Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Những điểm mới trong Luật ngân sách nhà nước năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.73 KB, 8 trang )

Những điểm mới trong Luật ngân sách nhà nước năm 2015
Ngày 25/6/2015, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật Ngân sách nhà
nước (sửa đổi). Đây là đạo luật quan trọng tạo bước ngoặt mới trong quản lý ngân sách
nhà nước theo hành lang pháp lý mới đầy đủ và đồng bộ hơn, phù hợp với tình hình thực
tế hiện nay, xu hướng hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách tài
chính công theo hướng hiện đại.

Đảo đảm toàn diện, đồng bộ và chặt chẽ trong quản lý ngân sách nhà nước
Trên cơ sở tổng kết 13 năm thực hiện, để khắc phục các tồn tại, bất cập của Luật Ngân
sách Nhà nước (NSNN) năm 2002, Luật NSNN mới đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung
quan trọng, như: phạm vi NSNN (Điều 5), bội chi NSNN (khoản 4 Điều 4), mức dư nợ
vay của ngân sách cấp tỉnh (khoản 6 Điều 7), dự phòng NSNN (Điều 10), quỹ dự trữ tài
chính (Điều 11)... Nội dung về phân cấp quản lý NSNN phù hợp với phân cấp kinh tế - xã
hội giữa các cấp chính quyền cũng được rà soát để phù hợp với quy định hiện hành, đồng
bộ với Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng được Quốc
hội thông qua tại Kỳ họp thứ 9.
Đặc biệt, Luật NSNN mới đã bám sát quy định tại Điều 55 của Hiến pháp năm 2013, đó
là: “NSNN, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do
Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh
bạch, đúng pháp luật. NSNN gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong
đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các


khoản thu, chi NSNN phải được dự toán và do luật định”. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội tại điều 70, đó là: Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy
định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ
chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn
nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán NSNN và phân bổ ngân sách
trung ương, phê chuẩn quyết toán NSNN.
Thực hiện quy định của Hiến pháp về việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống NSNN
và của nền tài chính quốc gia, Luật NSNN mới đã thể hiện sự thống nhất xuyên suốt


trong các quy định về chính sách thu, chi ngân sách, định mức phân bổ ngân sách, bổ
sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản
thu giữa ngân sách các cấp… Các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn về chi NSNN đều do
trung ương ban hành và thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước. Mọi khoản thu ngân
sách được tập trung vào KBNN và do cơ quan có nhiệm vụ thu NSNN thực hiện trên
phạm vi toàn quốc. Mọi khoản chi NSNN chỉ được thực hiện khi có dự toán được cấp có
thẩm quyền giao và đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định.
Luật NSNN mới cũng đã bảo đảm tính đồng bộ với các Luật có liên quan trong hệ thống
các luật về tổ chức bộ máy nhà nước như Luật tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ,
Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đầu tư công, Luật
Quản lý nợ công…
Các nguyên tắc về cân đối, quản lý ngân sách nhà nước
Khác với Luật NSNN năm 2002, các nguyên tắc quản lý NSNN nằm rải rác ở nhiều điều
luật khác nhau. Lần này, Luật NSNN mới đã nhóm thành các nguyên tắc trong 4 điều luật
cụ thể, đó là: Nguyên tắc cân đối NSNN (Điều 7); Nguyên tắc quản lý NSNN (Điều 8):
Nguyên tắc phân cấp quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách
(Điều 9); Nguyên tắc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa
phương (Điều 39). Đây là những nguyên tắc xuyên suốt, bất di bất dịch trong quản lý
NSNN đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở nước ta và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Theo thông lệ quốc tế, các khoản vay để bù đắp bội chi NSNN phải được bố trí trả nợ lãi
theo phân loại chi thường xuyên của NSNN (GFS 2001); còn các khoản trả nợ gốc được
hạch toán riêng, nhưng vẫn theo dõi và phản ánh đầy đủ trong cân đối NSNN hàng năm
để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ với các tổ chức quốc tế và nhà đầu tư. Thực tế
hiện nay, chi NSNN ở Việt Nam vẫn bao gồm chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do


Chính phủ vay, trong khi bội chi NSNN lại bao gồm toàn bộ các khoản vay để bù đắp
chênh lệch thu, chi NSNN; Như vậy, trong phương pháp và cách thức xác định bội chi

NSNN, phần vay sẽ phản ánh 2 lần trong chi ngân sách dẫn đến trùng lắp: lần thứ nhất sử
dụng nguồn vay để chi, lần thứ 2 là chi trả nợ gốc khi đến hạn. Do đó, mức bội chi NSNN
của Việt Nam thường cao hơn so với phương pháp tính bội chi ngân sách theo thông lệ
quốc tế.
Để phản ánh đúng bản chất các khoản vay, phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng cường tính
minh bạch, Luật NSNN mới đã quy định tại một số điều, khoản như: khoản 12, Điều 4
quy định rõ: “Chi trả nợ là nhiệm vụ chi của NSNN để trả các khoản nợ đến hạn phải trả,
bao gồm khoản gốc, lãi, phí và chi phí khác phát sinh từ việc vay”; Điều 5 về phạm vi
NSNN đã quy định về thu, chi, bội chi NSNN và tổng mức vay của NSNN (bao gồm vay
để bù đắp bội chi NSNN và vay để trả nợ gốc của NSNN); Điều 19 quy định thẩm quyền
của Quốc hội quyết định tổng mức vay của NSNN và trả nợ gốc các khoản vay của
NSNN. Trong quá trình điều hành NSNN nếu có số tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách so
với dự toán thì được sử dụng ưu tiên cho việc tăng chi trả nợ (bao gồm trả nợ gốc và lãi
(khoản 2 Điều 59). Cuối năm ngân sách nếu có kết dư của ngân sách trung ương và ngân
sách cấp tỉnh cũng phải bố trí chi trả nợ gốc và lãi các khoản vay của NSNN (Điều 72).
Như vậy, với quy định tại các điều, khoản nêu trên đã thể hiện các trường hợp chi trả nợ
gốc và lãi của NSNN. Đối với chi trả nợ gốc khi đến hạn được bố trí từ các khoản vay
mới theo quy định của pháp luật để thực hiện. Số bội chi được xác định bằng phần chênh
lệch giữa số vay mới trừ đi chi trả nợ gốc. Trường hợp số vay mới lớn hơn số chi trả nợ
gốc tại thời điểm vay, thì phát sinh bội chi NSNN. Việc vay nợ sẽ được quản lý và giám
sát chặt chẽ, bội chi NSNN những năm tới (bao gồm cả trái phiếu chính phủ) sẽ không bị
tính trùng khoản chi trả nợ gốc, phản ánh đúng mức dư nợ vay của Chính phủ, góp phần
kiểm soát và giảm dần mức dư nợ công trong tương lai.
Quy định về bội chi ngân sách địa phương
Lần đầu tiên Luật NSNN mới quy định bội chi ngân sách địa phương (NSĐP) là một cấu
phần trong bội chi NSNN. Nói cách khác, bội chi NSNN bao gồm bội chi ngân sách trung
ương (NSTW) và bội chi NSĐP. Đây là điểm mới quan trọng để tăng cường kiểm soát bội
chi NSNN. Nguồn bù đắp bội chi NSNN từ việc vay trong nước và vay nước ngoài, bao
gồm cả việc vay từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ quốc và các
khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật (Điều 7).

Luật NSNN mới quy định chỉ NSĐP cấp tỉnh mới được phép bội chi. Bội chi NSĐP chỉ
được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công 5 năm đã được Hội đồng


Nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết định... Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép
bội chi NSĐP để bảo đảm phù hợp với khả năng trả nợ của địa phương và tổng mức bội
chi chung của NSNN. Bên cạnh đó, Luật NSNN mới cũng đã nêu rõ những quy định về
mức dư nợ vay của NSĐP.
Nguyên tắc thu, chi
Tại Điều 55 Hiến pháp quy định: “Các khoản thu, chi phải được dự toán và do luật định”.
Đây là một nguyên tắc trong quản lý NSNN, phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, Luật
NSNN mới đã quy định: “Các khoản thu ngân sách thực hiện theo quy định của các luật
thuế và chế độ thu theo quy định của pháp luật” (khoản 3 Điều 8); “Các khoản chi ngân
sách chỉ được thực hiện khi có dự toán được cấp có thẩm quyền giao và phải bảo đảm
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan có thẩm quyền quy định” (khoản 4
Điều 8)... Đồng thời, quy định hành vi bị cấm: xuất quỹ NSNN tại Kho bạc Nhà nước mà
không có trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định (khoản 11 điều 18).
Thực hiện phân cấp, phân quyền
Luật NSNN mới đã thực hiện phân cấp, phân quyền khá đầy đủ, toàn diện, rõ ràng, phù
hợp với tình hình thực tế: Thẩm quyền của Quốc hội được quy định tại Điều 19, theo đó
Quốc hội quyết định bội chi NSNN, bao gồm bội chi NSTW và bội chi NSĐP, chi tiết
từng địa phương và quyết định nguồn bù đắp bội chi NSNN. Luật NSNN mới đã quy
định một số thẩm quyền cho ý kiến và quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
NSNN tại Điều 20. Bên cạnh đó, Luật NSNN mới đã phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm
vụ chi giữa NSTW và NSĐP (Điều 35, 36, 37, 38), đồng thời giao HĐND cấp tỉnh căn cứ
nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSĐP đã được phân cấp để quyết định phân cấp cụ thể
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa phương theo các nguyên tắc cụ thể
quy định tại Điều 39.
Đặc biệt, HĐND có quyền giao tăng chỉ tiêu thu NSNN trên địa bàn. Điều này phù hợp
với thực tế hiện nay khi Thủ tướng Chính phủ thực hiện giao dự toán thu NSNN trên địa

bàn cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương...
Quy trình ngân sách, lịch biểu tài chính
Luật NSNN mới đã quy định thời gian lập dự toán NSNN bắt đầu từ 15/5 để phù hợp với
Luật Đầu tư công; đồng thời, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với
các cơ quan của Chính phủ trong thảo luận dự toán NSNN thuộc ngành, lĩnh vực phụ
trách (giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, khoa học công nghệ...). Theo đó, nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong lĩnh vực phụ trách có


trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan của Chính phủ để lập dự toán NSNN
ngành, lĩnh vực. Tại điều 44 đã quy định rõ về quy trình lập dự toán NSNN.
Các khoản thu ngân sách nhà nước
Không chỉ số thu từ thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, Luật NSNN mới đã khẳng
định số thu từ lệ phí và phí thực hiện nộp NSNN theo quy định của pháp luật. Lệ phí là
khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được
ủy quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước. Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải
trả (trao đổi ngang giá) khi được cung cấp dịch vụ công. Vì vậy, cần thiết quy định thuế
và lệ phí là khoản thu bắt buộc thuộc NSNN. Còn đối với phí, chỉ thu vào NSNN đối với
phần chênh lệch giữa thu và chi của một số loại phí; riêng học phí, viện phí và khoảng
hơn 10 loại phí khác dự kiến chuyển sang giá dịch vụ, là doanh thu của các đơn vị cung
cấp dịch vụ công, sẽ được quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong Luật phí, lệ phí.
Luật NSNN mới quy định thu từ hoạt động xổ số kiến thiết và thu tiền sử dụng đất đều
đưa vào cân đối NSNN (như Luật NSNN năm 2002) nhưng không sử dụng để xác định tỷ
lệ phần trăm (%) phân chia nguồn thu giữa NSTW và NSĐP hoặc xác định số bổ sung
cân đối từ NSTW cho NSĐP. Ngoài ra, Luật NSNN mới còn quy định rõ các khoản thu
NSNN bao gồm thu từ đầu tư ra nước ngoài, thu từ cổ tức thuộc vốn cổ phần của Nhà
nước và thu tiền bán vốn, tài sản Nhà nước sau khi giảm trừ chi phí cổ phần hoá, thu lợi
nhuận còn lại sau khi trích lập các quỹ theo quy định của pháp luật tại các doanh nghiệp
Nhà nước... để bảo đảm tính bao quát và toàn diện các khoản thu NSNN.
Phạm vi chi ngân sách nhà nước cho các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách

nhà nước
Hiện nay, có nhiều quỹ ngoài ngân sách, cần thu hẹp các quỹ, quản lý chặt chẽ hơn, bảo
đảm sự tập trung của NSNN, tránh sự chồng chéo trong quản lý. Các quỹ hiện nay chủ
yếu được thành lập theo quy định tại nhiều Luật và Nghị định có tính chất chuyên ngành
nên với phạm vi điều chỉnh đặc thù, Luật NSNN mới quy định nguồn thu nào thuộc phạm
vi ngân sách thì phải nộp về NSNN và điều kiện để NSNN hỗ trợ vốn điều lệ cho các quỹ
nhằm hạn chế việc thành lập mới các quỹ ngoài ngân sách.
Để hạn chế chi chuyển nguồn, Luật NSNN mới chỉ cho phép chuyển nguồn sang năm sau
đối với một số khoản chi như: mua sắm trang thiết bị, nguồn cải cách tiền lương, kinh phí
tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ quan nhà nước, các khoản dự toán bổ
sung sau 30/9 năm hiện hành...
Bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp


dưới
Về bổ sung cân đối (khoản 8 Điều 9): Luật NSNN mới quy định: “Sau mỗi thời kỳ ổn
định ngân sách, các địa phương phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa
phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm
(%) nộp về ngân sách cấp trên đối với các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách”.
Quy định trên nhằm tăng cường trách nhiệm của các địa phương phát triển kinh tế, tăng
quy mô ngân sách, góp phần bảo đảm cân đối NSNN vững chắc.
Về bổ sung có mục tiêu của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới (khoản 3 Điều
40): Luật NSNN mới quy định 4 trường hợp được ngân sách cấp trên bổ sung có mục tiêu.
Số bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới được xác định theo
định mức phân bổ ngân sách và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách; khả năng
ngân sách cấp trên và khả năng cân đối ngân sách của từng địa phương cấp dưới, để hỗ
trợ ngân sách cấp dưới trong các trường hợp cụ thể.
Dự phòng ngân sách
Luật NSNN mới đã không quy định về dự phòng ngân sách tại một số bộ, ngành trung
ương, vì cho rằng nếu quy định thì sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc giao, phân bổ ngân sách

phải bảo đảm đủ, đúng cho các cơ quan sử dụng NSNN theo nghị quyết của Quốc hội,
quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Dự phòng NSNN là một khoản mục trong dự toán
chi ngân sách chưa phân bổ đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định ở từng cấp ngân
sách. Mức bố trí dự phòng từ 2% đến 4% tổng chi ngân sách mỗi cấp. Dự phòng NSNN
sử dụng để: Chi phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ, dịch bệnh, cứu đói;
nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh và các nhiệm vụ cần thiết khác....
Luật cũng quy định: Chính phủ quy định thẩm quyền quyết định sử dụng dự phòng ngân
sách trung ương, định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội việc sử dụng dự phòng
ngân sách trung ương và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Khắc phục một số vấn đề tồn tại trong điều hành ngân sách nhà nước hiện nay
Về ứng trước dự toán năm sau (Điều 57): Để bảo đảm kỷ cương tài chính, Luật NSNN
mới đã quy định việc ứng trước dự toán năm sau: “Ngân sách trung ương, ngân sách cấp
tỉnh và ngân sách cấp huyện được ứng trước dựtoán ngân sách năm sau để thực hiện các
dự án quan trọng quốc gia, các dự án cấp bách của trung ương và địa phương thuộc kế
hoạch đầu tư trung hạn nguồn NSNN đã được cấp có thẩm quyền quyết định. Mức ứng
trước không quá 20% dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản năm thực hiện của các công
trình xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch đầu tư trung hạn nguồn NSNN đã được phê


duyệt...”.
Về thưởng vượt thu: Luật NSNN đã quy định về thưởng cho ngân sách địa phương tại
khoản 4 điều 59 như sau: “Trường hợp ngân sách trung ương tăng thu so với dự toán từ
các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương với ngân sách địa phương, ngân sách
trung ương trích một phần theo tỷ lệ không quá 30% của số tăng thu thưởng cho các địa
phương có tăng thu nhưng không vượt quá số tăng thu so với mức thực hiện năm
trước...”.
Về chuyển nguồn ngân sách: Để hạn chế chi chuyển nguồn, Luật NSNN mới đã quy
định tại khoản 3 Điều 64, chỉ cho phép chuyển nguồn sang năm sau đối với một số khoản
chi như: mua sắm trang thiết bị, nguồn cải cách tiền lương, kinh phí tự chủ của các đơn vị
sự nghiệp công lập và cơ quan nhà nước, các khoản dự toán bổ sung sau 30/9 năm hiện

hành, kinh phí nghiên cứu khoa học, khoản tăng thu, tiết kiệm chi của các ngành, địa
phương; đối với chi đầu tư phát triển thì thực hiện chuyển nguồn sang năm sau theo quy
định của Luật Đầu tư công.
Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
Theo quy định của Luật NSNN mới thì thu NSTW được hưởng theo phân cấp chiếm bình
quân khoảng 66-70% tổng thu NSNN, nếu tính cả bội chi NSNN chiếm khoảng 70-75%
tổng nguồn thu NSNN, thu NSĐP theo phân cấp (chưa kể số bổ sung cân đối và bổ sung
có mục tiêu từ NSTW cho NSĐP) chiếm bình quân khoảng 25-30% tổng nguồn NSNN,
do vậy, NSTW đã chiếm vai trò chủ đạo, đúng như quy định của Hiến pháp năm 2013.
Một số nguồn thu lớn tiếp tục là nguồn thu của NSTW nhưng đồng thời chuyển khoản thu
thuế TNDN của các đơn vị hạch toán tập trung thành khoản thu phân chia giữa NSTW và
NSĐP. Nội dung này được thể hiện tại Điều 35, Điều 37 của Luật NSNN mới.
Quy định về quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra
Để quản lý hiệu quả việc sử dụng ngân sách, Luật NSNN mới đã giao Chính phủ quy
định việc thực hiện quản lý ngân sách theo kết quả thực hiện nhiệm vụ (khoản 15 Điều
25); đồng thời, tại khoản 1 điều 61 quy định: “Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chịu
trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách theo dự toán được giao, đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn,
định mức chi ngân sách”.
Ngoài những nội dung nêu trên, Luật NSNN mới đã sử dụng thuật ngữ “Kế hoạch tài
chính 5 năm” cho phù hợp với Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Đồng thời, bổ
sung làm rõ về nội dung, ý nghĩa, thủ tục lập Kế hoạch tài chính 5 năm (Điều 17). Quy


định phương pháp xây dựng kế hoạch tài chính - NSNN 3 năm theo phương thức cuốn
chiếu, được lập cho năm dự toán và 2 năm dự báo (Điều 43). Luật NSNN mới đã dành 2
Điều (điều 15 và điều 16) để quy định về công khai ngân sách và giám sát ngân sách của
cộng đồng. Luật NSNN mới cũng đã quy định việc kế toán, quyết toán thu, chi NSNN tại
điều 13, quy định về quản lý ngân quỹ nhà nước tại điều 62... Bên cạnh đó, theo Luật
NSNN mới, thời kỳ ổn định ngân sách được quy định với thời gian 5 năm, trùng với kỳ

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Luật NSNN mới có hiệu lực từ năm ngân sách
2017.



×