Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.11 KB, 22 trang )



TIỂU LUẬN

Đề tài:
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với công tác tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam

TP.HCM – 2016


MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Phải khẳng định chắc chắn rằng, Nguyễn Ái Quốc, một lãnh tụ vĩ đại của dân
tộc Việt Nam, là tấm gương chói lọi về tinh thần cách mạng, chí khí kiên cường bất
khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận
tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc
và giải phóng loài người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội cộng sản.
Kinh nghiệm thực tế và lịch sử cho thấy muốn cách mạng thành công thì điều
kiện không thể thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Hiểu được sự
bức thiết phải thành lập một chính đảng để phục vụ cho công cuộc giải phóng dân
tộc. Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của mình đã chuẩn bị rất chu đáo về tư tưởng
chính trị và tổ chức để đến ngày 3-2-1930, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Đó chính là việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt
Nam.
Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Nguyễn Ái Quốc, Người là cha đẻ của
Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ý tưởng độc lập, tự do
dân tộc cùng với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn


với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân
tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để
của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghãi Mác - Lênin. Người đã sáng lập Đảng ta
và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công
nhân. Người luôn chăm lo rèn luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng "bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho thế hệ mai sau".


Trong các cuộc kháng chiến trường kì của cả dân tộc và công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng rất là to lớn, nhưng người đã sinh ra và
nuôi dưỡng Đảng đó trưởng thành đó chính là Nguyễn Ái Quốc - là Chủ tịch Hồ
Chí Minh, vì vậy ta phải phân tích, đánh giá sự chuẩn bị về tư tưởng và chính trị,
tổ chức của Nguyễn Ái Quốc cho việc thành lập Đảng để thấy được vai trò của
Người. Chính vì vậy, để thế hệ trẻ và mai sau biết - hiểu và luôn nắm - giữ vững lý
tưởng của Đảng, cũng như gốc rễ sản sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam soi đường,
chỉ lối cho đất nước đến ngày thì việc chọn đề tài: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc
đối với công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là rất quan trọng và cần
thiết.
II. Mục đích
Ghi nhớ và biết trân trọng công lao to lớn của lãnh tụ, vị cha dân dấu yêu của
dân tộc, Nguyễn Ái Quốc. Người đặt nền tảng cho tự do, giải phóng cho dân tộc.
Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc không chỉ là “kim chỉ nam” cho Đảng Cộng sản
Việt Nam buổi sơ khai mà còn cho đến ngày nay. Chính yếu tố đó giúp chúng ta
giữ vững được mục tiêu, lý tưởng phát triển đất nước trong con đường hội hập toàn
cầu.
Giữ vững lập trường tư tưởng chính trị vào đường lối, chính sách của Đảng ta
trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù…
Không ngừng bồi dưỡng, nâng cao kiến thức để phát huy tư tưởng cách mạng,
chính trị của Nguyễn Ái Quốc vào thực tiễn hiện nay.
III. Phương pháp nghiên cứu

- Tìm kiếm sách, báo, các tài liệu liên quan về chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt tập
trung vào giai đoạn Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về mặt tư tưởng chính trị, tổ chức
cho việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.


- Thảo luận, đánh giá và nhìn nhận thực tế biến chuyển của đời sống xã hội hiện
nay.
- Khảo sát, thăm dò và tiếp cận thực tế về tư tưởng chính trị của các tầng lớp nhân
dân hiện nay.
- Nghiên cứu các văn kiện đại hội Đảng các nhiệm kỳ.
- Đánh giá, nhìn nhận khách quan các chính sách, nghị quyết đã và sẽ ban hành có
phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tìm kiếm, tồng hợp, phân tích, đánh giá các sự kiện nóng, nổi bật… đang diễn ra
hiện nay đã được đăng tải trên báo chí, truyền hình…

B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung


I.1. Sơ lược về tiểu sử của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh)
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất
Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều
bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.Người sinh ra trong một gia đình nhà nho
yêu nước, lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống
giặc ngoại xâm.
Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên
thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những
phong trào đấu tranh chống thực dân, Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc
lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Với tình cảm yêu nước

thương dân vô hạn, năm 1911 Người đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm
con đường giải phóng dân tộc
I.2. Bối cảnh trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Đáng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) ra đời đánh dấu một bước ngoặt lịch sử
trong công cuộc tìm con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam. Song song với sự
hình thành đó thì lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người có vai trò rất lớn, xuyên suốt
trong quá trình hình thành và hoạt động của Đảng.
Năm 1958 thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên tại bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng
mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chúng đã thi hành nhiều chính
sách cai trị độc đoán chuyên quyền về kinh tế, chính trị, văn hóa.
a. Về chính trị
Người Pháp trực tiếp nắm giữ mọi quyền hành trong bộ máy nhà nước và biến
một bộ phận gia cấp tư sản mại bản, địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực cho
việc cai trị của chúng. Thực dân Pháp còn dùng chính sách “chia để trị”, chia Việt


Nam thành 3 kì, gồm: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì để dễ bề cai trị nhằm mục đích
chia rẽ tình đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
b. Về kinh tế
Thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta một cách tàn bạo không thương tiếc. Chúng
thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế. Đặt ra hằng trăm thứ thuế vô lý, vô
nhân đạo như thuế thân, địa tô…với mục đích duy trì nền kinh tế Việt Nam trong
vòng lạc hậu, từ đó dẫn đến lệ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế Pháp.
c. Về văn hóa
Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân”, khuyến khích văn hóa nô dịch,
sùng Pháp. Ví dụ như chúng đem rượu, ma túy, truyền bá mê tín dị đoan …vào
Việt Nam. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học. Nhà tù dùng để giam cầm
những người Việt Nam chống Pháp, trường học dùng để đào tạo ra những người
phục vụ cho guồng máy cai trị của chúng. Mục đích của chúng làm cho nhân dân
ta dốt nát dẫn đến phải phục tùng sự cai trị của chúng.

Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của Thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có những biến đổi sâu sắc đó là: Xã hội Việt Nam hình thành 2 giai cấp
mới tư sản và công nhâ. Giai cấp công nhân được hình thành từ những người nông
dân bị thực dân Pháp cướp ruộng đất dẫn đến không còn ruộng đất để canh tác phải
làm thuê cho các nhà máy, xí nghiệp của Pháp. Bên cạnh đó cũng phát sinh ra
những mâu thuẫn ngày càng gay gắt đó là mâu thuẫn của toàn thể dân tộc ta với đế
quốc Pháp, giữa nhân dân ta với địa chủ phong kiến tay sai. 2 mâu thuẫn trên có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính vì thế nên nhiệm vụ của toàn thể nhân dân
ta là chống thực dân Pháp đồng nghĩa với việc chống địa chủ phong kiến.


I.3. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước Việt Nam cuối thế kỷ 19 - đầu thế
kỷ 20
Theo cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh- Hành trình tìm đường cứu nước cho
biết, Nguyễn Ái Quốc sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc
nông dân, nên trong Người đã sẵn có một lòng yêu nước nồng nàn. Khi lớn lên
trong cảnh nước mất nhà tan, Người rất đau xót trước sự thống khổ của đồng bào ta
và đã bắt đầu có chí căm thù quân cướp nước và bọn tay sai bán nước.
Nguyễn Ái Quốc sinh ra và lớn lên trong một địa phương mà nhân dân đã bao
đời phấn đấu gian khổ chống những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên và có
truyền thống đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm. Theo ghi nhận của lịch sử,
vùng Thanh - Nghệ Tĩnh là một trong những lá cờ đầu của phong trào chống thực
dân Pháp xâm lược. Hưởng ứng phong trào Văn - thân, một số sĩ phu yêu nước ở
Nghệ An, như Trần Tấn (Thanh Chương), Đặng Như Mai (Nam Đàn) v.v.. đã tập
hợp nghĩa quân và tiến hành khởi nghĩa. Phong trào Cần Vương do Hàm Nghi và
Tôn Thất Thuyết phát động. Phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu ở Trung
Bộ; phong trào Đông Kinh - nghĩa thục, cuộc khởi nghĩa chiến tranh du kích của
nông dân do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo ở Bắc bộ; phong trào chống thuế của
nông dân ở trung bộ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái Quốc, nhất là trong
thời gian người học ở trường Quốc học Huế (1905-1910). Do đó Người sớm đã có

ý định đánh đuổi thực dân Pháp, năm 15 tuổi, Người đã tham gia công tác bí mật,
làm liên lạc cho một nhà số nhà nho yêu nước lúc bấy giờ.
* Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước:
- Những phong trào yêu nước trên lần lượt bị thất bại vì không có đường lối
đúng đắn. Các nhà lãnh đạo những phong trào ấy đều không phân biệt thực dân
Pháp với giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp; chưa nhận rõ được nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam là phải đánh đổ đế quốc Pháp, giành lại độc lập và


đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, mang lại ruộng đất cho dân cày; chưa nhận rõ
lực lượng đông đảo nhất trong nhân dân là nông dân v.v…
- Cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng một cách sâu sắc về
đường lối cứu nước thực chất là thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo.
- Phong trào Cần Vương bị thất bại vì giai cấp địa chủ phong kiến đã thối nát,
phần lớn đã đầu hàng thực dân Pháp, lại áp bức bóc lột nhân dân một cách thậm tệ.
Cho nên ngọn cờ Cần Vương không thể tập hợp được quần chúng nhân dân, chủ
yếu là nông dân.
- Cuộc khởi nghĩa của nông dân do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo bị thất bại vì
không có đường lối, chính sách rõ ràng, không tổ chức được quần chúng đông đảo,
cách đánh chưa tốt, vũ khí lại thiếu thốn….
- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu cải cách, không chủ trương đánh đổ thực dân
Pháp và bọn phong kiến tay sai.
- Cụ Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đánh đuổi thực dân Pháp, chẳng khác gì
"đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,nhưng không nhất trí với con đường mà các cụ đã
chọn. Người không theo phái Đông du sang Nhật mà hướng sang các nước phương
Tây, nơi có tư tưởng tự do, dân quyền, dân chủ và có khoa học kĩ thuật hiện đại.
Người đã kể lại "Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi đã nghe những từ Pháp: tự do,
bình đẳng, bác ái… Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những

gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy".
Đồng thời Người nhận thấy chế độ giáo dục của thực dân Pháp chỉ đào tạo
những bọn làm tay sai cho bọn thống trị và ở đâu nhân dân cũng bị áp bức bóc lột,
đồng bào cũng bị đọa đầy, khổ nhục, điều đó càng thôi thúc Người đi sang các
nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập,
hùng cường, rồi sẽ trở về "giúp đỡ đồng bào" đánh đuổi thực dân Pháp ý định ấy


của Người đã mở rộng một phương hướng mới cho sự nghiệp cứunước của nhân
dân ta.
II. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam
II.1. Quá trình chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về công tác tư tưởng cho việc
thành lập Đảng
II.1.1. Buổi đầu tìm và giác ngộ lý tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Cuối năm 1911, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Ba làm phụ bếp dưới tàu buôn Đô
đốc La-tút-sơ Tơ-rê-vi-lơ thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp. Từ đó Người đi, đi
rất nhiều, trước hết là sang Pháp. Với lòng yêu nước nồng nàn và căm thù bọn thực
dân sâu sắc. Người kiên trì chịu đựng mọi thử thách hòa mình với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đủ các màu da, để tìm lấy con đường cách mạng đúng
đắn.
Người tìm hiểu cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp năm
1789, phong trào giải phóng của các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân.
Người thấy rằng cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp nêu cao khẩu hiệu tự do, bình
đẳng nhưng không đem lại tự do, bình đẳng cho quần chúng lao động, "tiếng là
cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngòai thì nó áp bức
thuộc địa". "Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay nhưng công
nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính đến cách mạng lần thứ hai". Còn Pháp "cách
mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẳn còn phải mưu cách mệnh lần nữa
mới hòng thoát khỏi vòng áp bức".

Những kết luận trên đây được chính thức rút ra sau khi Nguyễn Tất Thành trở
thành người cộng sản. Nhưng trong quá trình tìm tòi con đường cứu nước, Người
đã sớm nhận thức được tính chất phản động của giai cấp tư sản và thấy rõ các cuộc
cách mạng trên là các cuộc cách mạng không triệt để vì nó không đem lại tự do,
bình đẳng thực sự cho nhân dân lao động.


II.1.2. Sự chuẩn bị về công tác tư tưởng tổ chức
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đã phơi trần tận gốc tính dã man,
tàn bạo, thối nát, giẫy chết của chủ nghĩa tư bản. Bước đầu Người rút ra được một
kết luận quan trọng là ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu
giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; các
dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân.
Do đó, Người nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước đều là
bạn và chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Đây là một bước chuyển biến lớn
trong nhận thức của Nguyễn ái Quốc . Người đã giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ
ta, bạn, địch, đó là giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp là bạn, còn bọn
thực dân đế quốc Pháp mới là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.
Năm 1917, từ Anh trở về Pháp, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp và lập ra
Hội những người Việt Nam yêu nước để tuyên truyền giác ngộ Việt kiều ở Pháp,
đồng thời người tập viết báo, phân phát truyền đơn và tham gia các cuộc họp, cuộc
mít tinh đến các buổi thảo luận để tố cáo thực dân Pháp và hướng sự chú ý của mọi
người vào vấn đề Đông Dương.
Giữa những ngày hoạt động sôi nổi đó thì Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ
làm chấn động toàn cầu. Cách mạng tháng Mười nga đã thức tỉnh giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vùng dậy đấu
tranh cách mạng. Nó đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, kỷ
nguyên tan rã của chủ nghĩa tư bản, kỷ nguyên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga đã có một ảnh hưởng quyết
định vào đời hoạt động của Nguyễn ái Quốc . Phấn khởi và tin tưởng vào tương lai

tươi sáng của cách mạng nước ta và cách mạng toàn thế giới, Người quyết tâm đi
theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các nước đế quốc thắng trận họp ở
Vecxai (gần thủ đô Pari) ngày18-6-1919 để chia lại thị trường thế giới. Lúc này,


Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đã đưa tới hộ
nghị bản yêu sách đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ,
quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Những yêu sách nói trên
không được chấp nhận nhưng đòn tấn công trực diện đầu tiên đó của nhà cách
mạng trẻ tuổi vào bọn trùm đế quốc đã có tiếng vang lớn đối với nhân dân Việt
Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa Pháp. Một bài học lớn đã
được rút ra: "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc;
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của
cách mạng thế giới".
Kết luận ấy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, vì nó soi sáng con
đường đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và cuộc đấu tranh của các thuộc địa
khác. Bản yêu sách đã gây tiếng vang rất lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân
Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Người Pháp coi đó như một "quả
bom" làm chấn động dư luận Pháp. Còn đối với nhân dân Việt Nam thì đó như một
"phát pháo hiệu" thức tỉnh nhân dân ta đứng dậy đấu tranh.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lênin về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa, khẳng định lập trường kiên quyết ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Từ đó, Nguyễn Ái
Quốc hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.
Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (12-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ
phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Sự
kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Cộng sản Pháp - và là người cộng sản Việt
Nam đầu tiên đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin và đi theo con đường cách mạng vô

sản. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về
đường lối giải phóng Việt Nam.


Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng
một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập ra Hội Liên hiệp thuốc địa
ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân, thông qua
tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Tờ báo Người
cùng khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách
đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc Pháp nói
riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng. Nguyễn Ái
Quốc còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời
sống công nhân (của Tổng Liên đoàn lao động Pháp) v.v.. và cuốn sách nổi tiếng
Bản án chế độ Thực dân Pháp. Mặc dù bị nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn
chặn, cấm đoán, các sách báo nói trên vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam.
Nhân dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản tri thức yêu nước, tiến bộ, nhờ
đọc các sách báo tiến bộ đó mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói
chung và chủ nghĩa thực dân Pháp nói riêng, hiểu được Cách mạng tháng Mười
Nga và đã hướng về chủ nghĩa Mác- Lênin.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc
tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn Ái Quốc ở lại Liên
Xô một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc ở Quốc tế Cộng
sản, viết bài cho báo Sự thật, tạp chí Thư tín quốc tế. Tại Đại hội Quốc tế cộng sản
lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường, quan điểm của mình về vị
trí, chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa; về mối quan hệ giữa phong trào
công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về
vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.
Những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng giải phóng
thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản mà Nguyễn Ái
Quốc đã tiếp nhận được dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đã có công



truyền bá vào nước ta từ sau chiến tranh là một bước chuẩn bị quan trọng về chính
trị và tư tưởng cho sự thành lập chính đảng ở nước ta trong giai đoạn tiếp sau.
Sau một thời gian ở lại Liên Xô để học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây
dựng đảng kiểu mới, Nguyễn Ái Quốc lên đường về tới Quảng Châu (Trung Quốc)
vào ngày 1-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt
Nam có mặt tại đây, cùng một số thanh niên hăng hái mới từ trong nước sang theo
tiếng gọi của tiêng bom Sa Diện (6-1924), để thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, trong đó có tổ chức Cộng sản đoàn làm nòng cốt, rồi truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị điều kiện cho việc thành lập chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam (6-1925).
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị để đào tạo một số
thanh niên Việt Nam trở thành những cán bộ cách mạng, từ năm 1924 đến năm
1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được chọn đi học trường Đại học
Phương Đông Liên Xô, một số được cử đi học quân sự ở Liên Xô hay Trung quốc,
còn phần lớn lên đường về nước hoạt động. Ngay sau khi Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên ra đời, tuần báo Thanh niên được xuất bản làm cơ quan tuyên truyền
của Hội. Các bài giảng trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu cũng được tập
hợp lại in thành sách Đường cách mệnh (đầu năm 1927).
Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương hướng cơ bản về
chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng cơ bản được
nêu lên: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng đông đảo nên phải được động
viên, tổ chức và lãnh đạo quần chúng vùng dạy đánh đổ các giai cấp áp bức, bóc
lột; cách mạng phải có đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo; cách mạng trong
nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới và là một bộ phận của cách
mạng thế giới. Mục đích của cuốn sách là để nói cho đồng bào ta biết rõ: "Vì sao
chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh - Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân



chúng chứ không phải việc một hai người - Đem lịch sử cách mệnh các nước làm
gương cho chúng ta soi - Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ - Ai là
bạn ta? Ai là thù ta? - Cách mệnh thì phải làm thế nào?
Đường cách mệnh được viết ra chính là để trang bị cho cán bộ và nhân dân ta
hồi đó những hiểu biết "rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 với 2 là 4, không
tô vẽ trang điểm gì cả" nhưng rõ ràng là rất cần thiết cho thắng lợi cuối cùng của
cách mạng.
Suốt trong hai năm 1926-1927, tác phẩm Đường cách mệnh, tuần báo Thanh
niên đã được bí mật chuyển từ Trung Quốc về trong nước, vào đúng lúc phong trào
yêu nước và dân chủ đang sôi nổi từ Nam ra Bắc trên cơ sở giai cấp công nhân
đang lớn mạnh nhanh chóng nên càng có điều kiện đi sâu vào quần chúng, mở
đường cho sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin và sự thành lập Đảng.
Năm 1926, các tổ chức cơ sở trong nước của Hội Việt Nam cách mạng thanh
nhiên được xây dựng ở nhiều trung tâm kinh tế chính trị quan trọng. Số hội viên
tăng nhanh, năm 1928 mới có 300 thì năm sau đã lên tới 1700 hội viên. Cho đến
trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất (5-1929), Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp cả nước. Ngoài ra, còn tổ chức một số đoàn thể
quần chúng như công hội, nông hội, hội học sinh, hội phụ nữ…
Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có chủ trương "vô sản hóa" đưa
hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân
để tự rèn luyện, đồng thời để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Phong trào "vô sản
hóa" đã góp phần thực hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước, thúc đẩy nhanh sự hình thành Đảng cộng sản
Việt Nam.
Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta,
đặc biệt là phong trào công nông theo con đường cách mạng vô sản, đã phát triển
mạnh mẽ. Trước tình hình đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đủ



sức để lãnh đạo nữa. Cần phải thành lập một Đảng Cộng sản để tổ chức và lãnh
đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước và cách
mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành lấy độc lập và tự
do.
Cuối tháng 3-1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên ở Bắc Kì, trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh đã họp ở số 5D
phố Hàm Long (Hà Nội) để lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm có 7
người, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng Cộng sản thay thế cho Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (51929) khi kiến nghị của mình đưa ra về việc thành lập Đảng Cộng sản không được
chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kì bèn rút khỏi hội nghị về nước, rồi ra lời kêu gọi
công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương
thành lập Đảng Cộng sản.
Ngày 17-6-1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội
quyết định thành lập Đông Dương cộng sản đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ
của đảng, ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
Đông dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của quần
chúng nên được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín và tổ chức của đảng phát triển rất
nhanh, nhất là Bắc kì và Bắc Trung kì.
Tiếp đó, các hội viên tiên tiến trong bộ phận Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên ở Trung Quốc và ở Nam kì cũng quyết định lập An Nam cộng sản Đảng (71929). Sự ra đời của Đông Dương cộng sản đảng (6-1929) và An Nam cộng sản
đảng (8-1929) đã tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa của Tân Việt cách mạng
đảng. Các đảng viên tiên tiến của đảng Tân Việt từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên cũng tách ra đề thàh lập Đông Dương cộng sản
liên đoàn (9-1929).


Thế là chỉ trong vòng không đầy 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9-1929) đã có 3
tổ chức Đảng Cộng sản ở Việt Nam lần lượt tuyên bố thành lập.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách

mạng Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở đảng
trong nhiều địa phương, và trực tiếp tổ chức, lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của
công nhân và nông dân. Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào với
phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu cao thuế nặng, chống cướp ruộng
đất, phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu thương, tạo thành một làn
sóng đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ khắp cả nước.
Nhưng trong một nước có ba tổ chức cộng sản hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn
nhau, tranh giành ảnh hưởng của nhau, gây nên một trở ngại lớn cho phong trào
cách mạng. Tình hình đó nếu để kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu
cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản
thống nhất trong cả nước.
Trước tình hình đó, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc có đủ quyền quyết định mọi vấn đề của phong trào cách mạng ở Đông
Dương đã thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt Nam để thành lập một Đảng
Cộng sản duy nhất.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu
Long (Hương Cảng). Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản chủ trì hội nghị.
Tham gia hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản đảng, 2 đại biểu An Nam
cộng sản đảng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, hội nghị đã hoàn toàn nhất trí tán thành thống
nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một đảng duy nhất lấy tên là Đảng cộng sản
Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Nhân dịp thành lập Đảng, Người cũng đã ra
Lời kêu gọi Hội nghị tháng 2-1930 của đại biểu các tổ chức cộng sản ở Đông


Dương để hợp nhất Đảng có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt được hội nghị thông qua là Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng.
Những văn kiện của Cương lĩnh đầu tiên đó của Đảng đã vạch rõ cách mạng

Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai
đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh
viết: "Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản".
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã kết thúc thời kỳ dài mười năm
chuẩn bị công phu, khoa học về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc để tiến đến thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đủ khả
năng lãnh đạo phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
* Tóm lại: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn liền với vai trò vĩ đại của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc, thể hiện rõ ở các vấn đề sau đây:
- Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu học thuyết chủ
nghĩa Mác-Lênin, đồng thời, hướng cách mạng Việt Nam đi theo con đường đó và
giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi bế tắc đường lối cứu nước. Người đầu tiên
gắn chặt ngọn cờ độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội cho sự nghiệp cách mạng
Việt Nam.
- Thứ hai, bằng phương pháp cách mạng đầy tính khoa học, sáng tạo và tinh thần
cống hiến quên mình, Nguyễn Ái Quốc đã tạo ra hệ thống giao thông liên lạc bí
mật, rất chặt chẽ, đa chiều từ nước ngoài về Việt Nam và ngược lại.
Kết quả là Người đã truyền bá thành công chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam,
đánh lùi các tư tưởng cứu nước sai trái. Tuyển chọn và đào tạo nên đội ngũ cán bộ
cộng sản đầu tiên cho cách mạng Việt Nam.


- Thứ ba, bằng uy tín và sự chuẩn bị chu đáo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã thống
nhất thành công các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tạo sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức trong phong trào đấu
tranh cách mạng. Đây là những điều kiện thiết yếu để đưa cách mạng Việt Nam đi
đến thành công.

- Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng nghĩa với việc Nguyễn Ái Quốc
đã phá tan sự đơn độc tồn tại lâu đời, thiết lập nên sự đoàn kết, thống nhất hành
động giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước Đông Dương. Đặc biệt là
đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăn khít của cách mạng thế giới.

C. KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10-1930 lấy tên là Đảng Cộng sản Đông
Dương) ra đời năm 1930 là một sản phẩm của cách mạng nước ta, là kết quả của
một quá trình chuẩn bị lâu dài và gian khổ của Nguyễn Ái Quốc.
Sau 10 năm chuẩn bị đầy đủ về các mặt chính trị, tổ chức và đặc biệt là công tác
tư tưởng thì Đảng Mác xít Lênin nít Việt Nam đã ra đời trong điều kiện hoàn toàn


chín muồi, bước vào lãnh đạo cao trào cách mạng trong cả nước, đó chính là nhờ
có phương pháp tốt và công phu chuẩn bị chu đáo của Nguyễn Ái Quốc.
Chính Người và những người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã biết khéo léo kết
hợp việc tuyên truyền nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin với công tác cổ động chính
trị hàng ngày nhằm đưa quần chúng hành động theo phương hướng và đường lối
của chủ nghĩa mác - xít. Người đã biết thông qua đội ngũ những người trí thức
cộng sản làm cầu nối đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào công nhân, nông dân và trí
thức, nhằm "vô sản hóa" họ và đã kết hợp phát triển tổ chức quần chúng yêu nước
rộng rãi thành những tổ chức làm hạt nhân cho Đảng sau này.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay cũng như đất nước đang
tiến vào công cuộc hội nhập toàn cầu thì mỗi chúng ta phải nhận thức rõ vai trò to
lớn của Nguyễn Ái Quốc đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
Quan trọng hơn, để công lao của Người không bị uổng phí, mỗi cán bộ đảng
viên của Đảng, đặc biệt những người hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng lý luận tự
hào luôn có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học tập để thấm nhuần đạo đức cách mạng
của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở “Kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với

thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, tích
cực nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập đạo đức
và phong cách của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong
công cuộc đổi mới, đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của
Đảng, hạ thấp uy tín của Người đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực
hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng trong cuộc sống.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ái Quốc toàn tập, tập 1 và 2, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm
1995.
2. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Sự thật, năm 1981.
3. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục.
4. Nguyễn Ái Quốc những sự kiện - NXB thông tin lí luận 1990.
5. Nguyễn ái Quốc tóm tắt tiểu sử và sự nghiệp. SGK Lịch sử 12 - NXB Giáo dục
năm 2005.


6. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước - NXB Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
7. Con đường cứu nước Hồ Chí Minh, TS. Phạm Ngọc Trâm - NXB Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc (1911- 1941), Ts. Trần Nam Tiến –
NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb.
Chính trị Quốc gia, H.2011, tr.255.
10. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ( />



×