “nhân trị” trong nhân sinh quan Nho giáo đã thể
hiện đường lối trị nước của học thuyết này. Nho giáo đã xây dựng nên một

khuôn mẫu tư tưởng lý luận khá đặc sắc về an bang trị quốc, đó là chủ nghĩa
“đức trị”. Trong đó luân lý và chính trị có sự liên quan mật thiết, luân lý là nền
tảng của chính trị, chính trị là tiếp tục của luân lý. Theo Nho giáo, một khi cá
nhân chú trọng tu dưỡng đạo đức, tuân theo luân lý thì cũng ảnh hưởng đến
người khác và xã hội, đó cũng là việc chính sự. Nho giáo còn đề ra phương châm
“trị quốc bằng đức, điều hành bằng lễ” nhằm làm cho vua, bề tôi và dân chúng
đạt đến sự hài hoà nhất thể, ai cũng phải phát huy đầy đủ tác dụng của họ, và yêu
cầu “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”: từ vua quan
cho đến thứ dân đều phải lấy tu dưỡng bản thân làm gốc (Đại học) [15,tr118123]. Đây cũng là nét độc đáo của triết lý phương Đông so với các học thuyết
phương Tây.
Tư tưởng về phương pháp luận nhận thức:


22
Tuy triết học Nho giáo chủ yếu bàn về nhân sinh, nhưng trong học thuyết
ấy vẫn hàm chứa tư duy triết học logic thể hiện phương pháp luận nhận thức,
trong đó thuyết “Trung dung” là tư duy chủ đạo, xuyên suốt [06,tr163].
Vốn tin chắc tình mẫu tử của nhân loại không thể mất đi, từ đó suy ra các
mối quan hệ con người bị băng hoại trong thời loạn cũng có thể cứu vãn
được, cùng với quan niệm phải theo đạo “trung dung” để luôn giữ cho được
“trung” và “hoà”, vì “trung hoà” là ngôi vị của trời đất, là nguồn nuôi dưỡng
vạn vật. Do đó, Nho giáo đã đưa quan niệm “trung hoà” vào vận dụng trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội và xem đạo “trung dung” là nguyên tắc thực
tiễn, là lý tưởng tối cao để đối nhân xử thế và lập quốc trị dân.
Theo Nho giáo, đạo “trung dung” đại diện cho một loại đức tính tối cao
(bên cạnh đức nhân và đức trí), đại biểu cho trí tuệ uyên thâm của quân tử.
Trung là không thái quá, không thiên lệch và cũng không bất cập. Dung là sự
bình thường, không dịch đổi. Có trung thì có chính đạo của thiên hạ, có dung
thì có định lý của thiên hạ. Trung dung là lấy đạo thường “không thái quá cũng
không bất cập” làm định lý và chính đạo của thiên hạ [15,tr74]. Trung luôn bao

hàm hoà, đã có trung ắt có hoà, có hoà thì mới trung, nhờ có trung và hoà mà
trời đất mới đứng vững, vạn vật mới sinh sôi. “Trung giã giả, thiên hạ chi đại
bản giã; hoà giã giả, thiên hạ chi đạt đạo giã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên,
vạn vật dục yên”: trung là gốc lớn của thiên hạ, hoà là cái đạo của thiên hạ.
Đạt trung hoà thì trời đất định vị, vạn vật hoá dục (Trung dung). Trung là gốc
của trời đất, người bẩm thụ cái tính của trời nên đương nhiên là người có
trung. “Duy hoàng thượng đế, giáng trung vu hạ dân, nhược hữu hằng tính”:
Hoàng thượng đế giáng cái trung xuống cho hạ dân, dân có cái trung ấy như
có tính thường (Kinh Thư: Thang cáo). Vì thế, Nho giáo yêu cầu hành vi của
con người phải thích hợp, không bất cập, không thái quá, đây cũng là đặc
điểm cơ bản của phương pháp luận triết học Nho giáo.


23
Cũng theo Nho giáo, muốn “trung hành” ắt phải có “thời trung” (biến hoá).
“Trung dung” tuy là chính đạo và là định lý của thiên hạ nhưng nó không nhất
thành bất biến. Nó cũng hài hoà theo từng thời điểm, không ngừng tuỳ thời
mà tiến cho hợp lý. Tư tưởng “thời trung” còn có ý nghĩa “thông quyền đạt
biến”, yêu cầu con người vận dụng vào cuộc sống phải linh hoạt, không máy
móc, giáo điều. Trong đối nhân xử thế, một mặt phải tuân thủ sự vừa phải,
không thái quá và bất cập, mặt khác hy vọng với những sự khác biệt, thậm chí
đối lập mà có được sự hài hoà tương hỗ “hoà mà bất đồng”. Như vậy, đạo
“trung dung” của Nho giáo nhằm đem lại sự hài hoà giữa mình với người, giữa
người với trời đất, tạo nên sự quán thông giữa con người với tự nhiên [15,tr8587].
Mặt khác, từ quan niệm xem “hiếu đễ” là xuất phát điểm của “nhân ái” và
của quan hệ hài hoà, dựa trên lập luận “một người làm con trong gia đình mà
không có hiếu thì ra ngoài xã hội không thể trở thành một người bạn tốt và
càng không thể là một bề tôi trung được”, nên Nho giáo cho rằng, tiêu chuẩn
phải, trái của trung dung là “lễ”, nguyên tắc thực thi của nó là lấy “lễ” để tiết
chế “trung” và lấy “trung” để giữ “lễ”. “Trung dung” là phương pháp, “hài

hoà” là biểu hiện, “nhân” và “lễ” là nội dung. Vì thế, Nho giáo yêu cầu “Đệ tử
nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu
dư lực, tắc dĩ học văn”: mỗi người trong gia đình trước hết phải hiếu kính với
cha mẹ, hoà thuận với anh em; khi ra ngoài trước hết phải có hiếu với tông tộc,
tôn trọng hàng xóm; được vậy rồi thì mới nói đến chuyện kết giao bạn hữu và
tham gia chính sự để vỗ yên dân lành (Luận ngữ: Học nhi, I). Hơn nữa, xuất
phát từ quan niệm xem con người là trung tâm của vũ trụ, nên Nho giáo cho
rằng, để cải tạo xã hội thì vấn đề đầu tiên là phải cải tạo con người, trước hết là
xây dựng cho được một mẫu người hài hoà, trong đó các tiêu chí “lễ” và
“nhân” phải đạt ở mức hoàn mỹ, đó là mẫu người quân tử có khả năng tu
dưỡng cao, suy nghĩ rộng, giữ nguyên tắc, biết tiến thoái, không bất cập và


24
cũng không thái quá cả trong nhận thức và hành động. Một khi có được con
người hài hoà thì tất yếu sẽ có quan hệ con người và quốc gia hài hoà, trái lại
thì ngược lại. Để trở thành con người hài hoà thì phải có phẩm chất toàn diện
cả ba mặt: đạo đức, kiến thức và thực tiễn, trong đó, đạo đức có tầm quan
trọng hàng đầu. Vì thế, Nho giáo đòi hỏi mỗi người, bên cạnh thực hiện “lễ”
còn phải tích cực học tập. Từ yêu cầu này mà Nho giáo đã trở thành một học
thuyết đầu tiên của Trung Hoa cổ đại đưa ra quan niệm về giáo dục theo tư
tưởng “trung dung”, thể hiện được những nội dung cơ bản của nhận thức luận.
Riêng về phương pháp giáo hoá, Nho giáo chủ trương trước hết phải dạy
những điều đơn giản, sau đó dần dần dạy đến những điều phức tạp. “Tiên chi
dĩ Thi Thư, nhi đạo chi dĩ hiếu đễ, thuyết chi dĩ nhân nghĩa, quan chi dĩ lễ
nhạc, nhiên hậu thành chi dĩ văn đức”: trước hết dùng Thi Thư mà dạy, rồi
lấy hiếu đễ mà dẫn dắt người ta, lấy nhân nghĩa mà giảng dụ, lấy lễ nhạc
khiến người ta xem xét, sau cùng mới lấy văn đức để dạy cho nên người
(Khổng Tử gia ngữ: Đệ tử hạnh, XII), bởi vì “Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư
Nhạc”: Thi làm cho ý chí hứng khởi, lễ sửa sang cho phẩm cách đứng đắn,

nhạc điều hoà cho tính tình hoàn hảo (Luận ngữ: Thái bá, VII). Khi dạy điều
gì cũng phải khơi dậy tính năng động tư duy của người học, người học phải
cố gắng suy nghĩ để tìm hiểu vấn đề thì sự học mới vững chắc, ngược lại thì
“Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản,
tắc bất phục giã”: nếu không ham hiểu biết thì không dạy cho, không nói ra
được thì không bày cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra
được ba góc kia thì không dạy nữa (Luận ngữ: Thuật nhi, VII).
Theo Nho giáo, việc dạy học có hai phần. Phần công truyền nói về luân
thường đạo lý để dạy cho mọi người. Phần tâm truyền nói về những điều cao
xa, chỉ dạy riêng cho người có tư chất đặc biệt, người học phải tự học để hiểu
lấy, người dạy không nhất thiết phải giảng giải nhiều. Hơn nữa, con người ai
cũng có sẵn cái tính giống nhau do trời phú cho, nhưng vì tập nhiễm lâu ngày
nên khác nhau, chỉ có tính của bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không hề thay


25
đổi. Thế nhưng, trong xã hội, bậc thượng trí và kẻ hạ ngu luôn là số ít, phần
đông là hạng trung nhân có thể dạy bảo được, nên Nho giáo chủ trương “Hữu
giáo vô loại”: dạy cho tất cả mọi người (Luận ngữ: Vệ Linh công, XV).
Cũng theo Nho giáo, để nâng hiệu quả dạy học thì cả người dạy lẫn người
học đều phải tuân theo chuẩn mực đức độ của thánh hiền. Người dạy phải
luôn tự sửa mình, giữ lấy cái tâm của mình cho chính, vì “mình cong queo thì
không thể nào sửa cho người khác ngay thẳng được”, càng không được xấu
hổ khi học hỏi người dưới, biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, như
thế mới là biết…. Người học phải chuyên tâm, từ chí, khiêm tốn, cầu tiến, cần
mẫn, không tự thoả mãn, phải quan sát nhiều, nghe nhiều, hỏi nhiều, có tư
duy sáng tạo, ôn cũ biết mới, học đi đôi với hành, hành lễ trước rồi mới học
văn. “Tiên học lễ, hậu học văn” là kết luận của Nho giáo rút ra từ quan niệm
đó.
Nho giáo dựa vào các tiêu chí đức hạnh “nhân”, “trí”, “dũng” để phân biệt

quân tử với tiểu nhân, đức hạnh đó phải được biểu hiện bằng sự nhất quán giữa
lời nói và việc làm, bằng sự xác định nguyên do của công việc và bày tỏ thái độ
trong hành động. Trong Luận ngữ chữ “nhân” được đề cập 109 lần, “quân tử”
được đề cập 107 lần [15,tr44]. Con người dẫu bần cùng, khổ sở nhưng có đức
hạnh thì vẫn là người quân tử, người kém đức hạnh thì dù có quyền tước cao
sang cũng là kẻ tiểu nhân. Với kẻ sĩ, Nho giáo cũng phân chia nho quân tử và
nho tiểu nhân. Nho quân tử là người học đạo thánh hiền để tự sửa mình thành
người có phẩm hạnh, trong hoàn cảnh nào cũng không trái đạo. Nho tiểu nhân
là người mượn tiếng học đạo thánh hiền để cầu danh, cầu lợi, miệng tuy nói
đạo đức mà bụng thì luôn tìm mưu tính kế để làm những việc bất nhân, bất
nghĩa. Vì thế Nho giáo yêu cầu “Nhữ vi quân tử nho, vô vi tiểu nhân nho”:
nên làm nho quân tử, không nên làm nho tiểu nhân (Luận ngữ: Ung dã, VI).
Tư tưởng “trung dung” trong phương pháp luận nhận thức Nho giáo còn
được biểu hiện ở thái độ của con người đối với trời đất, quỷ thần và quan


×